Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Phân tích về thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái? Liên hệ Việt Nam trong 3 năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.35 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH


BÀI THẢO LUẬN
Môn: Kinh tế vĩ mô
Đề tài thảo luận: Phân tích về thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái? Liên hệ
Việt Nam trong 3 năm gần đây?

Giáo viên hướng dẫn:
Nhóm

:

Lớp học phần

:

Hà Nội - 2019


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ 1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ với nhiều cột
mốc quan trọng. Từ một nền kinh tế tự cung tự cấp là chủ đạo, nước ta đã chuyển
mình hội nhập với kinh tế thế giới, mở ra một kỉ nguyên mới trong việc đưa nền
kinh tế lên một tầm cao mới. Các doanh nghiệp muốn kinh doanh những mặt hàng
mới nên nhất thiết phải nhập khẩu kinh tế mà trong nước không đáp ứng được.
Chính vì vậy, nhu cầu xuất nhạp khẩu hàng hóa ngày càng trở thành vấn đề nóng
với nước ta. Khi đánh giá đến xuất nhập khẩu chúng ta không thể bỏ qua vấn đề
thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái. Việc đề ra quy định về tỷ giá đã giúp các


doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc thanh toán quốc tế qua các ngân hàng thương
mại, giúp nền kinh tế hội nhập sâu rộng và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
2. Mục đích
- Muốn mọi người nắm rõ kiến thức về thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái và
ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế nước nhà.
- Nhằm đưa ra giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện hơn chính sách quản lý
ngoại hối và chính sách điều hành tỷ giá hối đoái đang áp dụng tại Việt Nam.
3. Tầm quan trọng của đề tài
- Là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với nền kinh tế nước nhà.
4. Tác dụng sau khi nghiên cứu
- Rút ra được bài học kinh nghiệm để áp dụng vào Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu.
- Phân tích tài liệu.
6. Lời cảm ơn
Có thể bài thảo luận không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu
và trình bày. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để đề
tài được hoàn thiện hơn. Nhóm chúng em xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn của
cô giáo Đỗ Thị Thanh Huyền đã giúp đỡ nhóm chúng em hoàn thành đề tài này.
Nhóm em xin chân thành cảm ơn!

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG NHẤT


1.1. Các khái niệm liên quan đến tỷ giá hối đoái
1.1.1. Ngoại tệ
 Ngoại tệ là đồng tiền của nước ngoài do một nước khác phát hành nhưng phải là
một phương tiện chi trả có hiệu lực trong thanh toán.
1.1.2. Ngoại hối
 Ngoại hối bao gồm 3 yếu tố cơ bản:

- Ngoại tệ
- Vàng
- Chứng từ có giá trị ngoại tệ như các cổ phiếu lưu hành bằng ngoại tệ, hối phiếu,
chứng khoán có giá trị
 Trong đó:
- Đối với hối phiếu, thời hạn hiệu lực của hối phiếu tùy thuộc vào kỳ hạn của hối
phiếu đó.
- Đối với các chứng từ có giá trị khác như trái khoán, trái phiếu khi hết hạn phải
quay lại nơi phát hành để lấy cả gốc lẫn lãi.
- Khi ngoại hối là vàng thì đó là phao cứu hộ cho sự ổn định tiền tệ quốc gia bởi lẽ
nó là phương tiện chi trả cuối cùng trong thanh toán quốc tế. Vàng có khả năng
chuyển sang bất kỳ ngoại tệ mạnh nào mà chủ sở hữu mong muốn.
 Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi (mua – bán) ngoại hối
kể trên.
1.1.3. Tỷ giá hối đoái
 Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằng tiền tệ của
một nước khác.
 Một khái niệm khác: tỷ giá hối đoái là mức giá tại đó một đơn vị tiền tệ của nước
này có thể đổi lấy tiền của một nước khác.
VD: TGHĐ của USD được công bố ở Việt Nam là  22000 VND/USD
TGHĐ của Yên Nhật được công bố ở Nhật là 0,012 USD/JPY
 Hai cách niêm yết tỷ giá hối đoái
- Niêm yết trực tiếp (Direct quote): Tỷ giá hối đoái được định giá theo nội tệ. Ký
hiệu E
VD: 1 USD = 22000 VND => E = 22000 VND/USD
- Niêm yết gián tiếp (Indirect quote): Tỷ giá hối đoái được định giá theo ngoại tệ.
Ký hiệu e
VD: 1 VND = 1/22000 USD => e = 1/22000 USD/VND
1.2.
Chức năng của tỷ giá

- Chức năng so sánh sức mua giữa các đồng tiền để thấy được năng suất lao động,
giá thành, giá cả, hiệu quả trong kinh tế đối ngoại để từ đó có các biện pháp điều
chỉnh kinh tế.


-

Chức năng khuyến khích: Nhà nước hoàn toàn có thể điều tiết tỷ giá để khuyến
khích các ngành, các chủng loại hàng hóa tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại.
- Chức năng phân phối: tỷ giá có khả năng phân phối lại thu nhập giữa các ngành
hàng tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại; có khả năng phân phối lại thu nhập
giữa các nước có quan hệ kinh tế với nhau.
- Tỷ giá được sử dụng như là vũ khí cạnh tranh trong thương mại để giành giật thị
trường.
1.3.
Tỷ giá cân bằng trên thị trường ngoại hối
- Tỷ giá hối đoái cân bằng là mức tỷ giá mà ở đó cung và cầu về nội tệ trên thị
trường ngoại hối bằng nhau.
1.3.1. Cầu nội tệ
- Cầu nội tệ là khối lượng tiền nội tệ mà mọi người muốn mua và có khả năng mua
tương ứng với mỗi mức giá của nội tệ (e) trên thị trường ngoại hối.
- Cầu về nội tệ được sinh ra từ 2 nguồn:
+ Lượng hàng hóa, dịch vụ và tài sản trong nước mà người nước ngoài muốn mua
+ Lượng vốn và các khoản chuyển nhượng vào trong nước
- VD: Người Nhật muốn mua hàng hóa của Việt Nam. Các hãng sản xuất và những
người làm công, sản xuất ra hàng hóa của Việt Nam phải được chi trả bằng tiền
Việt Nam. Điều này đòi hỏi người Nhật phải mua tiền Việt Nam trong thị trường
ngoại hối. Do đó tạo lên cầu về đồng Việt Nam trên thị trường ngoại hối.
- Một nước xuất khẩu càng nhiều thì cầu đối với đồng tiền nước đó càng lớn trên thị
trường ngoại hối (và ngược lại).

- Đường cầu nội tệ

Tỳ giá hối đoái (e)

Tăng giá nội tệ

Giảm giá nội tệ

Đường cầu nội tệ
0
Lượng nội tệ
+ Đường cầu nội tệ (đường cầu về một loại tiền) là hàm của tỷ giá hối đoái của nó
(một lượng tiền khác mà một đơn vị tiền ấy có thể trao đổi được hay “giá” của
đồng tiền ấy trên thị trường ngoại hối) dốc xuống về phía phải.


+ Tỷ giá hối đoái (e) càng cao thì tiền của nước Việt Nam càng có giá trị, do đó
hàng hóa của Việt Nam càng trở nên đắt hơn đối với người Nhật, nên càng ít hàng
hóa Việt Nam được xuất khẩu hơn  lượng cầu nội tệ Việt Nam giảm.
+ Tỷ giá hối đoái (e) càng thấp thì tiền của nước Việt Nam bị sụt giá (mất giá) do
đó hàng hóa của Việt Nam càng trở nên rẻ hơn đối với người Nhật, nên càng nhiều
hàng hóa Việt Nam được xuất khẩu hơn  lượng cầu nội tệ Việt Nam tăng.
1.3.2. Cung nội tệ
- Cung nội tệ là khối lượng tiền nội tệ mà mọi người muốn và có khả năng chuyển
đổi thành ngoại tệ tương ứng với mỗi mức giá của nội tệ (e) trên thị trường ngoại
hối.
- Cung nội tệ được sinh ra từ hai nguồn:
+ Lượng hàng hóa, dịch vụ và tài sản nước ngoài mà người trong nước muốn mua.
+ Lượng vốn và các khoản chuyển nhượng từ trong nước ra nước ngoài.
VD: Người Việt Nam muốn mua hàng hóa của Nhật Bản. Các hãng sản xuất và những

người làm công, sản xuất ra hàng hóa Nhật phải được chi trả bằng tiền Nhật (Yên Nhật).
Điều này đòi hỏi người Việt Nam phải bỏ tiền đồng của Việt Nam để mua lấy đồng Yên
Nhật rồi mới có thể mua hàng hóa của Nhật Bản. Lượng tiền đồng của Việt Nam khi ấy
bước vào thị trường tiền tệ quốc tế.
-

Một nước nhập khẩu càng nhiều thì đồng tiền của nước ấy sẽ được đưa vào thị
trường quốc tế càng nhiều (và ngược lại).
Đường cung nội tệ

Tỷ giá hối đoái (e)

Tăng giá nội tệ
Đường cung nội tệ

Giảm giá nội tệ
0

Lượng nội tệ

+ Đường cung nội tệ (đường cung về một loại tiền) là hàm của tỷ giá hối đoái của
nó, dốc lên trên về phía phải.


+ Tỷ giá hối đoái (e) càng cao thì tiền Việt Nam càng có giá trị, do đó hàng hóa
Nhật càng trở lên rẻ hơn đối với người Việt Nam nên hàng hóa Nhật được nhập
khẩu vào Việt Nam càng nhiều  lượng cung nội tệ Việt Nam tăng.
+ Tỷ giá hối đoái (e) càng thấp thì tiền Việt Nam càng bị sụt giá (mất giá), do đó
hàng hóa Nhật càng trở lên đắt hơn đối với người Việt Nam nên hàng hóa Nhật
được nhập khẩu vào Việt Nam ít đi  lượng cung nội tệ Việt Nam giảm.

- Như vậy cân bằng trên thị trường chính là do sự tương tác giữa cung và cầu nội tệ
+ Khi tỷ giá tăng thì cung nội tệ tăng, cầu nội tệ giảm.
+ Khi tỷ giá giảm thì cung nội tệ giảm, cầu nội tệ tăng.
- Trường hợp với một nền kinh tế nhỏ, mở cửa trong điều kiện vốn tự do chu
chuyển, lãi suất cố định thì tỷ giá có thể thay đổi.
1.3.3. Trạng thái cân bằng trên thị trường ngoại hối
(USD/VNĐ) e


Tỷ giá hối
đoái cân
bằng

e1
e0

E

e2

0

Q
Lượng nội tệ

Lượng nội tệ cân bằng
 e0 được xác định khi cung và cầu nội tệ cân bằng
 Khi tỷ giá e1  e0 thị trường ngoại hối dư cung nội tệ  khiến nội tệ giảm giá trở
về e0
 Khi tỷ giá e2  e0 thị trường ngoại hối dư cầu nội tệ  khiến nội tệ tăng giá trở lại

e0

1.4.
-

Chế độ tỷ giá
Thực chất của chế độ tỷ giá là việc chính phủ đặt ra các điều kiện để xác định tỷ
giá
Có ba chế độ tỷ giá:


+ Tỷ giá cố định
+ Tỷ giá thả nổi
+ Tỷ giá thả nổi có quản lí
1.4.1. Hệ thống tỷ giá cố định: Bretton Woods (1944 -1971)
Gần cuối thế chiến thứ II, một hội nghị quốc tế đã được tổ chức ở Bretton Woods,
New Hampshise (Mỹ) để hoạch định “một hệ thống các tỷ giá hối đoái có trật tự thuận lợi
cho luồng thương mại tự do”.
- Hệ thống này có các yếu tố sau:
+ Giá của vàng được cố định là 35 đô-la Mỹ một Ounce. Nghĩa là giá trị của đồng
đôla Mỹ được cố định theo vàng.
+ Tiền của các nước tham gia hệ thống được cố định theo đồng đôla Mỹ, các ngân
hàng trung ương của những nước này có trách nhiệm duy trì các tỷ giá hối đoái
của họ bằng việc mua và bán đôla trên thị trường ngoại tệ.
+ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã được tạo ra để quản lí hệ thống này và làm một số
chức năng của ngân hàng trung ương quốc tế: Đảm bảo rằng các nước duy trì các
tỷ giá hối đoái như thỏa thuận cho các ngân hàng trung ương tham gia quỹ này vay
tiền, khi dự trữ của họ không còn đủ để mua hoặc bán đủ lượng tiền đôla để hỗ trợ
các tỷ giá hối đoái của họ nữa; bàn bạc với các nước tham gia về những thay đổi
trong các tỷ giá hối đoái của họ.

- Ưu điểm
+ Tích cực thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế vì chính sự biến động của tỷ giá
là nguyên nhân làm cho kết quả kinh doanh trở nên không chắc chắn và làm phát
sinh rủi ro trong các giao dịch quốc tế, kìm hãm tăng trưởng và phát triển doanh số
của các giao dịch này.
+ Buộc các chính sách kinh tế vĩ mô phải có kỷ luật hơn vì một khi các chính phủ
đã cam kết duy trì tỷ giá cố định nghĩa là họ đã tự nguyện chấp hành kỷ luật trong
chính sách kinh tế vĩ mô. Khi chính sách kinh tế vĩ mô tỏ ra lỏng lẻo sẽ làm tăng
áp lực phá giá tiền tệ.
- Nhược điểm
+ Dự trữ không tương xứng: Quy mô thương mại quốc tế tăng lên nhanh chóng
trong những năm 50 và 60 gây nên những vận động tiền tệ lớn. Điều này đòi hỏi
các ngân hàng trung ương phải mua và bán đôla nhiều lên nhằm duy trì các tỷ giá
hối đoái đã thỏa thuận. Một số ngân hàng nhận thấy rằng dự trữ về đôla và vàng
hiện tại là không tương xứng để duy trì tỷ giá cố định.
+ Các điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo xu hướng lâu dài: Các tỷ lệ tăng trưởng về
xuất khẩu và nhập khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất khác nhau giữa các nước, gây
nên những thay đổi dài hạn về giá trị tương đối của tiền tệ. Nhiều nước đã đề nghị
IMF thay đổi các tỷ giá hối đoái của họ.
+ Các cuộc khủng hoảng mang tính đầu cơ: Khi đã rõ ràng rằng một đồng tiền
được đánh giá quá cao hoặc quá thấp so với tỷ giá hiện tại của nó thì các nhà đầu
cơ sẽ mua hoặc bán những lượng tiền lớn theo dự đoán của họ về sự thay đổi tỷ


giá hối đoái. Ngân hàng trung ương sẽ phải chi tiêu những ngoại tệ lớn nhằm duy
trì tỷ giá cố định cho tới khi nó được thay đổi.
Vào năm 1971 các nước không còn khả năng đảm bảo rằng những đồng đôla Mỹ có thể
được chuyển đổi thành vàng và tháng 8 năm 1971 Chính phủ Mỹ đã buộc phải xóa bỏ
chế độ bản vị vàng của đồng USD.
1.4.2. Các hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi (linh hoạt)

- Nguyên lí của hệ thống này là:
+ Cho phép các tỷ giá hối đoái được xác định hoàn toàn bởi các lực lượng cung và
cầu của thị trường, không có sự can thiệp nào của Chính phủ.
+ Về mặt lý thuyết của các tỷ giá cần điều chỉnh một cách tự động theo những thay
đổi trong lạm phát, trong cán cân thương mại và các luồng vốn và được duy trì “sự ngang
bằng của sức mua” sao cho có thể mua được một lượng hàng nhất định từ cùng một
lượng tiền của một trong hai nước. Từ 1971, Mỹ và một số nước khác đã cho phép tiền
của họ thả nổi hoàn toàn hoặc phần lớn.
- Ưu điểm
+ Tỷ giá thả nổi nên nó luôn tự điều chỉnh để đảm bảo cân bằng thường xuyên
trong cung cầu tiền tệ trên thị trường ngoại hối. Trong trường hợp một quốc gia bị
thâm hụt cán cân vãng lai, đồng nội tệ giảm giá, dẫn đến nhập khẩu giảm, xuất
khẩu tăng cho đến khi nào cán cân trở lại cân bằng và ngược lại.
+ Cho phép chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ độc lập theo quan điểm riêng.
Theo đó các quốc gia có thể tự xác định mức lạm phát tùy theo từng hoàn cảnh cụ
thể. Những quốc gia ưu tiên mức lạm phát thấp được tự do áp đặt chính sách kinh
tế vĩ mô thắt chặt sẽ qua thời kì nội tệ lên giá.
+ Nền kinh tế cách ly được những ảnh hưởng các cú sốc về giá cả từ bên ngoài.
Nếu giá nước ngoài tăng thì tỷ giá hối đoái sẽ thay đổi phù hợp với điều kiện tỷ
giá hối đoái ngang bằng sức mua, nghĩa là nội tệ sẽ lên giá để ngăn ngừa lạm phát
ở mức không mong muốn.
+ Góp phần ổn định kinh tế, tỷ giá biến động lên xuống được trong khi đó giá cả
lại rất khó có thể giảm được. Khi nền kinh tế giảm sức cạnh tranh quốc tế thì tốt
nhất là để mặc cho nội tệ giảm giá hơn là cố định tỷ giá để rồi phải áp dụng các
chính sách điều chỉnh giá trị đồng tiền một cách tốn kém để khôi phục sức cạnh
tranh quốc tế mà hậu quả của nó là làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, giảm tiền lương.
- Nhược điểm
Trước năm 1971, nhiều nhà kinh tế đã ủng hộ việc để các tỷ giá hối đoái thả nổi tự
do và dự tính rằng các tỷ giá sẽ tương đối ổn định vì đầu cơ sẽ giữ chúng sát với
sự ngang bằng của sức mua. Trong thực tế các tỷ giá đã chao đảo rất mạnh và đã

tách rời khỏi sự ngang bằng sức mua trong những thời kì dài. Lí do là:
+ Có sự vận động về vốn do những khác biệt về lãi suất trong các nước gây ra.
Các mục tiêu của chính sách trong nước đã làm cho các nước theo đuổi những
chính sách tiền tệ rất khác nhau, chúng làm lãi suất thực tế khác nhau và làm cho


những luồng vốn lớn chảy vào các nước có lãi suất cao, đẩy tỷ giá hối đoái của
nước này lên bất kể các điều kiện thương mại.
+ Đầu cơ tiền tệ quốc tế cũng dẫn tới việc tăng và giảm khá lớn các tỷ giá hối đoái
và những thay đổi này không liên quan tới các điều kiện thương mại.
+ Sự thay đổi về cơ cấu trong và giữa các nền kinh tế. Các giá trị tương đối của
nhiều hàng hóa đã thay đổi cùng với sự phát triển ngành công nghiệp mới và sự
suy giảm của những ngành cũ làm cho giá trị trao đổi thực tế thay đổi so với các
giá trị dự kiến thông qua sự ngang bằng sức mua.
1.4.3. Các hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý (không thuần nhất)
- Một hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý (hay không thuần nhất) là một hệ thống
trong đó tỷ giá hối đoái được phép thay đổi phù hợp với các điều kiện thị trường, nhưng
đôi khi Chính phủ can thiệp vào để ngăn ngừa không cho nó vận động ra ngoài các giới
hạn nhất định.
- Một số nước đã chấp nhận và thực hiện một “khối tiền tệ”, trong đó họ tìm cách
duy trì những tỷ giá cố định với các đồng tiền của những nước thuộc khối, nhưng lại cho
phép cả khối thay đổi cùng với các lực lượng thị trường một cách tương đối với các nước
bên ngoài khối. Ví dụ điển hình nhất là hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS).
- Các hệ thống này đã gặp phải những khó khăn và dẫn đến sự kết thúc tương tự
như hệ thống Bretton Woods như: dự trữ không tương xứng, cần có sự điều chỉnh thường
xuyên, các cuộc khủng hoảng mang tính đầu cơ.
- Cuối cùng, vào mùa thu năm 1992 hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) đã sụp đổ do
áp lực dự trữ khổng lồ của đồng bảng Anh. Đó là sự giảm xuống của giá trị ngang bằng
sức mua do có những sự di chuyển lớn về tư bản vào nước Đức, nơi mà lãi suất cao gấp
đôi.

- Các ngân hàng trung ương và các bộ trưởng tài chính hầu hết các nước đều muốn
có một hệ thống tỷ giá hối đoái ổn định hơn, nhưng vẫn không có sự nhất trí về việc nó sẽ
hoạt động ra sao. Hai trong những giải pháp đó là:
+ Quyền rút vốn đặc biệt (SQRS): Năm 1969 IMF đã tạo ra các tài sản dự trữ để
ổn định hóa tỷ giá hối đoái.
+ Hội đồng tiền tệ châu Âu: Việc thành lập hội đồng tiền tệ châu Âu được nhiều
nhà kinh tế và lãnh đạo châu Âu ủng hộ, nhưng hiện nay vẫn chưa có khả năng thành
hiện thực, vì các nhu cầu trong nước về chính sách tiền tệ của các nước trong hội đồng
đang có nhiều mâu thuẫn.
~ Vấn đề thiết lập một hệ thống tài chính quốc tế như thế nào còn là câu hỏi bỏ ngỏ. Đây
là lĩnh vực nóng bỏng trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Mỗi nước sẽ ứng phó như thế nào
trong một thế giới đầy biến động như vậy?
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá
- Cung và cầu ngoại hối trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và nhạy bén
đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nói chung, mức cầu tiền tệ thường biến đổi
ngược chiều với tỷ giá hối đoái.


VD: + Nếu USD tăng giá so với VND thì hàng nhập về với giá cao, khó tiêu thụ nên mức
cầu về hàng nhập khẩu giảm, đưa đến mức cầu USD cũng giảm theo và đồng USD cũng
giảm.
+ Nếu USD giảm giá so với VND thì hàng nhập về sẽ rẻ hơn, do đó nhà nhập khẩu
mua nhiều USD hơn tức mức cầu USD tăng nhiều, từ đó tỷ giá có thể giảm xuống và
người nhập sẽ không mua USD để nhập hàng thêm nữa, USD có thể trở lại mức giá bình
thường.
- Mức chênh lệch lạm phát cũng có thể ảnh hưởng đến tỷ giá:
+ Với một mức tỷ giá cân bằng, nước nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng tiền
mất giá nhiều hơn. Xuất phát từ công thức:

er 


en .P
P*

(P: là chỉ số giá trong nước
P*: là chỉ số giá ở nước ngoài
en: là tỷ giá hối đoái trong nước
er: là tỷ giá hối đoái thực)

-

-

-

+ Khi lạm phát ở trong nước tăng cao hơn so với lạm phát ở nước ngoài, P sẽ tăng
cao hơn P* làm cho tỷ giá thực tế tăng.
Tình hình cán cân thanh toán quốc tế của một nước:
+ Khi mức cung ngoại tệ trên thị trường hối đoái lớn hơn mức cầu ngoại tệ, tỷ giá
hối đoái sẽ tăng tức giá ngoại tệ tính bằng nội tệ sẽ giảm (tình trạng dư thừa ngoại
tệ).
+ Nếu cán cân thanh toán quốc tế của một nước bị thiếu hụt, có nghĩa là tổng số
chi ngoại tệ lớn hơn tổng số thu ngoại tệ, tức cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ,
tỷ giá hối đoái sẽ giảm, ngoại tệ tăng giá và nội tệ giảm giá.
Tình hình chính trị, kinh tế của một nước:
+ Tình hình chính trị ổn định sẽ tăng cường cơ hội thu hút vốn ngoại tệ từ nước
ngoài vào trong nước khiến tăng mức cung ngoại tệ; đồng thười người trong nước
không muốn chuyển vốn ra nước ngoài mà để đầu tư trong nước khiến mức cầu
ngoại tệ có thể thay đổi (cầu ngoại tệ có thể giảm). Kết quả là tỷ giá hối đoái có
thể tăng, giá ngoại tệ giảm và tất nhiên giá nội tệ tăng.

+ Tình hình kinh tế chính trị bất ổn, mức cầu ngoại tệ sẽ lớn hơn mức cung ngoại
tệ vì người có vốn trong nước và vốn của người nước ngoài ở trong nước có chiều
hướng mua hoặc chuyển đổi ngoại tệ để chuyển vào trong nước, nên tỷ giá hối
đoái có thể giảm. Hơn thế nữa những người có vốn ở nước ngoài sẽ e ngại mà
không chuyển vốn vào trong nước. Nó cũng làm giảm tỷ giá hối đoái.
Vấn đề đầu cơ tiền tệ:
+ Trên thị trường ngoại hối, những người kinh doanh tiền tệ, tức mua và bán tiền
nhằm mục đích kiếm lời.
+ Nếu dự đoán một loại tiền nào đó sẽ tăng giá, tức khắc người ta mua loại tiền đó
khi giá mua còn thấp để bán lại sau khi giá lên cao, hưởng chênh lệch giá.


+ Nếu dự đoán một loại tiền nào đó sẽ giảm giá và giảm đến mức nào đó sẽ tăng
trở lại, họ lập tức bán ra đồng tiền sắp mất giá khi giá bán còn cao để sau đó mua
lại số đó mà vẫn được hưởng chênh lệch giá.
+ Những việc làm như vậy cũng làm cho mức cung và mức cầu ngoại tệ thay đổi
và dẫn đến làm thay đổi tỷ giá.
- Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước:
+ Nước nào có lãi suất cao hơn sẽ thu hút được vốn ngoại tệ vào nhiều hơn và tăng
mức cầu về đồng nội tệ và làm tăng tỷ giá.
+ Ngược lại, nước nào có lãi suất thấp hơn sẽ không thu hút được vốn ngoại tệ và
mức cầu về đồng nội tệ giảm và làm giảm tỷ giá.
- Ngoài ra, nền kinh tế của một nước tăng trưởng, mức lợi tính theo đầu người gia
tăng hay thu nhập thực tế của người dân tăng. Dẫn đến một thực tế là nhu cầu về
hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu tăng do đó làm tăng cung nội tệ để mua ngoại tệ
tăng lên làm cho tỷ giá giảm. Điều này cũng có thể đúng khi xuất hiện một sản
phẩm mới ở nước ngoài mà người trong nước biết được. Nhu cầu mới được kích
thích gây áp lực tăng cường nhập khẩu, làm tỷ giá biến động giảm.
1.6. Sự thay đổi của tỷ giá tác động tới nền kinh tế
- Nhìn chung, nhân tố nào ảnh hưởng đến tỷ giá đều bị tỷ giá tác động ngược trở lại.

- Đối với cán cân thanh toán quốc tế, khi cán cân thanh toán thâm hụt sẽ làm giảm
tỷ giá. Nhưng tỷ giá giảm lại khuyến khích xuất khẩu, bù đắp dần cán cân thanh
toán và có thể đưa cán cân thanh toán cân bằng trở lại.
- Khi tỷ giá giảm xuống thì người nước ngoài có khuynh hướng mua hàng trong
nước nhiều hơn trong khi người trong nước muốn mua hàng của nước ngoài ít
hơn. Tỷ giá giảm làm cho xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm, làm tăng sức cạnh
tranh của hàng hóa trong nước nếu tương quan giá cả không có sự thay đổi. Vì vậy
có thể nói, tỷ giá hối đoái có khả năng làm thay đổi sức cạnh tranh quốc tế.
- Tác động của tỷ giá đối với lãi suất, một công cụ đắc lực trong điều hành, quản lí
kinh doanh, góp phần làm gia tăng cạnh tranh và là động lực thúc đẩy các hoạt
động đầu tư, tiêu dùng. Khi tỷ giá biến động tăng, gây bất lợi cho nền kinh tế buộc
ngân hàng trung ương phải can thiệp bằng nhiều cách. Một trong số đó là thay đổi
lãi suất triết khấu. Việc làm này có thể làm thay đổi toàn bộ hoạt động kinh tế xã
hội.
VD: Tỷ giá giảm, ngân hàng trung ương sẽ điều chỉnh tăng lãi suất chiết khấu, các
ngân hàng thương mại cũng sẽ phải tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Trong
nước, các doanh nghiệp sẽ hạn chế vay và dân cư cắt giảm chi tiêu làm tăng cung về
đồng nội tệ. Ngoài nước, việc làm đó sẽ thu hút đầu tư từ nước ngoài, tăng vốn tiền
gửi ngắn hạn và tăng cung ngoại tệ. Hoặc ngân hàng trung ương có thể can thiệp trực
tiếp vào thị trường tiền tệ, tổ chức kinh doanh ngoại hối, thực hiện việc bán, mua
ngoại tệ khi tỷ giá biến động giảm hoặc tăng.
- Chỉ một sự thay đổi bất lợi hay sự biến động đột ngột của tỷ giá cũng có thể là
nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của bất kì nền kinh tế nào.


Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.2.

Thực trạng thị trường ngoại hối.


a, Năm 2016:
Thị trường ngoại hối khá ổn định, duy chỉ có biến động nhẹ vào cuối năm do yếu tố mùa
vụ và ảnh hưởng tâm lý của việc USD tăng giá trên thị trường thế giới sau kết quả bầu
Tổng thống Mỹ. Tỷ giá trung tâm tính đến cuối tháng 11 tăng khoảng hơn 1% so với đầu
năm. Tỷ giá ngân hàng thương mại và thị trường phi chính thức cũng tăng trở lại, phổ
biến ở mức 22.700 VND/USD vào cuối tháng 11, tăng khoảng 0.22% so với đầu năm.
Tổng tài sản hệ thống tài chính năm 2016 ước tính tăng 13,5%, tổng số vốn chủ sở hữu
tăng 6,8% so với cuối năm 1025. Quy mô hệ thống tài chính tương đương 187,6% GDP,
thấp hơn nhiều so với số bình quân của nhóm nước 5 quốc gia hàng đầu ASEAN (318%
GDP).
Quá trình tái cơ cấu hệ thống Tổ chức tín dụng đến cuối năm 2016 đã tháo gỡ cơ bản các
khó khăn của hệ thống như tình trạng căng thẳng thanh khoản được kiểm soát, thanh
khoản chung của toàn hệ thống ổn định,… Tuy nhiên, quá trình tái cơ cấu Tổ chức tín
dụng còn một số hạn chế như xử lí nợ xấu của hệ thống Tổ chức tín dụng chưa triệt để,
chủ yếu áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật.
Nhìn chung, hệ thống tài chính đã đảm bảo tốt khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Trong năm 2016, hệ thống tài chính cung ứng khoảng 1 triệu 230 nghìn tỷ đồng cho nền
kinh tế. Trong đó, khu vực ngân hàng cung ứng 68,1%; thị trường vốn cung ứng 31,9%.


Tính đến cuối năm 2016, tổng nguồn vốn hệ thống tài chính cung ứng cho nền kinh tế
tương đương 181,2% GDP.
b, Năm 2017:
Năm 2017, tỷ giá USD/VND khá ổn định. Tính đến tháng 12/2017, tỷ giá trung tâm ước
tính tăng khoảng 1,5- 1,7% so với đầu năm. Trong khi đó, tỷ giá ngân hàng thương mại
giảm khoảng 0,2%, tỷ giá thị trường tự do giảm khoảng 1,5% so với đầu năm.
Theo lý giải của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, nguyên nhân khiến tỷ giá tương đối
ổn định do đồng USD mất giá trên thị trường quốc tế (chỉ số USD Index giảm 9,1% so
với đầu năm) bất chấp Cục Dự trữ liên bang (Fed) tăng lãi suất nhiều lần do tác động của
chính sách chống thâm hụt thương mại của Tổng thống Donald Trump.

Bên cạnh đó, chênh lệch giữa lãi suất VND và USD vẫn còn ở mức lớn (khoảng 6- 7%),
nghiêng về việc nắm giữ VND. Huy động ngoại tệ tăng thấp, ước tăng 4% so với cuối
năm 2016, trong khi Ngân hàng Nhà nước mua được khoảng 7 tỷ USD từ hệ thống ngân
hàng. Do vậy, có thể một lượng lớn ngoại tệ đã được tổ chức kinh tế và cá nhân bán và
chuyển sang VND.
Ngoài ra, còn phải kể đến yếu tố cán cân thanh toán tổng thể tiếp tục thặng dư trong năm
qua. Trong đó, lý giải thêm về nguyên nhân này, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cho
rằng trong năm qua, cán cân thương mại tiếp tục xuất siêu; Cán cân vốn và tài chính năm
2017 ước thặng dư ở mức khá cao (dự báo ở mức 4,03% GDP); FDI tăng khá, dòng vốn
đầu tư gián tiếp cũng tăng trưởng mạnh (dự báo cuối năm 2017 ở mức 12 tỷ USD, cao
hơn mức 11,6 tỷ USD của 2016).
Thống kê cũng cho thấy, cán cân thanh toán tổng thể ước tính thặng dư lầ 3,4% GDP.
Nhờ đó, Ngân hàng Nhà nước đã bổ sung được dự trữ ngoại hối lên mức cao kỷ lục. Mới
đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng cho biết tính đến cuối tháng 12/
2017, tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước đã xấp xỉ 52 tỷ USD. Trong đó, riêng năm 2017,
Ngân hàng Nhà nước đã mua khoảng 13 tỷ USD để dự trữ ngoại hối.
c, Năm 2018:
Tính đến ngày cuối tháng 3/ 2018, cán cân thanh toán tổng thể thặng dư ở mức khoảng 8
tỷ USD. Cụ thể, cán cân thương mại xuất siêu trong 2 tháng đầu năm 2018, đạt mức 504
triệu USD.
Bên cạnh đó, cán cân tài chính dự kiến thặng dư ở mức cao, trong đó đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng khá trong hai tháng đầu năm 2018: FDI giải ngân
đạt 1,4 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kì năm trước.
Dòng vốn đầu tư gián tiếp tăng mạnh trong bối cảnh thị trường chứng khoán tăng trưởng
tốt. Các chỉ số chứng khoán và giá trị giao dịch đều tăng mạnh so với cùng kì năm 2017.


Vay ngắn hạn tăng cao, chủ yếu phục vụ các doanh nghiệp FDI nhập khẩu hàng hóa, dịch
vụ phục vụ sản xuất. Trong quý I/ 2018, mức vay nước ngoài ngắn hạn tiếp tục ở mức cao
do các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI có nhu cầu vay nước ngoài ngắn

hạn để nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất.
Trong quý 3/2018, thặng dư thương mại đạt hơn 2 tỷ USD, đồng thời lượng vốn FDI tiếp
tục giải ngân khá đã góp phần cùng với chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) giữ cho tỷ giá hối đoái không thay đổi quá mạnh. Tuy nhiên, theo số liệu từ
Công ty chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSC), NHNN đã phải bán ra hơn 3,7 tỷ
USD từ tháng 7 tới hiện tại để ổn định tỷ giá.
Theo số liệu Tổng cục Thống kê, tính tới thời điểm 20/9/2018, tăng trưởng tín dụng đạt
mức 9,52% so với tháng 12/2017, thấp hơn so với cùng kì hai năm trước (2016: 10,46%,
2017: 11,02%). Bên cạnh đó, tăng trưởng huy động vốn của các ngân hàng đạt 9,15%,
cũng thấp hơn so với cùng kì hai năm trước.
2.2.

Thực trạng tỷ giá hối đoái.

a, Năm 2016.
Trong năm 2016, tỷ giá hối đoái và thị trường ngoại tệ cơ bản ổn định, góp phần tích cực
thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và hạn chế nhập khẩu. Chỉ số giá USD tháng
12/2016 chỉ tăng 0,8% so với cuối năm 2015 và chỉ số giá USD bình quân năm 2016 chỉ
tăng 2,23% so với bình quân năm 2015. Đáng chú ý là so với tháng 12/2015, chỉ số giá
USD liên tục giảm ngoại trừ tháng 1 tăng 0,18% và tháng 12 tăng 0,8%. Theo đó, chỉ số
giá USD bình quân so với cùng kì năm trước đã giảm mạnh liên tục từ 5,18% đầu năm
xuống còn chưa đầy một nửa vào cuối năm.
Biến động chỉ số giá USD năm 2016


Nguồn: TCTK
Chỉ số giá USD so với tháng trước có 7 lần tăng và 5 lần giảm trong năm 2016 với
biên độ dao động hẹp, trong đó giảm mạnh nhất là 0,64% vào tháng 2/2016 và tăng cao
nhất là 1,52% vào tháng 12/2016.
Mặc dù có một số “cơn sóng nhẹ” trên thị trường ngoại hối vào thời gian đầu và

cuối năm 2016, song, tỷ giá hối đoái giao dịch thực tế chỉ dao động không nhiều so với tỷ
giá trung tâm do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố trong khi đến lượt mình, tỷ giá
trung tâm được điều chỉnh linh hoạt theo tín hiệu thị trường, đồng thời phản ánh sự can
thiệp có hiệu lực của NHNN vào cân đối cung cầu trên thị trường ngoại hối đã khiến cho
tâm lý găm giữ ngoại tệ cũng như tình trạng đô la hóa giảm. Bên cạnh đó, chính sách tỷ
giá hối đoái còn được hỗ trợ tích cực bởi chính sách lãi suất đối với USD và chính sách
tín dụng cho vay ngoại tệ của NHNN trong bối cảnh cán cân thương mại hàng hóa tiếp
tục thặng dư và dòng vốn nước ngoài tiếp tục đổ vào Việt Nam. Do đó, NHNN đã mua
được lượng lớn ngoại tệ, đưa dự trữ ngoại hối lên mức cao nhất từ trước đến nay và đảm
bảo tính thanh khoản cho thị trường ngoại hối. Tuy từ đầu tháng 10 đến cuối năm 2016,
đặc biệt là sau khi kết quả bầu cử tổng thống Mỹ được công bố (ngày 9/11), tỷ giá hối
đoái có xu hướng tăng nhẹ lên quanh mức USD/VND = 22.350 vào giữa tháng 11, song,
chỉ số giá USD tháng 11/2016 cũng chỉ tăng có 0,22% so với tháng trước. Tỷ giá mua bán
USD của các ngân hàng thương mại (NHTM) đến cuối năm 2016, đứng ở mức mua vào
22.730 đồng/USD và bán ra 22.800 đồng/USD.
b, Năm 2017.
Trong 10 tháng năm 2017, Việt Nam xuất siêu 1,23 tỷ USD, nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) thực hiện giải ngân 14,2 tỷ USD, tăng 11,8% so với cùng kì năm 2016,
cùng với các nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII), viện trợ phát triển chính thức
(ODA) tăng mang lại nguồn cung dồi dào trên thị trương ngoại tệ.
Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã có động thái điều chỉnh giảm tỷ giá mau vào
đồng USD liên tiếp trong 3 ngày hồi giữa tháng 10/2017. Với cùng một bước giảm là 5
đồng, giá mua vào đồng USD niêm yết trên Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước sau 3
ngày đã giảm tổng cộng 15 đồng, từ 22,725 VND/USD xuống còn 22,710 VND/USD.
Trước điều chỉnh trên, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần nâng giá mua vào USD trong năm
2017, lần lượt trong các tháng 1,4 và 6.
Tính chung, số liệu cập nhật gần cuối năm 2017 của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá đô la
Mỹ tháng 12/2017 tăng 0,02% so với tháng trước và giảm 0,05% so với cùng kỳ năm
2016; bình quân năm 2017 tăng 1,40% so với năm 2016.
c, Năm 2018.



Tỷ giá trung tâm giảm mạnh trở lại cho dù diễn biến USD trên thị trường thế giới không
có gì đột biến và thị trường ngoại hối trong nước cũng khá yên ả. Động thái này được cho
là bất ngờ bởi trước đó, bất chấp việc USD trên thị trường thế giới đang trong xu hướng
điều chỉnh giảm sau khi FED được dự báo sẽ giảm tốc độ tăng lãi suất nhưng Ngân hàng
Nhà nước vẫn đều đặn tăng tỷ giá trung tâm suốt từ cuối tháng 11/2018 cho đến ngày
27/1, với chỉ 2- 3 đồng, thỉnh thoảng là 5 đồng.
Cụ thể, từ cuối tháng 11 đến nay, chỉ số USD đã giảm khoảng 1,5% và hiện đang xoay
quanh 95,75 điểm. Trong khi đó, tỷ giá USD/VND trên thị trường cũng có xu hướng
giảm cùng đồng USD thế giới. Hiện giá bán ra USD tại các ngân hàng đang dao động
trong khoảng 23,230- 23,250 đồng/USD, còn giá mua vào trong khoảng 23,130- 23,150
đồng/USD, giảm khoảng 110- 120 đồng mỗi chiều so với thời điểm cuối tháng 11/2018.


Chương 3: CÁCH GIẢI QUYẾT
3.1.

Về cơ chế, chính sách ngoại hối

 Thị trường ngoại hối Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong thúc đẩy nền
kinh tế phát triển nhanh, nên việc phát triển và hoàn thiện nó theo hướng toàn diện
và hiện đại phù hợp với trình độ và chuẩn mực quốc tế là đòi hỏi cấp bách. Để thị
trường ngoại hối được phát triển thì ngoài việc thực hiện các giải pháp chung như:
- Tiếp tục đổi mới chính sách tỷ giá theo hướng tỷ giá hình thành một cách khách
quan trên cơ sở cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường, có sự điều tiết của Nhà
nước
- Phát triển mạnh mẽ thị trường ngoại tệ, liên ngân hàng sonh song với việc hoàn
thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
- Mở rộng và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trên cơ sở hiện đại hóa và

công nghệ hóa các giao dịch…thì cần có các giải pháp sau:
- Hoàn thiện các văn bản pháp quy đảm bảo các hoạt động giao dịch ngoại hối diễn
ra ở thị trường là hợp pháp và có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn đầu cơ, lũng
đoạn thị trường để thu lợi gây ra rối loạn thị trường và nền kinh tế pháp lệnh ngoại
hối tuy đã được ban hành và phát huy một số tác dụng nhất định nhưng vẫn chưa
“Luật hóa” được các hoạt động giao dịch ngoại hối.
- Nâng cao vai trò của NHNN trên thị trường ngoại hối, ngoài chức năng tổ chức và
quản lí thị trường ngoại hối, NHNN còn cần thực hiện tốt chức năng người mua,
bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, đảm bảo cung cầu ngoại tệ
in ngân bằng. NHNN còn cần những chính sách cân đối giữa ngoại tệ và VND hợp
lí. Thời gian vừa qua, lượng ngoại tệ đó về Việt Nam ngày càng nhiều, các NHTM
dự một lượng lớn USD vào cuối ngày dẫn đến trạng thái ngoại tệ vượt quá mức
cho phép. Tuy nhiên NHNN đã không thực hiện được mua vào để cân bằng trạng
thái cho các NHTM, điều này dẫn đến các NHTM phải tìm các biện pháp “tiêu
cực” để cân bằng trạng thái ngoại tệ cuối ngày của ngân hàng mình.
- Luật hóa các hoạt động trên thị trường ngoại hối bao gồm các hoạt động đầu tư
vay và cho vay bảo lãnh và bán các giao dịch ngoại hối
- Tạo môi trường cho mọi người và tổ chức kinh doanh có nhu cầu thanh toán và
đưa ngoại tệ ra nước ngoài một cách chính đáng thì đều được đáp ứng đầy đủ và
được phép, không hề bị cản trở hay gây phiền hà.
- Giải pháp này được thực hiện sẽ giúp tạo một môi trường pháp lí hệ thống hơn
cho mọi hoạt động kinh doanh ngoại hối. Vai trò của NHNN được nâng cao.
3.2.
-

Về công tác quản lí ngoại hối
Quản lí tốt dự trữ ngoại hối tăng tích lũy ngoại tệ.
Mức dự trữ ngoại tệ bao nhiêu in là vấn đề được các cơ quan quản lí bàn thảo. Nếu
dự trữ quá lớn cũng là một trong những yếu tố dẫn đến lạm phát, mặt khác chi phí



cho việc dự trữ khối lượng tiền quá lớn cũng rất tốn kém. Ngược lại, nếu nguồn dự
trữ không đảm bảo thì khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng rất nguy
hiểm, vì dự trữ ngoại tệ là phương tiện cuối cùng của nền kinh tế quốc gia, nhóm
mục đích phòng vệ khi an ninh tài chính bị đe dọa, giảm thiểu nguy cơ khủng
hoảng kinh tế có thể xảy ra. Để xử lí bài toán này, các quốc gia đang phát triển
thường sử dụng tiền dự trữ đầu tư vào trái phiếu chính phủ Mỹ - một trong những
trái phiếu chính phủ an toàn nhất nhưng lại có lãi suất thấp nhất.
- Việt Nam có quy mô dự trữ hiện tại chưa phải là quá mức nhưng cũng có tốc độ
tăng trưởng mạnh trong mấy năm nay nên cũng cần có một số đổi mới trong công
tác quản lí dự trữ ngoại hối theo hướng nâng cao hiệu quả đầu tư dự trữ ngoại hối.
thông qua việc xây dựng tiêu chuẩn, lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại tệ theo luật lệ
quốc tê.
- Việt Nam cần phải đa dạng hóa nguồn dự trữ ngoại tệ thông qua việc đầu tư vào
nhiều loại trái phiếu chính phủ khác nhau.
- Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nên nghiên cứu mô hình đầu tư một phần dự trữ vào
các kênh khác để tối ưu hóa hiệu quả đồng tiền dự trữ, tăng cường công tác quản
lý rủi ro nhưng vẫn phải đáp ứng các mục tiêu quản lý của dự trữ ngoại hối như an
toàn và thành khoản.
- Thực tế ở Việt Nam hiện nay, Bộ Tài chính vẫn quản lí một phần ngoài tệ để đáp
ứng các nhu cầu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước. Một số ý kiến cho rằng theo
quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, Ngân sách Nhà nước có cả nguồn thu và
chi bằng ngoại tệ nên Bộ Tài chính giữ lại ngoại tệ để chi là hợp lí. Tuy nhiên việc
phân tán trong quản lí dự trữ ngoại hối Nhà nước sẽ không tạo thuận lợi cho ngân
hàng Nhà nước trong việc đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế và thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia.
- Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ
ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ phòng tránh rủi ro
khi USD bị mất giá.
- Xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, chỉ nhập những

hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước.
- Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lí ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc
giảm dần tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của ngân hàng trong việc xác định
tỷ giá, xóa bỏ các quy định mang tính hành chính, trong kiểm soát ngoại hối, thiết
lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam. Nhà nước chỉ thực hiện vai trò điều
tiết khi cần thiết.
3.3 Các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái
3.3.1 Chính sách chiết khấu
Đây là chính sách mà ngân hàng Trung Ương bằng cách thay đổi lãi suất cho vay
chiết khấu của mình để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường.


Khi muốn cho tỷ giá hối đoái giảm xuống, ngân hàng Trung Ương nâng cao lãi
suất chiết khấu, làm cho lãi suất trên thị trường tăng lên, kết quả là làm cho các nguồn
vốn ngắn han trên thị trường quốc tế chạy vào trong nước để thu lợi tức cao. Lượng vốn
nước ngoài chạy vào sẽ góp phần làm dịu sự căng thẳng của cầu vượt cung ngoại hối, do
đó làm cho tỷ giá giảm xuống.
Còn khi ngân hàng Trung Ương muốn cho tỉ giá tăng lên thì sẽ làm ngược lại bằng
cách giảm lãi suất chiết khấu xuống.
3.3.2 Chính sách hối đoái
Đây là chính sách mà Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối
bằng cách mua bán ngoại hối trên thị trường.Cụ thể:
Khi tỷ giá lên cao, ngân hàng Trung Ương tăng cường bán ngoại hối ra thị trường
làm cung ngoại hối trên thị trường tăng lên do đó làm giảm bớt căng thẳng về cung cầu
ngoại hối trên thị trường và kéo tỷ giá tụt xuống.
Khi tỉ giá giảm xuống , ngân hàng Trung Ương sẽ mua vào ngoại hối, tăng nhu cầu
ngoại hối trên thị trường và làm giảm bớt căng thẳng trong quan hệ cung cầu ngoại hối
trên thị trường dẫn tới tỉ giá hối đoái từ từ tăng lên.
Một hình thức khác của chính sách hối đoái đó là việc thành lập quỹ bình ổn hối
đoái. Nhà nước sẽ thành lập quỹ này dưới hình thức bằng ngoại tệ, vàng hoặc phát hành

các loại trái phiếu ngắn hạn, chủ động mua vào bán ra ngoại tệ để kịp thời can thiệp làm
thay đổi quan hệ cung cầu về ngoại hối trên thị trường, nhằm mục đích điều chỉnh tỉ giá.
Song để thực hiện tốt biện pháp này thì vấn đề quan trọng ở đây là Ngân hàng
trung ương phải có dự trữ ngoại hối lớn, nếu cán cân thanh toán của một nước bị thiếu
hụt thường xuyên thì khó có đủ số ngoại hối để thực hiện phương pháp này.
3.3.3 Phá giá tiền tệ
Đây là sự nâng cao một cách chính thức tỷ giá hối đoái hay nói khác đi đó là việc
nhà nước chính thức hạ thấp sức mua đồng tiền nước mình so với ngoại tệ. Ví dụ tháng
12 năm 1971, chính phủ Mỹ chính thức phá giá đồng tiền đô la với mức 7,89%, tức là giá
của 1 GBP tăng từ 2,40 USD( trước khi phá giá ) lên 2,605 USD, hay sức mua của một
đô la giảm từ 0,416 GBP xuống 0,383 GBP.
Phá giá tiền tệ có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và hạn chế nhập khẩu
hàng hoá, do vậy nó đã góp phần cải thiện cán cân thương mại, làm cho tỷ giá hối đoái
bớt căng thẳng.
3.3.4 Nâng giá tiền tệ
Đây là việc nhà nước chính thức nâng giá đơn vị tiền tệ nước mình so với ngoại tệ,
làm cho tỉ giá hối đoái giảm xuống. Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đối với ngoại thương
của một nước hoàn toàn ngược lại với phá giá tiền tệ, nghĩa là, nó có tác dụng hạn chế


xuất khẩu và đẩy mạnh nhập khẩu do đó nó góp phần duy trì sự ổn định của tỉ giá đảm
bảo tỉ giá không tụt xuống.
Trong cuộc chiến tranh thương mại nhằm chiếm lĩnh thị trường bên ngoài, những
quốc gia có nền kinh tế phát triển quá "nóng" muốn làm "lạnh" nền kinh tế đi thì có thể
dùng biện pháp nâng giá tiền tệ để giảm đầu tư vào trong nước và tăng cường chuyển vốn
đầu tư ra nước ngoài.


KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái ở Việt Nam cho

thấy tỷ giá hối đoái là một công cụ hữu hiệu linh hoạt trong quản lý và điều hành
chính sách tiền tệ. Đây là nhân tố vô cùng nhảy cảm có tác động sâu rộng đến các
mặt đời sống kinh tế xã hội của một quốc gia. Tỷ giá cũng được xem là chiếc cầu
nối quan trọng giữa kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và trên thế giới
thông qua các hoạt động thương mại đầu tư và tài chính quốc tế. Do đó việc đi sâu
nghiên cứu để có cơ sở vững chắc nhằm định hướng chính sách và các đề xuất giải
pháp hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái là vấn đề quan trọng hiện nay.
Trong xu hướng hội nhập, chính sách tỷ giá phải không ngừng được hoàn thiện
nhằm phù hợp với những biến động của nền kinh tế. Việc điều hành tỷ giá cần
phải có sự thận trọng nhất định và thực hiện các biện pháp quản lý cần phải đặt
trong mối quan hệ hữu cơ hình thành lên hệ thống đan xen và hỗ trợ lẫn nhau, để
có được sự kết hợp linh hoạt đồng bộ, nhằm khai thác thế mạnh và hạn chế nhược
điểm của từng biện pháp. Nước ta mới chỉ đang đi những bước đầu tiên trong tiến
trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Do đó không tránh khỏi những yếu kém và
sai sót khi lựa chọn chế độ và điều hành chính sách tỷ giá hối đoái. Chính sách tỷ
giá chỉ có thể đạt được hiệu quả nhất định nào đó khi nó được phối hợp chặt chẽ
với chính sách tài chính - tiền tệ và các chính sách kinh tế khác, đặc biệt là chính
sách lãi suất, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách đầu tư, chính sách chuyển
dịch cơ cấu xuất nhập khẩu và cơ chế kinh tế.




×