LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ Thầy hướng dẫn. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này
là trung thực và chưa ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Ngày tháng năm 2011
Tác giả
Lê Thị Mỹ Dung
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- BHXH : Bảo hiểm xã hội
- BHYT : Bảo hiểm y tế
- KPCĐ : Kinh phí công đoàn
- BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp
- BHLĐ : Bảo hộ lao động.
- CCDC : Công cụ dụng cụ
- CP NVLTT : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- CP NCTT : Chi phí nhân công trực tiếp
- CP SXC : Chi phí sản xuất chung
- NVL : Nguyên vật liệu
- TSCĐ : Tài sản cố định
- SP : Sản phẩm
- SXC : Sản xuất chung
- HĐQT : Hội đồng quản trị
- ĐHĐCĐ : Đại hội đồng cổ đông
- BKS : Ban kiểm soát
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
S 1.9: H th ng d toán s n xu tơđồ ệ ố ự ả ấ 35
BIỂU ĐỒ
Biểu 2.1: Một số chỉ tiêu tài chính của công ty qua các năm Error: Reference
source not found
Biểu 2.2 Bảng chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp nhân công tháng 12/2010
Error: Reference source not found
Biểu 2.3 Trích bảng khấu hao TSCĐ do Phòng tài chính kế toán công ty
tính và trích lập gửi đến các bộ phận Error: Reference source not
found
Biểu 2.4: Thẻ tính giá thành sản phẩm đường Error: Reference source not
found
Biểu số 3.1: Phiếu lĩnh vật tư vượt định mức Error: Reference source not found
Biểu số 3.2. Bảng tổng hợp chi phí định mức cho một đơn vị sản phẩm Error:
Reference source not found
Biểu số 3.3: Báo cáo kiểm soát chi phí Error: Reference source not found
TÓM TẮT
Trong xu thế điều kiện hiện nay khi nền kinh tế đang phát triển mạnh
mẽ, các ngành sản xuất vật chất ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm luôn là yếu tố có ý nghĩa hàng đầu để doanh nghiệp có thể
tái sản xuất và tìm kiếm lợi nhuận.
Chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn của doanh
nghiệp vào đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành nhất định, nó là vốn
của doanh nghiệp bỏ vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, để quản lý
có hiệu quả và kịp thời đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình các
doanh nghiệp luôn cần biết số chi phí đã chi ra cho từng loại hoạt động, từng
loại sản phẩm, dịch vụ trong kỳ là bao nhiêu, số chi phí đã chi đó cấu thành
trong số sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành là bao nhiêu. Giá thành sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ là câu trả lời cho các vấn đề này này.
Chi phí và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu quan trọng trong hệ
thống các chỉ tiêu kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Cho nên có thể nói, tổ
chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vai trò quan trọng
trong sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp, đó là một yêu cầu
thiết thực, một vấn đề đang được các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu hiện
nay. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp cho doanh nghiệp ngày càng đứng
vững và phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế.
Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn là một đơn vị sản xuất công
nghiệp, chính vì vậy việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất tính giá thành sản
phẩm đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty. Trong những năm qua công ty đã có nhiều cố gắng
trong việc hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành,
i
mặc dù vậy, việc tập hợp chi phí sản xuất của công ty còn những hạn chế nhất
định như việc mã hoá các danh mục vật tư chưa thống nhất dễ gây ra tình
trạng nhầm lẫn; việc phân bổ giá trị công cụ, dụng cụ xuất dùng có giá trị lớn
không tuân theo tiêu thức phân bổ nào; chưa hướng tới việc thiết lập các báo
cáo kế toán quản trị cho công ty; chưa coi trọng việc xác định định mức vật tư
sử dụng cho sản xuất … điều này dẫn đến công tác kế toán chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm trong công ty chưa thực sự hiệu quả.
Xuất phát từ những lý do trên, sau khi nghiên cứu tình hình thực tế tại
Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, tôi đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty cổ phần mía
đường Lam Sơn” .
Bố cục của luận văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm ở Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty cổ phần mía
đường Lam Sơn.
Trong chương 1, luận văn nghiên cứu lí luận chung về chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm. Luận văn tìm hiểu bản chất và nội dung kinh tế
của chi phí và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
Chi phí sản xuất là toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động
vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm).
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những hao phí về lao
động sống cần thiết và lao động vật hoá được tính trên một khối lượng kết quả
ii
sản phẩm lao vụ, dịch vụ hoàn thành nhất định. Quá trình sản xuất là một quá
trình thống nhất bao gồm hai mặt: hao phí bỏ ra và kết quả thu về. Tất cả các
khoản hao phí (kỳ này và kỳ trước) có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao
vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Chi phí và giá thành có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm là hai mặt của quá trình hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện ở chỗ: Chi phí sản
xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm còn giá thành sản phẩm lại là thước đo
mức chi phí sản xuất thực tế để sản xuất ra từng loại sản phẩm, từ đó để kiểm soát,
giám sát các chi phí sản xuất đã bỏ ra.
Trong chương 1 của luận văn đã trình bày được nội dung cơ bản của lý luận
về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
theo chế độ, chính sách của Nhà nước. Từ cơ sở lý luận này luận văn đã hệ thống
hóa, khái quát hóa và nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về kế toán chi phí và
tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp. Trên cơ sở đó luận văn vận dụng lý
luận nghiên cứu thực trạng kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Công ty
cổ phần mía đường Lam Sơn trong chương 2.
Công ty cổ phần Mía Đường Lam Sơn được thành lập theo Quyết định
số 1133/QĐ-TTg ngày 6/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ chuyển Công ty
đường Lam Sơn thành Công ty cổ phần Mía Đường Lam Sơn. Công ty cổ
phần Mía Đường Lam Sơn (Lam son sugar cane Joint Stock Corporation, viết
tắt là Lasuco). Công ty Đường Lam Sơn là doanh nghiệp mía đường đầu tiên
cổ phần hóa và cũng là doanh nghiệp chế biến nông sản đầu tiên thí điểm bán
cổ phần ưu đãi cho người trồng nguyên liệu.
Về nhãn hiệu thương mại, đăng ký phát minh sáng chế và bản quyền: thực
hiện theo hướng dẫn của Bộ khoa học và công nghệ môi trường, Lasuco đã công
bố chất lượng hàng hoá theo tiêu chuẩn cơ sở, đối với các sản phẩm. Năm 2005 đã
iii
được Cục sở hữu thuộc Bộ khoa học công nghệ cấp giấy chứng nhận độc quyền
đối với kiểu dáng công nghiệp cho các loại đường do Lasuco sản xuất.
Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn có đặc điểm kinh doanh chính là :
Công nghiệp đường, cồn, nha, nước uống có cồn và không có cồn; Chế biến các
sản phẩm sau đường, nông – lâm sản, Chăn nuôi bò sữa, chế biến sữa, bò thịt,
Dựa vào lý luận về kế toán chi phí sản xuất tính giá thành sản phẩm đã
trình bày trong chương 1 luận văn sử dụng phương pháp khảo sát, so sánh,
đánh giá, phân tích, tổng hợp…. để làm rõ vấn đề đặt ra cần giải quyết, đưa ra
giải pháp hoàn thiện. Luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành tại Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn. Các nội
dung này được tác giả đề cập rất kỹ trong từng nội dung cụ thể của luận văn
từ đó đưa ra đánh giá, nhận xét những ưu điểm, nhược điểm về thực trạng kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần mía
đường Lam Sơn nhằm đưa ra giải pháp giúp công ty hoàn thiện kế toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Bên cạnh những ưu điểm đã trình bày ở trên, việc hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại Lasuco còn tồn tại một số vấn đề cần hoàn
thiện hơn nữa nhằm phát huy vai trò và hiệu quả của công tác kế toán trong
doanh nghiệp. Dựa trên những tồn tại đó, chương 3 đã đưa ra những kiến nghị
nhằm hoàn thiện hơn nũa hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại công ty cụ thể:
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí phù hợp với sản xuất kinh
doanh, phù hợp với yêu cầu quản lý chi phí sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc tập hợp chi phí một cách nhanh chóng, hiệu quả và trong công tác
tính giá thành sản phẩm của Công ty.
iv
Do đặc thù riêng của doanh nghiệp là cùng một quy trình sản xuất, sử
dụng cùng lượng vật liệu và nhân công nhưng thu được nhiều sản phẩm
đường khác nhau nên chi phí sản xuất được tập hợp theo phân xưởng sản xuât
và theo từng nhà máy. Cuối kỳ tính giá thành, kế toán sẽ sử dụng các phương
pháp nghiệp vụ để thực hiện việc tính giá thành cho từng loại sản phẩm.
Đối tượng tính giá thành.
Nhà máy đường số 2 là một đơn vị trực thuộc của Công ty cổ phần mía
đường Lam Sơn. Nhà máy có dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, liên
tục và mang tính tự động hoá cao. Công nhân trực tiếp sản xuất có trách
nhiệm theo dõi sự vận hành của máy móc, thiết bị ở mỗi công đoạn trên dây
chuyền sản xuất. Công nhân sản xuất được chia làm 3 ca thay phiên nhau vận
hành máy liên tục 24h/ngày. Tại công ty mía đường Lam sơn đối tượng tính
giá thành là các sản phẩm hoàn thành vào cuối quy trình công nghệ như các
sản phẩm đường.
Về chi phí nguyên vật liệu: cơ bản doanh nghiệp đã hạch toán đầy đủ và
tuân thủ theo chế độ kế toán hiện hành. Tất cả các loại vật tư, nguyên nhiên vật
liệu đưa vào sản xuất tại nhà máy Đường 2 đều do Công ty cung cấp. Đối với
mía cây khi mua sẽ được vận chuyển trực tiếp về nhà máy. Sau khi kiểm tra chất
lượng và tiến hành cân, được tập kết vào bãi mía. Ở mỗi bó mía có thẻ đánh số
thứ tự của bó mía nhập trong ngày.
Kế toán tại nhà máy và kế toán công ty thực hiện ghi chép quá trình
cung cấp như là nghiệp vụ thanh toán nội bộ. Căn cứ vào phiếu xuất kho
nguyên vật liệu, vật tư từ kho của công ty để kế toán tại nhà máy lập phiếu
nhập kho. Nhìn chung về cơ bản hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
tương đối tốt, ít bị sai phạm trong hạch toán.
Về chi phí nhân công trực tiếp: Toàn bộ chi phí nhân công trực tiếp được
theo dõi trên TK 622- Chi phí nhân công trực tiếp. Đối với công nhân sản xuất,
v
để khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm,
công ty đã áp dụng hình thức tiền lương khoán sản phẩm. Cụ thể, công ty cổ
phần mía đường Lam Sơn giao khoán toàn bộ quỹ lương cho Nhà máy đường
số II. Quỹ lương này được giao khoán trên khối lượng sản phẩm hoàn thành.
Lương khoán được áp dụng cho cả lao động trực tiếp và lao động gián
tiếp. Cụ thể, trong vụ ép mía năm 2010 – 2011, mức lương sản phẩm do Công
ty khoán cho nhà máy đường số II là 180.000đ/tấn sản phẩm cho công nhân
trực tiếp sản xuất. Lương nhân viên gián tiếp, cụ thể là bộ phận quản lý nhà
máy là được tính là 7,8% lương công nhân sản xuất. Bên cạnh tiền lương
khoán theo sản phẩm, Công ty còn thanh toán tiền ăn ca, phụ cấp độc hại, tiền
làm ca 3 cho công nhân sản xuất của công ty.
Tại Nhà máy đường số II nói riêng và Công ty cổ phần mía đường Lam
Sơn nói chung không trích trước tiền lương nghỉ phép cho công nhân. Trong
tổng tiền lương khoán theo sản phẩm đã bao gồm cả lương nghỉ phép cho
công nhân sản xuất. Do doanh nghiệp là đơn vị sản xuất theo thời vụ nên việc
không trích trước tiền lương nghỉ phép có thể coi là một hạn chế và luân văn.
Về chi phí sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung là những chi phí còn
lại liên quan trực tiếp đến việc phục vụ sản xuất trong phạm vi nhà máy, ở
Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, Các chi phí này được tập hợp chung
cho toàn doanh nghiệp trên TK cấp 1- TK 627 và chi tiết theo từng khoản
mục phí. Đến cuối tháng, kế toán phân bổ CPSXC cho từng sản phẩm sản
xuất trong tháng theo tiêu thức lựa chọn nhất định. Chi phí sản xuất chung
gồm các nội dung sau:
Chi phí nhân viên phân xưởng: Chi phí nhân viên quản lý phân xưởng ở
nhà máy đường số 2 Việc tính lương cho toàn bộ quản lý nhà máy được tính
7,8% lương của công nhân trực tiếp sản xuất,(chưa bao gồm các khoản phụ
cấp ca ba, ăn ca, phụ cấp độc hại )
vi
Chi phí vật liệu; chi phí CCDC, BHLĐ:
Chi phí khấu hao tài sản cố định: Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn
quản lý toàn bộ tài sản cố định của đơn vị thành viên. Hàng tháng việc tiến
hành trích khấu hao TSCĐ được kế toán Công ty thực hiện, sau đó sẽ gửi
bảng tính khấu hao chi tiết của từng loại tài sản gửi cho các đơn vị sử dụng.
Chi phí khác bằng tiền: Chi phí khác bằng tiền được tính vào chi phí sản
xuất chung ở nhà máy bao gồm: Chi phí tiếp khách, hội nghị toạ đàm, chi phí
kiểm định, chi phí chè nước công nghiệp, công tác phí, sữa chữa nhỏ, chi phí các
đơn vị phục vụ phân bổ cho sản xuất đường và các khoản chi bằng tiền khác
Về phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang: Tại Nhà máy, kế toán định
kỳ hàng tháng phải thực hiện việc chuyển số liệu về chi phí phát sinh liên
quan, nên đánh giá giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ của sản phẩm được thực
hiện hàng tháng. Nhà máy tiến hành tập hợp chi phí dở dang cuối tháng theo
các khoản mục sau:
Kiểm kê nguyên vật liệu chính là mía cây còn tồn tại bãi tập kết
Vào cuối tháng để xác định sản phẩm làm dở, công ty sử dụng
phương pháp đánh giá theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Căn cứ vào
số lượng bán thành phẩm dở dang trên mỗi công đoạn sản xuất, dựa theo
tiêu chuẩn kỹ thuật để quy đổi ra số lượng thành phẩm tương đương và
tính giá trị của bán thành phẩm theo khối lượng hoàn thành tương đương,
việc lập và tính lượng bán thành phẩm dở dang được bộ phận kỹ thuật của
Nhà máy thực hiện.
Về phương pháp tính giá thành sản phẩm: Tính giá thành cho sản phẩm
hoàn thành là công tác cuối cùng của quá trình tổng hợp chi phí sản xuất.
Cuối kỳ căn cứ vào mức độ tiêu hao chi phí của từng loại sản phẩm mà bộ
phận kỹ thuật của nhà máy đã tính kế toán sẽ tính giá thành đơn vị của từng
sản phẩm theo phương pháp hệ số có loại trừ sản phẩm phụ. Theo kế hoạch
vii
trong vụ ép 2010 – 2011. Tỉ lệ rỉ mật thu hồi 3.4 % trên tổng lượng mía cây
đưa vào sản xuất. Phần rỉ mật thu hồi được sẽ chuyển sang nhà máy cồn.
Để có thể quản lý được việc hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành
sản phẩm và có thể so sánh với dự toán, định mức thì luận văn kiến nghị nên
xây dựng mô hình kết hợp kế toán quản trị chi phí gía thành và kế toán tài
chính trong cùng một bộ máy kế toán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chức
năng thông tin và kiểm tra kế toán được toàn diện, phong phú và hiệu quả.
Hoàn thiện việc xây dựng các định mức chi phí sản xuất
Định mức tiêu chuẩn là mức chi tiêu theo tiêu chuẩn để thực hiện một
đơn vị công tác tiêu chuẩn. Muốn xây dựng được định mức chi phí hợp lý thì
công tác xây dựng định mức phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phải xác định được đúng đơn vị công việc tiêu chuẩn để xây dựng định
mức cho từng bộ phận.
- Phải xác định đúng loại chi phí nào cần xây dựng định mức.
Điểm mới trong luận văn đề cập đến cách thức hạch toán các khoản mục
chi phí và cách lập mô hình quản trị chi phí giá thành nhằm đảm bảo cho công
tác kế toán chi phí và tính gía thành sản phẩm được quản lý để có thể đưa ra
hình thức sử dụng tối ưu nguồn đầu vào để hạ thấp gía thành, tăng sức cạnh
tranh trên thị trường. Đây là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết trong
doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin kinh tế một cách chính xác.
Thực tế hiện nay chưa có đề tài nào nghiện cứu một cách cụ thể, chi tiết
về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại công ty mía đường ở Việt
Nam. Do năng lực, trình độ và thời gian nghiên cứu của tác giả có hạn nên
luận văn mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu thực trang hạch toán kế toán chi
phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm. Vì vậy mà những giải pháp mà luận
văn đưa ra sẽ không thực sự hiệu quả nếu việc hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại công ty chỉ mang tính cá nhân, riêng lẻ.
viii
Với phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu kế toán
chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm ở Công ty cổ phần mía đường
Lam Sơn. Tác giả hy vọng vấn đề này sẽ được nghiên cứu sâu hơn nhằm góp
phần hoàn thiện kế toán cho công ty cổ phần mía đường Lam Sơn nói riêng và
công ty mía đường nói chung giúp cho các doanh nghiệp phát triển bền vững.
Qua đây luận văn cũng nêu một số điều kiện phối hợp cùng thực hiện giải
pháp đã đề cập với từng đối tượng cụ thể: Cơ quan nhà nước, Công ty.
ix
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong xu thế điều kiện hiện nay khi nền kinh tế đang phát triển mạnh
mẽ, các ngành sản xuất vật chất ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm luôn là yếu tố có ý nghĩa hàng đầu để doanh nghiệp có thể
tái sản xuất và tìm kiếm lợi nhuận.
Chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn của doanh
nghiệp vào đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành nhất định, nó là vốn
của doanh nghiệp bỏ vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, để quản lý
có hiệu quả và kịp thời đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình các
doanh nghiệp luôn cần biết số chi phí đã chi ra cho từng loại hoạt động, từng
loại sản phẩm, dịch vụ trong kỳ là bao nhiêu, số chi phí đã chi đó cấu thành
trong số sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành là bao nhiêu. Giá thành sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ là câu trả lời cho các vấn đề này này.
Chi phí sản xuất nếu được tập hợp, tính toán chính xác, đầy đủ, đúng đối
tượng và đúng phương pháp sẽ là căn cứ quan trọng để việc tính giá thành sản
phẩm được chính xác. Hạch toán đúng, đủ chi phí và giá thành không những
cho phép doanh nghiệp xác định đúng kết quả kinh doanh của mình mà còn
giúp doanh nghiệp tìm ra được những biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ
giá thành sản phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Chi phí và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu quan trọng trong hệ
thống các chỉ tiêu kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Cho nên có thể nói, tổ
chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vai trò quan trọng
trong sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp, đó là một yêu cầu
thiết thực, một vấn đề đang được các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu hiện
1
nay. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp cho doanh nghiệp ngày càng đứng
vững và phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế.
Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn là một đơn vị sản xuất công
nghiệp, chính vì vậy việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất tính giá thành sản
phẩm đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty. Trong những năm qua công ty đã có nhiều cố gắng
trong việc hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành,
mặc dù vậy, việc tập hợp chi phí sản xuất của công ty còn những hạn chế nhất
định như việc mã hoá các danh mục vật tư chưa thống nhất dễ gây ra tình
trạng nhầm lẫn; việc phân bổ giá trị công cụ, dụng cụ xuất dùng có giá trị lớn
không tuân theo tiêu thức phân bổ nào; chưa hướng tới việc thiết lập các báo
cáo kế toán quản trị cho công ty; chưa coi trọng việc xác định định mức vật tư
sử dụng cho sản xuất … điều này dẫn đến công tác kế toán chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm trong công ty chưa thực sự hiệu quả.
Xuất phát từ những lý do trên, sau khi nghiên cứu tình hình thực tế tại
Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, tôi đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty cổ phần mía
đường Lam Sơn” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng đến các mục đích nghiên cứu sau:
- Làm rõ hơn một số vấn đề về cơ sở lý luận kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất.
- Phân tích, đánh giá về thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại Công ty cổ phần mía đườngLam Sơn.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty mía đường Lam Sơn.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu công tác kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm tại Công ty mía đường Lam Sơn, lấy số liệu quý IV
năm 2010 làm minh họa.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Đề tài góp phần hệ thống hoá được những vấn đề lý luận cơ bản về công
tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp
sản xuất.
- Đề tài khái quát, hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề chung nhất
về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty cổ phần mía
đường Lam Sơn, đưa ra các giải pháp hoàn thiện tổ chức kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm ở Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty cổ phần mía
đường Lam Sơn.
Sau đây là nội dung chi tiết của luận văn
3
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
1.1.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
1.1.1.1 Chi phí sản xuất – khái niệm và bản chất.
Chi phí sản xuất là toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật
hoá mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh
trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). [5 tr 252]
Quá trình sản xuất kinh doanh là sự kết hợp của ba yếu tố: tư liệu lao
động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất cũng là quá
trình tiêu hao chính các yếu tố trên. Do vậy, sự hình thành các chi phí sản
xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ
thuộc và ý chí chủ quan của người sản xuất.
Chi phí và chi tiêu có sự khác biệt cần được phân định. Chi phí là biểu
hiện bằng tiền toàn bộ hao phí lao động sống và lao động vật hóa cần thiết
cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra cho
một kỳ kinh doanh. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của kỳ kế toán những
hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất
trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ kế toán. Ngược lại, chi
tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tiền vốn, tài sản của doanh
nghiệp, bất kể nó được sử dụng vào mục đích gì. Chi tiêu doanh nghiệp bỏ ra
cho các quá trình sản xuất như quá trình cung cấp, cho quá trình sản xuất sản
phẩm, cho quá trình tiêu thụ,…
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật
thiết nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có
4
chi phí. Chi tiêu và chi phí khác nhau về lượng và về thời gian. Có những chi
tiêu kỳ này nhưng được tính vào chi phí kỳ sau, và có những khoản chi phí kỳ
này nhưng doanh nghiệp thực tế chưa chi tiêu.
1.1.1.2 Phân loại chi phí sản xuấ
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội
dung kinh tế, mục đích, công dụng khác nhau nên cần thiết phải phân loại chi
phí sản xuất nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán chi phí.
Phân loại chi phí là việc sắp xếp các loại chi phí khác nhau vào từng nhóm
theo những đặc trưng nhất định. Trên thực tế, có rất nhiều cách phân loại khác
nhau nhưng lựa chọn tiêu thức phân loại nào là phải dựa vào yêu cầu của công
tác quản lý và hạch toán [5 tr 258 - 262]
a) Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
Theo cách phân loại này chi phí được quản lý theo nội dung kinh tế ban
đầu đồng nhất của chúng mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát
sinh của chi phí. Cách phân loại này còn được gọi là phân loại chi phí theo yếu
tố. Theo quy định hiện hành chi phí sản xuất được chia thành 7 yếu tố sau:
•
Chi phí nguyên liệu và vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị vật liệu chính, vật
liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ sử dụng vào sản xuất kinh doanh
(loại trừ giá trị vật liệu sử dụng không hết nhập lại kho và số phế liệu thu hồi).
•
Chi phí nhiên liệu động lực sử dụng vào sản xuất kinh doanh
•
Chi phí tiền lương và phụ cấp lương: là toàn bộ số tiền lương và phụ cấp
lương phải trả cho công nhân viên trong doanh nghiệp.
•
Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN: là toàn bộ các khoản trích theo tỷ
lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên.
•
Chi phí khấu hao máy móc thiết bị: là tổng số khấu hao TSCĐ phải trích
trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh
5
•
Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng
vào sản xuất kinh doanh
•
Chi phí khác bằng tiền: là toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh
ở các yếu tố trên vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Phân loại chi phí theo yếu tố có tác dụng cho biết nội dung, kết cấu tỷ
trọng của từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã sử dụng vào quá trình sản xuất
trong tổng chi phí sản xuất doanh nghiệp.
b) Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí trong giá thành
sản phẩm.
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện
cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân
loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối
tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành toàn bộ của sản phẩm bao gồm
khoản mục chi phí sau:
•Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp: bao gồm toàn bộ chi phí về các loại
nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, công cụ dụng cụ, dùng trực tiếp vào quá
trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Trường hợp doanh nghiệp mua nửa thành
phẩm để sản xuất, gia công thêm thành sản phẩm thì nửa thành phẩm mua
ngoài cũng được hạch toán vào chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
•Chi phí nhân công trực tiếp: à toàn bộ số tiền lương, các khoản trích
theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN), các khoản phụ cấp
•Chi phí sản xuất chung: bao gồm những chi phí liên quan đến việc phục
vụ, quản lý trong phân xưởng như chi phí về tiền lương và các khoản trích
theo lương của nhân viên phân xưởng, chi phí nguyên vật liệu
•Chi phí bán hàng:
6
•Chi phí quản lý doanh nghiệp:
c) Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí
Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất được chia thành:
- Chi phí sản phẩm: là chỉ tiêu chi phí bao gồm ba khoản mục chi phí sản
xuất: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, và chi phí
sản xuất chung
- Chi phí thời kỳ: là chỉ tiêu bao gồm hai khoản mục chi phí là chi phí bán
hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Các chi phí thời kỳ này không được tính
vào giá thành sản phẩm mà được trừ ngay vào kết quả kinh doanh trong kỳ.
Cách phân loại này tạo điều kiện cho việc xác định giá thành công xưởng
cũng như kết quả kinh doanh được chính xác.
d) Phân loại theo quan hệ của chi phí với mức độ hoạt động
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn
cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí SXKD lại được phân
theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này chi phí được
chia thành:
- Chi phí biến đổi
- Chi phí cố định
1.1.2 Giá thành sản phẩm và phân loại giá thành sản phẩm
1.1.2.1 Giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những hao phí về lao
động sống cần thiết và lao động vật hoá được tính trên một khối lượng kết quả
sản phẩm lao vụ, dịch vụ hoàn thành nhất định.[4 tr94]
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: hao phí
bỏ ra và kết quả thu về. Tất cả các khoản hao phí (kỳ này và kỳ trước) có liên
quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ tạo
nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu
7
hiện bằng tiền toàn bộ các khoản hao phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kỳ
nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành
trong kỳ.
1.1.2.2 Phân loại giá thành sản phẩm [4 tr95- 96]
a, Phân loại giá thành theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành
- Giá thành kế hoạch: Là giá thành sản xuất sản phẩm được tính trên cơ
sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Giá thành kế hoạch do bộ
phận kế hoạch của doanh nghiệp đảm nhiệm và được tính toán trước khi bắt
đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch được tính trên cơ
sở sản lượng sản phẩm kế hoạch và chi phí sản xuất kế hoạch. Giá thành kế
hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất,
hạ giá thành sản phẩm, tăng thu nhập của doanh nghiệp và là căn cứ để phân
tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch
- Giá thành định mức: Là giá thành sản xuất sản phẩm được tính trên cơ
sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Cũng như
giá thành kế hoạch, giá thành định mức được tính trước khi tiến hành sản xuất
sản phẩm, nhưng việc tính giá thành định mức lại dựa trên cơ sở định mức
kinh tế kỹ thuật sản xuất hiện hành. Giá thành định mức chỉ tính cho một đơn
vị sản phẩm. Giá thành định mức được coi là thước đo chuẩn xác để đánh giá
kết quả sử dụng các loại vật tư tiền vốn trong doanh nghiệp, từ đó để đánh giá
hiệu quả kinh tế của công tác sử dụng chi phí mà doanh nghiệp đang áp dụng .
- Giá thành thực tế: Được tính dựa trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực
tế phát sinh được tập hợp trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ được tính khi quá
trình sản xuất chế tạo sản phẩm đã hoàn thành. Giá thành thực tế của sản phẩm
phản ánh tổng hợp kết quả phấn đấu trong việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành
sản phẩm, là cơ sở xác định kết qủa sản xuất kinh doanh, có ảnh hưởng trực
tiếp đến thu nhập của doanh nghiệp .
8
b. Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán chi phí. Theo cách phân
loại này giá thành được chia thành hai loại:
Giá thành sản xuất: Giá thành sản xuất bao gồm các chi phí sản xuất chế
tạo sản phẩm (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,
chi phí sản xuất chung) tính cho sản phẩm, lao vụ hoặc công việc đã hoàn
thành. Giá thành sản xuất của sản phẩm được sử dụng để hạch toán thành
phẩm nhập kho và giá vốn hàng bán (trong trường hợp bán hàng ngay không
qua nhập kho). Giá thành sản xuất là căn cứ để xác định giá vốn hàng bán và
lãi gộp trong kì ở các doanh nghiệp.
Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ: Giá thành toàn bộ của sản
phẩm tiêu thụ bao gồm giá thành sản xuất cộng với chi phí bán hàng và chi
phí quản lý doanh nghiệp cụ thể là:
Giá thành toàn bộ
của sản phẩm tiêu thụ
=
Giá thành
sản xuất
+
Chi phí
bán hàng
+
Chi phí quản lý
doanh nghiệp
Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ chỉ xác định và tính toán khi sản
phẩm, công việc lao vụ đã được xác nhận là tiêu thụ. Giá thành toàn bộ của sản
phẩm tiêu thụ là căn cứ để tính toán, xác định mức lợi nhuận trước thuế của
doanh nghiệp.
1.1.3 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt của quá trình hoạt động
sản xuất của doanh nghiệp giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện
ở chỗ: Chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm còn giá thành sản
phẩm lại là thước đo mức chi phí sản xuất thực tế để sản xuất ra từng loại sản
phẩm, từ đó để kiểm soát, giám sát các chi phí sản xuất đã bỏ ra. Mối quan hệ này
được biểu hiện qua công thức. [4 tr 94]
9
Tổng giá
thành sản
phẩm
=
Chi phí sản
xuất dở dang
đầu kỳ
+
Chi phí sản
xuất phát sinh
trong kỳ
_
Chi phí sản
xuất dở dang
cuối kỳ
Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các
ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng
tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cùng giống nhau về chất vì đều
biểu hiện bằng tiền những hao phí về lao động và các chi phí khác của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, hai chỉ tiêu này lại khác nhau về mặt lượng. Khi nói đến chi
phí sản xuất là giới hạn cho chúng một thời kỳ nhất định, không phân biệt là
cho loại sản phẩm nào, đã hoàn thành hay chưa, còn khi nói đến giá thành sản
phẩm là xác định một lượng chi phí sản xuất nhất định, tính cho một đại lượng
kết quả hoàn thành nhất định.
1.1.4 Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Giá thành là công cụ quạn trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình
sản xuất kinh doanh và xem xét hiệu quả các biện pháp tổ chức kỹ thuật,
thông qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành. Các cấp lãnh đạo quản lý có
được những thông tin về tình hình sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn, tình
hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản xuất và hiệu quả sử dụng các biện pháp kỹ
thuật, phát hiện và tìm ra các nguyên nhân dẫn đến phát sinh chi phí không
hợp lý để có biện pháp loại trừ.
Muốn hạ giá thành phải quản lý tốt giá thành và phải gắn quản lý giá
thành với giảm giá thành. Để thực hiện tốt các yêu cầu đặt ra trong công tác
quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thì cần phải cs biện pháp
thích hợp.
1.1.5 Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chi phí và giá thành sản phẩm là các chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống
10
các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp và có quan hệ
mật thiết với doanh thu và kết quả. Giá thành sản phẩm còn là cơ sở để định
giá bán sản phẩm, là cơ sở đánh giá hạch toán kinh tế nội bộ, đồng thời là căn
cứ để xác định kết quả kinh doanh [5 tr 257 - 258]
Để đáp ứng tốt yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở
doanh nghiệp, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cần thực
hiện các nhiệm vụ sau:
- Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ
sản xuất, đặc điểm của sản phẩm, yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp để
xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất, phương pháp tập hợp chi phí sản
xuất và đối tượng tính giá thành phù hợp.
- Trên cơ sở mối quan hệ giữa đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối
tượng tính giá thành đã xác định để tổ chức áp dụng phương pháp tính giá
thành cho phù hợp và khoa học.
- Tổ chức chứng từ, hệ thống tài khoản, sổ kế toán, bộ máy kế toán một
cách khoa học, hợp lý trên cơ sở phân công rõ ràng trách nhiệm từng nhân
viên, từng bộ phận kế toán có liên quan đặc biệt đến bộ phận các yếu tố chi phí.
- Tổ chức lập và phân tích các báo cáo về chi phí, giá thành sản phẩm,
cung cấp những thông tin cần thiết về chi phí, giá thành sản phẩm giúp cho
các nhà quản trị doanh nghiệp ra được các quyết định kịp thời, phù hợp với
quá trình sản xuất - tiêu thụ sản phẩm.
1.1.6 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành.
1.1.6.1 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với nội dung
kinh tế, công dụng khác nhau, phát sinh ở những địa điểm khác nhau. Những
sản phẩm lao vụ của doanh nghiệp được chế tạo tại các phân xưởng, bộ phận
11
sản xuất khác nhau theo qui trình công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Do đó
các chi phí phát sinh cần được tập hợp theo các yếu tố, khoản mục chi phí,
theo phạm vi, giới hạn nhất định để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm.
Như vậy, xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất thực chất là việc xác
định phạm vi, giới hạn mà chi phí sản xuất cần được tập hợp.[4 tr 96 - 97]
Việc xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản
xuất cần được dựa trên cơ sở những yếu tố cơ bản sau:
- Đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp.
- Qui trình công nghệ kỹ thuật.
- Địa điểm phát sinh chi phí, mục đích, công dụng của chi phí.
- Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Dựa vào những căn cứ trên, đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất
trong các doanh nghiệp sản xuất có thể là:
- Từng phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc toàn doanh nghiệp.
- Từng giai đoạn, bước công nghệ hoặc toàn bộ qui trình công nghệ.
- Từng sản phẩm, từng nhóm sản phẩm.
- Từng bộ phận, chi tiết sản phẩm.
1.1.6.2 Đối tượng tính giá thành.
Trong doanh nghiệp sản xuất đối tượng tính giá thành là kết quả sản xuất
thu được như sản phẩm, công vịêc, lao vụ hoàn thành. Để xác định đối tượng
tính giá thành, bộ phận kế toán giá thành cần căn cứ vào các yếu tố:[4 tr 98]
- Đặc điểm của sản xuất kinh doanh:
+ Đặc điểm tổ chức sản xuất và cơ cấu sản xuất.
12