Nhóm tác giả của báo cáo này là Nguyễn Hữu Chí,
Nguyễn ị u Huyền (TCTK), Mireille Razandrakoto và François
Roubaud (IRD-DIAL).
Liên hệ: François Roubaud ()
Dự án TCTK/IRD-DIAL
Tháng 12 - 2010
Thị trường lao động và kinh tế
phi chính thức ở Việt Nam trong thời gian
khủng hoảng và phục hồi 2007-2009
Một số nét chủ yếu từ cuộc Điều tra Lao động và
Việc làm (ĐT LĐ&VL)
General Statistics Oce
THE WORLD BANK
1
Thị trường lao động và kinh tế phi chính
thức ở Việt Nam trong thời gian khủng
hoảng và phục hồi 2007-2009
Một số nét chủ yếu từ cuộc Điều tra Lao động
và Việc làm
(ĐT LĐ&VL)
Báo cáo tóm lược chính sách
_____________________________________________________
Dự án TCTK /IRD-DIAL
Tháng 12- 2010
2
* Các kết quả tính toán trong báo cáo này khác biệt đôi chút so với các con số công bố chính thức
(TCTK, 2008 và 2009) do khác biệt về quy ước tính đối với một số chỉ tiêu. Chúng tôi xin gửi lời
cảm ơn đến Vụ Thống kê Dân số và Lao động (TCTK), đặc biệt là ông Đồng Bá Hướng, ông
Hoàng Xuyên và bà Phan Thị Minh Hiền, cũng như đế
n bà Margarita Guerrero (UNDP) vì sự hỗ
trợ trong quá trình chỉnh sửa phiếu Điều tra Lao động và Việc làm năm 2009.
3
Thị trường lao động và kinh tế phi chính thức ở Việt Nam
trong cuộc khủng hoảng 2007-2009
Một số nét chủ yếu từ cuộc Điều tra Lao động và Việc làm
Dự án TCTK /IRD-DIAL
Giới thiệu
Năm 2007, Tổng cục Thống kê (TCTK) triển khai chương trình nghiên cứu hợp tác với Viện Nghiên cứu
Phát triển Pháp (IRD) nhằm thu thập số liệu và phân tích về khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam.
Từ đó có hai loại cuộc điều tra liên quan được thực hiện năm 2007 bao gồm Điều tra lao động Việc làm
(ĐT LĐ&VL) Quốc gia và điều tra chuyên biệt về khu vực phi chính thức. Đây là lần
đầu tiên ở Việt Nam
Điều tra Lao động và Việc làm cho phép phân loại số liệu lao động theo khu vực thể chế và phân tách
riêng số liệu về khu vực phi chính thức. Hai cuộc điều tra chuyên biệt thực hiện ở Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh (điều tra HB&IS2007) được gắn kết với Điều tra lao động Việc làm 2007 nhằm tìm hiểu thêm về đặc
tính của các hộ sản xuất kinh doanh (SXKD) nói chung và đặc biệt là của khu v
ực kinh tế phi chính thức.
Số liệu thu được từ các cuộc điều tra này được phân tích chi tiết và các kết quả được xuất bản dưới dạng
sách chuyên khảo (xem Cling và cộng sự, 2010a). Hai năm sau những kết quả thành công, các cuộc điều
tra được tiếp tục thực hiện với những mục tiêu mới nhằm củng cố phương pháp luận và đánh giá những tác
động của cuộc khủng ho
ảng toàn cầu đến thị trường lao động nói chung và đặc biệt là đến khu vực kinh tế
phi chính thức. Cuối năm 2009, Điều tra Lao động Việc làm lại được thực hiện ở cấp độ quốc gia và bao
gồm thông tin về khu vực kinh tế phi chính thức nhằm hỗ trợ cho dự án. Bên cạnh đó điều tra HB&IS lại
được triển khai lặp lại ở hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh dựa trên hai mẫ
u bao gồm: mẫu điều tra lặp
đối với các hộ SXKD đã được điều tra năm 2007; mẫu các hộ SXKD mới được điều tra lần đầu năm 2009.
Báo cáo này trình bày những phát hiện chính cả về mặt phương pháp luận và khía cạnh phân tích thu được
từ hai lần thực hiện cuộc Điều tra Lao động Việc làm về phương diện thị trường lao động và khu vực kinh
tế phi chính thứ
c ở Việt Nam. Phân tích tập trung vào những biến động của của các chỉ số cơ bản của thị
trường lao động, với tiêu điểm là về biến động của khu vực kinh tế phi chính thức và việc làm phi chính
thức giữa hai năm 2007 và 2009 trong bối cảnh cuộc khủng hoảng toàn cầu. Đây là lần đầu tiên ở Việt
Nam kết quả điều tra cho phép đo lường chính xác sự biế
n động của khu vực kinh tế phi chính thức và
kiểm chứng cho các kết quả ước tính đã được công bố. Trong phần kết luận là một số gợi ý từ những phát
hiện về phương diện thiết kế điều tra và các chính sách kinh tế. Kết quả của báo cáo tóm lược này có thể
được bổ sung bằng phân tích về sự năng động của khu vực kinh tế phi chính thức ở Hà Nội và TP. Hồ chí
Minh trong một bài viết cùng chủ đề dựa vào số liệu cuộc điều tra HB&IS năm 2007 và 2009 (Demenet
và cộng sự, 2009).
Cũng như các quốc gia khác ở châu Á, Việt Nam đã chịu ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng thế giới và
nhịp tăng trưởng kinh tế đã chậm lại. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của Việt Nam từ mức 8,5%
trong giai đoạn 2004-2007 đã giảm xu
ống còn 6,5% năm 2008 và 5,3% năm 2009. Mặc dù có ảnh hưởng
sâu rộng nhưng tác động của cuộc khủng hoảng này đến Việt Nam dường như không rộng như đối với các
quốc gia khác trong khu vực. Cùng với Trung Quốc, Việt Nam là một trong số các quốc gia châu Á không
rơi vào tình trạng suy thoái vào năm 2009. Có ba yếu tố chính có thể giải thích cho việc Việt Nam ít chịu
ảnh hưởng của khủng hoảng toàn cầu bao gồm: thứ nhất, trước khi di
ễn ra cuộc khủng hoảng toàn cầu,
Việt Nam đã chịu tác động của một cuộc khủng hoảng tài chính từ đầu năm 2008 và đã đối phó với cuộc
khủng hoảng thông qua việc thực hiện các công cụ điều chỉnh; thứ hai, nền kinh tế Việt Nam vẫn bao gồm
bộ phận chủ yếu thuộc về nông thôn (khu vực nông nghiệp cung cấp 50% việc làm) do vậy ít chịu ảnh
hưởng bởi cuộc khủng hoảng toàn cầu hơn so với các nền kinh tế phát triển hơn ở châu Á; cuối cùng, các
số liệu dựa trên doanh thu xuất khẩu cho thấy, trái ngược với tình trạng ở các quốc gia châu Á khác, xuất
khẩu của Việt Nam vẫn duy trì xu hướng tăng trong năm 2009 và điều này là do sự kết hợp của những hiệu
ứng về giá cả (đặc biệt là sự tăng giá gạo) và n
ăng lực cạnh tranh.
4
Nhiều nghiên cứu đã cố gắng đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam.
Một số báo cáo tập trung chủ yếu vào tìm hiểu những thay đổi chính của các chỉ số kinh tế vĩ mô (GDP,
xuất khẩu, giá trị sản xuất của các nhóm ngành kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngân sách quốc gia)
nhằm đưa ra những đánh giá nhanh, tổng quan về tình tr
ạng của nền kinh tế (Lê Đăng Doanh, 2009; Ngân
hàng Thế giới, 2009 và Riedel, 2009). Có một số ít các bài viết tập trung phân tích về điều kiện sống của
các hộ gia đình và thị trường lao động. Tuy nhiên, tất cả những bài viết này đều cho rằng cuộc khủng
hoảng có tác động tiêu cực trầm trọng đến thu nhập của các hộ gia đình (nhiều lao động sẽ chuyển dịch
sang các công việc có thu nhập thấp hơ
n trong khu vực kinh tế phi chính thức hoặc quay trở lại với các
hoạt động nông nghiệp).
Những hạn chế về nguồn dữ liệu đáng tin cậy và thích hợp đã khiến chúng ta hầu như không nắm được về
tỷ trọng của bộ phận lao động đã phải trải qua những thiệt hại mất việc làm hoặc giảm đáng kể về thu
nhập. Phần l
ớn các báo cáo hiện có được tiến hành ở cấp độ vi mô dựa vào phân tích định tính đối với một
số khu vực nhỏ hoặc loại hình cụ thể của dân cư. Phạm Ngọc (2009) đề cập đến lao động mất việc làm ở
một số doanh nghiệp (chủ yếu là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài) ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, và
về sự hạn chế khả năng tạo vi
ệc làm, giảm thời gian lao động và thu nhập. Các báo cáo của Oxfarm
(Oxfarm, 2009; Đinh Thị Thu Phương, 2009; Nguyễn Ngoc Anh, 2009; Nguyễn Tam Giang, 2009) đã dựa
vào các nghiên cứu trường hợp và tập trung vào các lao động di cư ở các “chợ lao động”, các làng nghề và
các khu công nghiệp. Báo cáo này cũng kết luận rằng những lao động này phải đối mặt với sự suy giảm cơ
hội việc làm, tình trạng mất việc và cắt giảm thu nhập. Dựa vào các các thông tin tự khảo sát đ
ánh giá tại
bốn tỉnh, báo cáo thực hiện bởi một nhóm nghiên cứu của IPSARD (2009) nhấn mạnh rằng hơn 20% số
lao động di cư từ nông thôn đã mất việc và phải quay trở về quê hương (các xã nghèo chịu tác động nhiều
hơn so với các xã không nghèo). Trong số những người này, chỉ 11% tìm được việc làm mới.
Về phương diện phân tích định lượng, chỉ có hai nghiên cứu của UNDP (Warren-Rodriguez, 2009; Cường
và cộng sự, 2009) thự
c hiện việc đo lường tác động của cuộc khủng hoảng đối với thị trường lao động. Sử
dụng phương pháp tương tự nhau đó là dựa vào phân tích sự co dãn của việc làm theo tăng trưởng, cả hai
nghiên cứu đồng nhất trong việc dự báo khuynh hướng suy giảm mức độ tạo việc làm và hệ quả là dẫn đến
tăng tỷ lệ thất nghiệp (từ 4,6% đế
n khoảng giữa 6,7% và 7,6% đối với khu vực thành thị). Khác với toàn
bộ các nghiên cứu này, Cling và cộng sự (2010b) cho rằng thất nghiệp sẽ không phải là chỉ tiêu biểu hiện
phản ánh của thị trường lao động trước tác động của khủng hoảng mà khu vực kinh tế phi chính thức sẽ là
bộ phận cơ bản cân bằng giữa cung và cầu. Giờ đây khi đã có nguồn dữ liệu thích hợp, chúng ta hoàn toàn
có thể nhìn l
ại tính đúng đắn của các quan điểm khác nhau nêu trên dựa trên nền tảng của những bằng
chứng rõ ràng.
Mức tăng nhẹ của tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế, tập trung vào các nhóm lao động trẻ và
cao tuổi
Những điều kiện bất lợi trên thị trường lao động dường như đã dẫn đến hiệu ứng ngược chiều đối với tỷ lệ
dân số hoạt động kinh tế. Một mặt có những tác động tạo nên áp lực đối với một số phân đoạn của những
người không tham gia hoạt động kinh tế hối thúchọ gia nhập thị trường lao
động. Mặt khác các nhóm có sự
gắn kết yếu nhất với thị trường lao động có thể đã trở thành những lao động thoái chí (một hiện tượng
thường được xem là điểm uốn của tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế). Các bằng chứng thực chứng cho thấy
hiệu ứng thứ nhất thực tế đã lấn át hiệu ứng thứ hai.
Mức tă
ng nhẹ tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế, đặc biệt là ở khu vực thành thị. Tỷ lệ dân số hoạt động
kinh tế đã tăng nhẹ từ 74,5% lên 75,8%. Trong cùng thời gian, tỷ trọng lao động thoái chí (được hiểu là
những lao động không có việc làm không tìm kiếm việc làm vì họ cho rằng không có việc làm mà kỹ năng
của họ có thể đáp ứng hoặc vì họ không biết tìm việc bằng cách nào) trong s
ố những người không tham gia
hoạt động vẫn ở mức tự nhiên rất thấp là 1%. Nhằm tìm hiểu rõ hơn vấn đề này và để có thể chắc chắn
rằng điều này không chỉ do hiệu ứng về mặt cấu thành, chúng tôi thực hiện phân tách lực lượng lao động
theo các nhóm. Thứ nhất, tỷ lệ tăng chung chủ yếu là do tăng ở khu vực thành thị (làm tăng 3,5 điểm phần
5
trăm) nơi nhạy cảm nhất với tác động của khủng hoảng. Ở khu vực nông thôn, mức tăng nhẹ (thêm 0,7
điểm phần trăm) chủ yếu do tăng tỷ lệ tham gia của nam giới, trong khi tỷ lệ tham gia không thay đổi đối
với nữ giới.
Bảng 1: Tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế theo thành thị/nông thôn và giới tính, các năm 2007 và 2009
2007 2009
Thành thị Nông thôn Chung Thành thị Nông thôn Chung
Nam
72,1 81,3 78,8 75,3 82,6 80,4
Nữ
60,8 74,7 70,7 64,2 74,7 71,5
Chung 66,1 77,9 74,5 69,6 78,6 75,8
Nguồn: ĐT LĐ&VL, 2007 & 2009, TCTK. Chung: 15 tuổi trở lên; tính toán của các tác giả.
Những thay đổi chủ yếu là diễn ra đối với nhóm lao động trẻ và già. Thứ hai, xem xét chi tiết hơn về
sự thay đổi của tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế theo nhóm tuổi, có thể nhận thấy những thay đổi chủ yếu
là diễn ra đối với nhóm trẻ và già. Chẳng hạn, đối với nhóm tuổi trẻ nhất (15-19 tuổi), tỷ lệ dân số hoạt
động kinh tế n
ăm 2009 đã tăng 4,8 điểm phần trăm so với năm 2007. Khoảng chênh lệch giữa hai năm
cũng giữ ở mức 2 điểm phần trăm đối với nhóm tuổi từ 20 đến 29 và sau đó trở nên không đáng kể đối
với các nhóm tuổi cao hơn. Chỉ đến phía đuôi bên kia của phân bố theo tuổi thì những hoàn cảnh bất
lợi dường như đã làm gia tăng sự tham gia vào th
ị trường lao động: từ khoảng 55 tuổi trở lên, tỷ lệ dân
số hoạt động kinh tế đã tăng khoảng 2 đến 3 điểm phần trăm năm 2009 so với 2007. Có thể nhận thấy
rõ tác động đầu tiên của khủng hoảng toàn cầu đó là đã hối thúcnguồn lực lao động «thứ cấp» của hộ
gia đình, bao gồm những người trẻ nhất hoặc già nh
ất hòa nhập vào thị trường lao động nhằm ứng phó
với những điều kiện lao động đang suy giảm của những người đang lao động thường xuyên. Khuynh
hướng này có thể dẫn đến những tác động tiêu cực, đặc biệt là về tỷ lệ học sinh tới trường. Tuy nhiên
thật đáng tiếc là chúng ta không thể đánh giá được thực tế về điều này vì câu hỏi về giáo d
ục không
được đề cập đến trong ĐT LĐ&VL2009.
Hình 1: Tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế theo nhóm tuổi, các năm 2007 & 2009
Nguồn
: ĐT LĐ&VL, 2007 & 2009, TCTK. Chung: 15 tuổi trở lên; tính toán của các tác giả.
25%
35%
45%
55%
65%
75%
85%
95%
15‐19 20‐24 25‐29 30‐34 35‐39 40‐44 45‐49 50‐54 55‐59 60‐64 65 & +
Age group
2007 2009
6
Tỷ lệ thất nghiệp thấp về cơ cấu, với khuynh hướng suy giảm rõ rệt đối với nhóm lao
động trẻ tuổi
Sự tăng lên của tỷ lệ thất nghiệp là hiệu ứng tác động trên thị trường lao động mà nhiều người dự đoán
khi diễn ra cuộc khủng hoảng. Như đã trích dẫn ở trên, các nghiên cứu trước ở Việt Nam đã dự đoán
về sự gia tăng đáng kể tình trạng thất nghiệp. Ở cấp độ quốc tế, những số liệu sẵ
n có ban đầu đã khẳng
định dự đoán này (ILO và IMF, 2010). Về phương diện này, có ba đặc điểm chính thu hút được nhiều
sự chú ý nhất: a) sự gia tăng rõ rệt của tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu; b) một tác động đặc biệt lên tỷ lệ thất
nghiệp của thanh niên; và c) sự gia tăng tình trạng thất nghiệp thời hạn dài. Các con số ở Việt Nam
phản ánh tình trạng hoàn toàn đối lập.
Không có sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp chung. Tình trạng thất nghiệp không những không gia tăng mà
trái lại thực tế đã giảm đi: tỷ lệ thất nghiệp giảm từ tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu ở mức thấp chỉ 2% năm
2007 xuống 1,7% năm 2009 (một mức thay đổi quá nhỏ để có thể xét về ý nghĩa thống kê). Ở một
quốc gia ch
ưa phát triển như Việt Nam, con số thống kê tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị thường có
ý nghĩa nhiều hơn so với ở khu vực nông thôn. Tuy vậy có thể thấy thực tế là tỷ lệ thất nghiệp đã giảm
cả ở hai khu vực, nhất là ở khu vực thành thị (từ 3,6% năm 2007 xuống 2,8% năm 2009). Tỷ lệ thất
nghiệp của lao động nữ giảm nhi
ều hơn (giảm 0,7 điểm phần trăm) so với lao động nam (giảm 0,2
điểm phần trăm), đặc biệt là ở khu vực thành thị.
Bảng 2: Tỷ lệ thất nghiệp theo thành thị/nông thôn và giới tính, các năm 2007 và 2009
2007 2009
Thành thị Nông thôn Chung Thành thị Nông thôn Chung
Nam
3,5 1,5 2,0 3,2 1,3 1,8
Nữ
3,6 1,3 1,9 2,5 1,1 1,2
Chung 3,6 1,4 2,0 2,8 1,2 1,7
Nguồn: ĐT LĐ&VL, 2007 & 2009, TCTK. Chung: 15 tuổi trở lên; tính toán của các tác giả.
Tỷ lệ thất nghiệp không phải là một chỉ tiêu hoàn hảo để giám sát sự biến động của thị trường lao
động. Sự biến động của tỷ lệ thất nghiệp theo chu kỳ kinh doanh như vậy không phải là điều ngạc
nhiên. Ngày nay người ta cũng thừa nhận rộng rãi rằng thất nghiệp mở không phải là một chỉ số tốt
nhất của sự cân b
ằng thị trường lao động ở các nước đang phát triển. Ở những quốc gia này những
mối quan hệ về tiền công chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong hoạt động của lực lượng lao động và cũng
ở đó thì rủi ro thất nghiệp không được hỗ trợ bởi các thể chế xã hội nên thiếu hụt nhu cầu được giải
quyết thông qua một cơ chế
khác hơn là tình trạng thất nghiệp (Cling và cộng sự, 2010b).
Thực tế này cũng phản ánh rõ ràng đối với trường hợp của Việt Nam. Hình 2 cho thấy tỷ lệ thất
nghiệp gần như không thay đổi trước những biến động trong tỷ lệ tăng trưởng GDP. Đường biểu diễn
tỷ lệ thất nghiệp tương đối bằng phẳng và nằm ở mức thấp trên đồ thị
. Ở mức cao nhất năm 1997 tỷ lệ
thất nghiệp là 2,9% trong khi tỷ lệ này là đã giảm xuống chỉ là 1,9 % và là mức thấp nhất (năm 1996)
trong suốt thập kỷ trước. Trong suốt những năm tiếp theo (1998 – 2007), tỷ lệ thất nghiệp dao động
theo một biên độ rất nhỏ, nằm giữa các mức 2,8% năm 2001 và 2,1% năm 2003 và 2004 với độ khác
biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê. Khu vực thành th
ị có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn và co dãn nhiều
hơn đối với sự thay đổi của tốc động tăng trưởng. Tuy nhiên trong thời kỳ tồi tệ nhất của cuộc khủng
hoảng ở châu Á, tốc độ tăng trưởng suy giảm tới 5 điểm phần trăm (từ 9,3% năm 1996 xuống còn
4,8% năm 1999) thì tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị chỉ tăng
ở mức dưới 1 điểm phần trăm (từ
5,7% đến 6,5%). Nếu chúng ta lấy cuộc khủng hoảng tài ở châu Á làm chuẩn đối sánh với sự suy
giảm nhịp tăng trưởng với mức độ tương đương như giữa các năm 2007 và 2009 thì sự gia tăng thất
nghiệp có thể là không đáng kể.