Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam . Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.21 KB, 28 trang )

A.PHẦN MỞ ĐẦU
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường lạm phát và thất nghiệp là vấn đề được quan tâm đặc
biệt không chỉ với những nhà hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô mà còn là mối quan
tâm rất lớn của người dân bởi tầm quan trọng của nó. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới
thu nhập việc làm và đời sống của mọi tầng lướp trong xã hội. Có thể nói lạm phát và
thất nghiệp là thước đo thành tựu nền kinh tế của một quốc gia.
Lạm phát và thất nghiệp ở chừng mực vừa phải và được phát huy tích cực là nhân tố
giúp cho ổn định và phát triển kinh tế, trái lại nó sẽ gây ra đình đốn trong sản xuất.
Ở Việt Nam vào những năm 1989 cho thấy tình trạng lạm phát rất nghiêm trọng với
mức tăng giá 3 chữ số, năm cao nhất đạt chỉ số 557% vượt qua lạm phát phi mã với chỉ
số trên tác hại và biểu hiện của nó không kém gì siêu lạm phát. Đời sống nhân dân khổ
cực khó khăn, hàng hóa ngày càng khan hiếm đắt đỏ,thị trường rối loạn.
Sau năm 1989, với quyết tâm của Đảng và Chính phủ với những đổi mới tích cực
trong hệ thống kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng và những thay đổi của chính sách
tiền tệ, chúng ta đã có những bước đầu thành công không những kiềm chế lạm phát ở
mức thấp mà vẫn đảm bảo ổn định kinh tế cao giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động.
Tuy nhiên, đây chỉ mới là những thành công bước đầu chưa ổn định. Trong hoàn cảnh
nền kinh tế nước ta còn non yếu cho việc nghiên cứu về lạm phát và thất nghiệp cũng
như mối quan hệ giữa chúng trở thành điều hết sức quan trọng.
Từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn qua
đường cong Philips của A.William Phillips đến mối quan hệ giữa chúng trong dài hạn
ở Việt Nam sẽ diễn biến như thế nào để có thể nhận định một cách đúng đắn bản chất
thật của mối quan hệ này. Qua đó giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra
nhữngchính sách kinh tế vĩ mô hợp lý và kịp thời để giải quyết khó khăn không chỉ
trong ngắn hạn mà có thể duy trì lâu dài nền kinh tế bền vững.
Vì những lí do trên nhóm 8 đã chọn đề tài “Dựa trên lí thuyết về lạm phát, hãy phân
tích tình hình lạm phát của Việt Nam . Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và thất

1




nghiệp tại Việt Nam” . Nhóm 8 xin chân thành cảm ơn cô Vũ Thị Thanh Huyền –
Giảng viên học phần “Kinh tế vĩ mô” đã hướng dẫn tận tình chúng em trong quá trình
thảo luận, xây dựng đề tài. Chúng em hi vọng sẽ nhận được những ý kiến góp ý của cô
và các bạn để đề tài của nhóm 8 được hoàn thiện hơn . Xin chân thành cảm ơn!
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài nhằm mục đích hệ thống hóa các kiến thức cơ bản về lạm phát và các phạm
trù liên quan đến lạm phát, đặc biệt là lý luận về các giải pháp giảm thiểu lạm phát để
ổn định và phát triển kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là đề tài đã đi vào thực tiễn về
mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2014 đến
năm 2018, từ đó tìm ra tính quy luật phổ biến của diễn biến rất phức tạp của lạm phát
và thất nghiệp trong một quốc gia đang phát triển như là nước ta và các bài học kinh
nghiệm,các giải pháp can thiệp về kiềm chế lạm phát, thất nghiệp trong nền kinh tế đã
có yếu tố hội nhập ở Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và các quan điểm về lạm phát của các nhà
kinh tế hiện đại của nước ngoài và Việt Nam, các quan điểm, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà Nước về kiềm chế lạm phát, thất nghiệp ở Việt Nam để phân tích, lý giải
các chỉ số và đề xuất các giải pháp can thiệp thông qua các phương pháp: Nghiên cứu
tài liệu, trao đổi..
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Cấu trúc của đề tài gồm 2 vấn đề lớn:
I.
Lý thuyết về lạm phát và thực trạng lạm phát tại Việt Nam
II.
Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 20142018

2



B. PHẦN NỘI DUNG
I. Lý thuyết lạm phát, thất nghiệp và thực trạng lạm phát của VN
1. Lạm phát
1.1. khái niệm
- Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chung bình theo thời gian
- Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả ( chỉ số lạm phát):
Công thức tính: Ip= ∑ip.d
trong đó: Ip- chỉ số giá của cả giỏ hang
ip – chỉ số giá của từng loại hangf, nhóm hang trong giỏ
d – tỷ trọng mức tiêu dung của từng loại, nhóm hangf trong giỏ
1.2. Tỷ lệ lạm phát: (gp)
- tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ
1.3. Công thức tính
+ theo chỉ số giá tiêu dùng CPI:
gp= (-1)x100
trong đó: gp – tỷ lệ lạm phát
CPIp –chỉ số giá của thời kỳ nghiên cứu
CPIp-1 - chỉ số giá cả của thời kỳ trước đó
+ Theo chỉ số giảm phát:
Chỉ số giảm phát GDP= DGDP=
gp=( - 1)
trong đó: Dgdpn chỉ số giảm phát GDp của năm hiện tại
Dgdp(n-) – chỉ số giảm phát GDP của năm gốc

3


- Quy mô lạm phát:

+ Lạm phát vừa phải: có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm
+ Lạm phát phi mã: khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một
năm
+ siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao hơn lạm phát phi mã
t( thường trên 200% một năm )
1.4. Nguyên nhân:
+ Lạm phát do cầu kéo
Xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm
năng.

+ Lạm phát chi phí đẩy
Đặc điểm của lam phát chi phí đẩy là áp lực tăng giá cả xuất phát từ sự tăng lên của chi
phí sản xuất vượt quá mắc tăng của năng suất lao động và làm giảm mức cung ứng hàng
hóa của xã hội.

4


Nguyên nhân đẩy chi phí lên cao là do các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào – đặc
biệt là các vật tư cơ bản ( xăng, dầu, điện, …) ( thiên tai, chiến tranh, sự biến động chính
trị, kinh tế…)
+ Lạm phát tiền tệ:
Xảy ra khi lượng cung tiền tăng , khiến cho tiền trong lưu thông nhiều.

5


+ Lạm phát do cơ cấu:
Nghành kinh doanh không có hiệu quả vì thế không thể tăng tiền công trên danh nghĩa
cho người lao động của mình . Nhưng để đảm bảo lợi nhuận của mình , nghành kinh

doanh sẽ tăng giá thành nên lạm phát diễn ra .
+ Lạm phát do xuất khẩu :
Xảy ra khi xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung , hoặc sản phẩn được
huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phảm cho thị trường trong nước giảm
khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu .
+ Các nguyên nhân khác:
Tâm lý người dân: khi ng dân không tin tưởng vào đồng tiền nhà nước, họ sẽ không
giữ tiền mà đẩy vào lưu thong bằng việc mua hàng hóa hay đầu tư vào lĩnh vực kinh
doanh nào đấy làm cho cầu tăng lên mà không cung cấp không đáp ứng đc sẽ gây ra lạm
phát
Do thâm hụt NSNN

6


Ngoài ra còn do chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu không
hợp lý, mất cân đối.
2. Thất nghiệp
2.1. Khái niệm thất nghiệp
 Thất nghiệp, trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà
không tìm được việc làm
2.2. Tỷ lệ thất nghiệp
- là % số người thất nghiệp sp với tổng số người trong lực lượng lao động
Tỷ lệ thất nghiệp = x 100%
2.3. Các loại thất nghiệp
- phân theo loại hình thất nghiệp.
- Phân loại theo lý do thất nghiệp
- Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp
+ Thất nghiệp tạm thời:
Loại này chủ yếu bao gồm những người đang đi tìm việc, xuất thân từ thành phần bỏ việc

làm cũ đi tìm việc làm mới vì họ không thỏa mãn với mức lương và môi trường làm việc
hiện tại, họ sẵn sàng bỏ việc để tìm cho mình một công việc phù hợp nhất với khả năng
và mong muốn của bản thân.
+ thất nghiệp cơ cấu:
Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động. Sự mất cân đối có thể xảy ra do
2 nguyên nhân:- Sự thay đổi cơ cấu ngành hoặc công việc đòi hỏi trình độ cao hơn đối
với người lao động làm cho những kỹ năng hiện tại của họ không còn phù hợp nữa.
+ Thất nghiệp do thiếu cầu:
là tình hình trong đó tổng cầu (AD) quá thấp, vì vậy không đủ việc làm cho những người
muốn làm việc tại mức lương thực tế hiện hành trên thị trường.
+ Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường:
. Nó xảy ra khi tiền lương được ấn định không bởi các lực lượng thị trường và cao hơn
mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động.
2.4. Thất nghiệp tự nhiên

7


- Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ thất nghiệp mà nền kinh tế đạt được ứng với mức sản
lượng tiềm năng.
3. Tình hình lạm phát của Việt Nam
3.1. Thực trạng:
3.1.1. Lạm phát ở nước ta trong thời kỳ đổi mới(1986)
Trước thời kỳ đổi mới,nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp nên vấn đề giá cả chưa chịu tác động của quy luật thị trường,mà được
định ra theo mệnh lệnh và qui định ,do vậy lạm phát không xuất hiện. Tuy nhiên bước
vào giai đoạn 1976-1985,nền kinh tế đã có nhiều biểu hiện suy thoái, khủng hoảng và lạm
phát. Lạm phát thời kì này là lạm phát phi mã 700-800%.Lạm phát này phá vỡ hoàn toàn
mọi cân đối và hệ thống tài chính-tiền tệ rối loạn,kinh tế-xã hội có nhiều biến động
xấu.Sản xuất đình đốn, kinh doanh kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, chi phí vật

chất cao, thu nhập quốc dân tăng không đáng kể, đời sống của người dân giảm sút, giá cả
ở thị trường chính thức và thị trường chợ đen có khoảng cách khá xa. Nông nghiệp với tỷ
trọng chiếm trên 40%tổng sản phẩm xã hội và khoảng 50% thu nhập quốc dân nhưng giá
trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân chỉ ở mức 3,8%/năm.Độc canh cây lúa với tổng
sản lượng lương thực chỉ đạt 18,2 triệu tấn vào năm 1985 nên tình trạng thiếu lương thực
và đói ăn của người dân kéo dài triền miên,công nghiệp cũng chỉ tăng 5,2%/năm.Dịch vụ
hầu như không phát triển, xuất khẩu thì với số lượng nhỏ bé, chỉ đạt khoảng 746 triệu
USD vào năm 1985, trong khi thâm hụt cán cân thương mại lại cao(844 triệu USD
năm1985) gấp 1,13 lần so với xuất khẩu. Thời kì 1976-1980, vay nợ và viện trợ nước
ngoài chiếm 38,2% tổng số thu ngân sách Nhà nước và bằng 61,9% tổng số thu trong
nước. Bội chi ngân sách Nhà nước vào 1980 là 18,1% và năm1985 là 36,6% so với GDP.
Đây là tình trạng đất nước làm không đủ ăn, tình hình kinh tế –xã hội khó khăn không thể
kể hết.

3.1.2. Thời kì bắt đầu đổi mới 1986-1990
Bước sang thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Sau Đại hội Đảng lần VI, công cuộc đổi mới đã đạt được những kết quả bước đầu rất
đáng khích lệ, nhất là từ năm 1989.Tuy nhiên,nền kinh tế nước ta vẫn đang ở trong tình
trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội:kinh tế phát triển chậm không ổn định;bình quân thời
kì 86-90 tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất nông nghiệp là 3,5%, công nghiệp là

8


6,2% và tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 3,9%,trong khi dân số tăng 2,3%. Trong giai đoạn
này hầu hết các cân đối lớn đều căng thẳng:thâm hụt ngân sách ở mức 8% so với GDP,
kim nghạch xuất khẩu chỉ đạt ở mức thấp và chỉ bằng 54% kim nghạch nhập
khẩu(1986,kim nghạch xuất khẩu đạt 499 triệu USD và năm 1990 đạt 1734 triệu USD.
Lạm phát phi mã tuy đã được đẩy lùi nhưng vẫn còn rất cao(từ 487,2% năm 1986 còn
67,1% năm 1990)

Giai đoạn 1986-1990,mặc dù Đảng và chính phủ đã có nhiều biện pháp đổi mới về cơ chế
chính sách và có nhiều giải pháp điều hành mới như :đề ra ba chương trình kinh tế
lớn(chương trình lương thực –thực phẩm,chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và
chương trình sản xuất hàng xuất khẩu), nghị quyết 10 của Bộ chính trị (5/4/1988) về đổi
mới trong nông nghiệp, quyết định 217/HĐBT trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh cho doanh nghiệp quốc doanh, luật đầu tư nước ngoài ra đời(12/1987), thả nổi giá
cả đối với tất cả các loại hàng hoá và vật tư, xoá bao cấp qua giá, nhưng đời sống nhân
dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, số người không có việc làm ngày càng lớn, chiếm trên
10% lực lượng lao động xã hội…Thu nhập bình quân trên đầu người thấp cộng với lạm
phát cao nên mức sống thực của người dân đã thấp lại còn thấp hơn. Trong giai đoạn
1986-1990,điểm đáng nhớ là hàng hoá sản xuất ra không bán được, hàng hoá tồn đọng,
nhiều cơ sở phải thu hẹp hoặc ngừng sản xuất, tài chính doanh nghiệp rối ren, tình trạng
ngăn sông cấm chợ vẫn còn diễn ra.
Cuối giai đoạn 1986-1990 tình hình kinh tế –xã hội đã có nhiều cải thiện, tổng sản phẩm
xã hội tăng bình quân mỗi năm 4,8%, thu nhập quốc dân bình quân đầu người mỗi năm
tăng 3,9%, sản lượng lương thực đã đạt 21,5 triệu tấn,phân phối lưu thông đã có những
bước tiến quan trọng, nhu cầu tiêu dùng giả tạo đã giảm đáng kể, hoạt động kinh tế đối
ngoại có nhiều khởi sắc, tốc độ xuất khẩu có tăng nhanh hơn, các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh bắt đầu phát triển.

3.1.3. Thời kỳ kinh tế đi vào ổn định(1991-1995)
Bước sang giai đoạn 1991-1995, tình hình kinh tế –xã hội nước ta có nhiều chuyển biến
tích cực, tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, liên tục và toàn diện, nền kinh tế đã bắt đầu vượt
qua khủng hoảng để đi vào thế ổn định. Tổng sản phẩm trong nước thời kì 1991- 19995
tăng bình quân 8,2%(năm 1991 tăng 6%,1992 tăng 8,6%,1993 tăng 8,1%,1994 tăng 8,8%
và 1995 tăng 9,5%), giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm tăng5,2%, sản
lượng lương thực hàng năm tăng 4%, lương thực bình quân đầu người đã tăng liên tục từ
324,9kg năm 1991 lên 400kg năm 1998, và từ nước nhập khẩu gạo đến giai đoạn này đã

9



là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, nhiều nhân tố mới trong nông nghiệp xuất
hiện, hình thành nhiều hộ sản xuất kinh doanh giỏi và khoảng 11,5 vạn hộ phát triển kinh
tế trang trại. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm khoảng 13%, vượt
qua nhiều thử thách gay gắt của thị trường, thích nghi dần với cơ chế mới, nhiều sản
phẩm quan trọng tác động quyết định đến nền kinh tế đều tăng trưởng khá. Các ngành
dịch vụ phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống của
nhân dân. Lưu thông vật tư hàng hoá và dịch vụ phát triển phong phú, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của xã hội về số lượng, chất lượng và chủng loại đã góp phần tạo nên
những biến động sâu sắc trên thị trường trong nước. Trong giai đoạn 1991-1995, điểm nổi
bật là sự tăng trưởng kinh tế vượt trội hơn tất cả các giai đoạn trước đó với tốc độ tăng
trưởng cao nhất, ổn định và liên tục,tăng trưởng từ bản thân nền kinh tế ít dựa vào bao
cấp và trợ lực từ bên ngoài. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng từ 2,9% năm 1991
lên 6,6% năm 1995(năm 1992 tăng 8,4%, 1993 tăng 6,7%,1994 tăng 4,9%).Sản lượng
lương thực đã tăng từ 14,3 triệu tấn giai đoạn 1976- 1980,17 triệu tấn/năm giai đoạn
1986-1990 lên 25,1 triệu tấn giai đoạn 1991-1995. Thành công trong quá trình đổi mới
của nền kinh tế giai đoạn 1991-1995 là bước đầu chặn được lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng
giảm từ 67,1% năm 1990xuống 12,7% năm 1995(năm 1991 tỉ lệ lạm phát là 67,5% , năm
1992 là 17,5%, năm 1993 là 5,2%, năm 1994 là 19,4%, năm 1995 là 12,7%).Mặc dù chỉ
số giá tiêu dùng vẫn ở mức hai con số, nhưng đây là một chỉ số rất nhỏ bé so với các năm
trước đó, tình hình kinh tế-xã hội đã có nhiều khởi sắc và đang càng ngày đi vào thế ổn
định và phát triển, đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước. Do vậy, giai đoạn này,
tình hình chính trị xã hội đã có nhiều hứng khởi, lòng dân được khích lệ và tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước hơn.

3.1.4. Thời kỳ kinh tế có nhiều dấu hiệu trì trệ(1996-2000)
Bước sang giai đoạn này, tình hình kinh tế –xã hội đã đi vào thế ổn định và phát triển.
Đây là giai đoạn được xác định là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới-đẩy
mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Năm 1996,kế thừa những thành quả đã đạt

được trong giai đoạn trước, tình hình kinh tế xã hội có những chuyển biến tích cực,đạt tốc
độ tăng trưởng kinh tế khá cao(9,3%). Tuy nhiên khủng hoảng kinh tế khu vực đã có tác
động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Nền kinh tế nước ta đã phải đối mặt với những
thách thức quyết liệt từ những yếu tố không thuận lợi bên ngoài và thiên tai liên tiếp ở
trong nước. Bên cạnh đó lại có những yếu kém từ nội tại nền kinh tế bộc lộ ra:Sản xuất
kinh doanh một số nghành có phần bị trì trệ, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, tốc độ tăng
thu hút vốn đầu tư nước ngoài chậm lại. Trước tình hình đó,Đảng và chính phủ đã có
nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, hạn chế sự giảm sút, duy trì và ổn định tốc độ tăng

10


trưởng kinh tế. Tuy nhiên tốc độ tăng GDP theo các năm có giảm chút ít và năm 2000 tốc
độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên, chặn được đà giảm sút các năm trước đó(GDP năm
1996 tăng 9,34%, 1997 tăng 8,15%,1998 tăng 5,76%,1999 tăng 4,77%,năm 2000 đạt
6,79%). Trong giai đoạn 1996-2000,đã bảo đảm duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế
khá ,GDP bình quân tăng 7%/năm,giá trị sản xuất nông,lâm,ngư nghiệp tăng
5,8%/năm,giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm,giá trị các nghành dịch vụ tăng
6,8%/năm,GDP bình quân đầu người năm 2000 tăng gấp 1,8 lần năm 1990. Trong giai
đoạn này, điều đặc biệt làm chúng ta quan tâm là đi cùng với tốc độ tăng trưởng nền kinh
tế có chiều hướng chững lại và đi xuống thì tỷ lệ lạm phát được kiểm soát, giảm xuống
mức thấp đáng kể và chuyển sang xu thế thiểu phát. Điều này được thể hiện ở chỗ tỷ lệ
lạm phát năm 1995 là 12,7% thì năm 2000 là một số âm (-0,6%)(năm 1996 tỷ lệ lạm phát
là 4,5%,1997 là 3,6%,1998 là 9%, 1999 là 0,1%) Vào các năm cuối của giai đoạn 19962000,tình hình lạm phát có thay đổi,tỷ lệ lạm phát ở mức thấp như không thể thấp hơn
được nữa và nguy cơ thiểu phát đã xuất hịên. Đi cùng với chỉ số giá ở mức 0,1% năm
1999 và (-0,6%)năm 2000 là sản xuất trì trệ,các hoạt động kinh doanh có nhiều dấu hiệu
đình đốn. Chúng ta đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát bảo đảm lạm phát từ 3
con số xuống còn 2 con số và giữ nguyên ở mức 1 con số. Nhưng kiềm chế được lạm
phát thì lại phát sinh vấn đề thiểu phát và từ thiểu phát tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng
giảm xuống. Như vậy diễn biến tình hình lạm phát và tăng ttrưởng trong giai đoạn 19962000 là không tốt đối với nền kinh tế. 4-Thời kỳ kinh tế có bước phát triển mới (20012004) Với những vấn đề nêu trên, những năm đầu của giai đoạn 2001-2005,chúng ta đã

áp dụng nhiều biện pháp hạn chế thiểu phát, kích cầu nhằm đưa tỷ lệ lạm phát lên một
mức hợp lí và nhằm đạt được tộc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Với mục tiêu tăng
trưởng kinh tế nhanh , bền vững và ổn định,trong bốn năm vừa qua 2001-2005, nền kinh
tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khả quan:năm 2000 chặn đứng đà giảm sút của tốc
độ tăng trưởng GDP, năm 2001 tốc độ tăng trưởng GDP được cải thiện, bắt đầu tăng và
đạt 6,89%,năm 2002 tốc độ này đạt 7,04%, năm 2003 tăng 7,24% và năm 2004 tăng
7,62%. Trong bốn năm vừa qua kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao , cơ cấu kinh
tế đã chuyển dịch theo định hướng công nghiệp hoá, hiên đại hoá, vốn đầu tư vào cơ sở
hạ tầng của nền kinh tế đã tăng lên đáng kể, đời sông của nhân dân tăng lên rõ rệt,tỷ lệ
đói nghèo đã giảm đi trông thấy, xã hội đang đi vào thế ổn định và hưng thịnh. Mọi mặt
của đời sống xã hội đã được cải thiện và phát triển. Tỷ lệ lạm phát trong các năm trong
giai đoạn này cũng tăng dần lên từ (-0,6%) năm 2000 lên 9,5% năm 2004(năm 2001 chỉ
số giá ở mức 0,8%, 2002 là 4%, năm 2003 là 3%). Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển
mạnh của nền kinh tế trong giai đoạn 2001-2004 như đã nói ở trên, thì lạm phát lại có
nguy cơ tái diễn. Năm 2004 tình hình biến động trên thị trường thế giới và biến động trên

11


thị trường trong nước lạm phát lại như một bóng ma một lần nữa rập rình gây bất ổn nền
kinh tế.
3.1.5. Lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2014 đến 2018
Chỉ tiêu

Năm
2014

Năm
2015


Năm
2016

Năm
2017

Năm
2018

GDP

5,98

6,68

6,21

6,81

7,08

CPI

1,84

0,6

4,74

3,53


3,54

Bảng 2: giá trị GDP và CPI của Việt Nam giai đoạn 2014-2018
8.00
7.00
6.00
5.00
CPI

4.00

GDP
3.00
2.00
1.00
0.00
2014

2015

2016

2017

2018

Tên biểu đồ:biểu đồ thể hiện giá trị GDP và CPI của Việt Nam giai đoạn 2014- 2018
Từ bảng số liệu trên và biểu đồ đã vẽ cho thấy: Từ bảng trên cho thấy thực trạng lạm
phát của nước ta cao nhất là vào năm 2016, khi mà chỉ số CPI đạt 4,74% rồi giảm dần

vào những năm sau đó. Thấp nhất là vào năm 2015, chì số CPI chỉ đạt 0,6%., từ năm
2016 cho đến 2018,Mức lạm phát thấp và duy trì tường đối ổn định (dao động ở khoảng
4%)
-Năm 2014: trong nước, do ưu tiên hàng đầu của Chính phủ là ổn định vĩ mô, kiểm soát
lạm phát, kết hợp với các điều kiện tích cực của kinh tế vĩ mô trong năm 2013, lạm phát
năm 2014 của Việt Nam tiếp tục duy trì ở mức thấp, phù hợp với diễn biến chung của xu

12


thế lạm phát trong khu vực. Tính chung cả năm 2014, lạm phát Việt Nam chỉ tăng 1,84%
so với năm 2013, trong đó, giáo dục có mức tăng cao nhất 8,25%, riêng dịch vụ giáo dục
tăng 8,96%, các nhóm hàng hoá khác đều có mức tăng khá thấp (khoảng 1 - 2%), riêng
hai nhóm hàng hoá có tỷ trọng lớn trong CPI là giao thông và nhà ở - vật liệu xây dựng là
giảm giá (giảm 5,57% và 1,95%). Ngoài ra, trong suốt 5 năm qua, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) và giá của hầu hết các nhóm hàng trong rổ CPI đều diễn biến cùng xu hướng, chỉ
riêng nhóm giáo dục - y tế là diễn biến khác với xu thế chung, do ảnh hưởng của lộ trình
điều chỉnh giá dịch vụ y tế và giáo dục. Tuy nhiên, nếu xét riêng năm 2014, lạm phát đã
có diễn biến khác so với quy luật thông thường, điều này cần lưu ý bởi các yếu tố mang
tính bất thường thì không ổn định trong dài hạn và có thể gây nên những tín hiệu không
chuẩn xác trong điều hành chính sách, đặc biệt là chính sách tiền tệ, do độ trễ của phản
ứng chính sách thường cần thời gian dài để phát huy ảnh hưởng
Như vậy, lạm phát 2014 chỉ đạt khoảng 37% mức lạm phát mục tiêu do Chính phủ đặt ra.
Nếu xét theo mức lạm phát bình quân, lạm phát năm 2014 tăng 4,09% so với năm 2013,
đạt 80% mục tiêu. Dù xét theo chỉ tiêu nào thì đây vẫn là điều đáng mừng bởi lần đầu tiên
trong 10 năm qua, lạm phát tăng thấp hơn tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao chất
lượng đời sống của người dân và giá trị đồng nội tệ, tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua giảm lãi suất cho vay trong thời gian
tới. Bên cạnh đó, lạm phát thấp của năm 2014 đã chấm dứt xu thế “2 năm tăng, 1 năm
giảm” kể từ năm 2000, nếu căn cứ vào triển vọng hàng hoá trong thời gian tới, có khả

năng Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ lạm phát tăng thấp hơn tăng trưởng kinh tế.
Sau nhiều năm đứng trong nhóm các nước có lạm phát cao nhất thế giới, lạm phát thấp
trong năm 2014 đã đưa Việt Nam vào vị trí thứ 58 trong bảng xếp hạng lạm phát toàn thế
giới (theo thứ tự từ thấp đến cao), đây là mức xếp hạng tích cực nhất trong vòng 13 năm
qua.
-Năm 2015: Tổng cục thống kê tổng kết lạm phát năm 2015 có mức tăng tương đối thấp
so với 14 năm trở lại đây.
-Năm 2016: được coi là thành công trong việc kiểm soát lạm phát trong điều kiện giá
một số mặt hàng thiết yếu tăng trở lại nhưng nhờ lạm phát thấp nên Nhà nước vẫn có dư

13


địa điều chỉnh giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý tiệm cận dần theo giá thị trường.

Lạm phát cơ bản tháng 12/2016 tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước (lạm phát
sau khi loại trừ giá lương thực-thực phẩm, giá năng lượng và giá các mặt hàng do
Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục), tăng nhẹ so với mức
1,69%
của
năm
2015.
Một thước đo khác là lạm phát GDP cũng chỉ ở mức 1,1% (cao hơn so với mức
-0,2% trong năm 2015), bởi năm 2016 trong khi GDP thực tăng 6,2%, thì GDP
danh nghĩa cũng chỉ tăng 7,3% (từ 4192 nghìn tỷ đồng lên 4502 nghìn tỷ đồng).
Như vậy, có thể thấy rằng, nếu loại trừ các yếu tố làm tăng giá mang tính ngắn
hạn, lạm phát của Việt Nam chỉ vào khoảng 1-2% và là mức tương đối thấp. Hơn
nữa, mức lạm phát thấp này đã được duy trì tương đối ổn định kể từ giữa năm

14



2016, khi lạm phát cơ bản chỉ dao động xoay quanh mức 0,1%/tháng.

-Năm 2017 :Theo đó, CPI bình quân năm 2017 tăng 3,53% so với năm 2016 và tăng
2,6% so với tháng 12/2016. Như vậy, mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ mức CPI bình
quân năm 2017 dưới 4% đã đạt được trong bối cảnh điều chỉnh được gần hết giá các mặt
hàng do nhà nước quản lí.

15


Bình quân năm 2017 so với năm 2016, lạm phát chung có mức tăng cao hơn lạm phát cơ
bản, điều này phản ánh biến động giá do yếu tố thị trường có mức tăng cao, đó là giá
lương thực thực phẩm, giá xăng dầu và yếu tố điều hành giá cả qua việc điều chỉnh tăng
giá dịch vụ y tế và giáo dục. Bình quân năm 2017 lạm phát cơ bản là 1,41% thấp hơn
mức kế hoạch từ 1,6-1,8%, cho thấy chính sách tiền tệ vẫn đang được điều hành ổn định.
CPI bình quân năm 2017 tăng 3,53% so với bình quân năm 2016, dưới mục tiêu Quốc hội
đề ra. CPI tháng 12/2017 tăng 2,6% so với tháng 12/2016, bình quân mỗi tháng tăng
0,21%. CPI bình quân năm 2017 tăng chủ yếu là do các địa phương điều chỉnh giá dịch
vụ y tế, dịch vụ khám chữa bệnh. Có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI
năm nay như chỉ số giá nhóm thực phẩm bình quân năm giảm 2,6% so với năm 2016
(chủ yếu giảm ở nhóm thịt tươi sống). Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền
tệ kiên định mục tiêu giữ ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
-Năm 2018: Tổng cục Thống kê nhấn mạnh năm 2018 được coi là thành công trong việc
kiểm soát lạm phát.Theo đó, CPI bình quân năm 2018 tăng 3,54% so với năm 2017 và
tăng 2,98% so với tháng 12 năm 2017. Như vậy, mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ CPI
bình quân năm 2018 dưới 4% đã đạt được trong bối cảnh điều chỉnh được gần hết giá các
mặt hàng do nhà nước quản lý đặt ra trong năm 2018.


16


3.2. Nguyên nhân:
-Năm 2014:
+tiêu dùng thấp và mức cải thiện chậm trong khi nguồn cung hàng hoá ổn định và có xu
thế tăng trưởng tích cực hơn
+sự ổn định của thị trường ngoại hối cùng với mức điều chỉnh tăng tỷ giá thấp 1%, việc
điều chỉnh giảm liên tục các mức lãi suất cho vay cũng góp phần kiềm chế đáng kể tốc độ
tăng lạm phát.
+lạm phát chủ yếu chịu sự tác động của việc điều chỉnh giá các mặt hàng cơ bản như giá
dị ch vụ y tế , giáo dục, giá xăng dầu. Tuy giá các mặt hàng cơ bản này có sự điều chỉnh
nhưng nhìn chung, mức ảnh hưởng không lớn và không gây ảnh hưởng kéo dài
+giá cả hàng hoá thế giới có mức tăng thấp và vẫn tiếp tục xu hướng giảm.
-Năm 2015:
+ nguồn cung về lương thực, thực phẩm trong nước dồi dào, ngoài ra sản lượng lương
thực của thế giới tăng cùng với sự cạnh tranh với các nước như Thái Lan, Ấn Độ nên việc
xuất khẩu gạo của Việt Nam gặp khó khăn hơn
+giá nhiên liệu trên thị trường thế giới gần đây giảm mạnh, giá dầu Brent xuống mức
thấp nhất trong vòng 5 năm qua
+mức độ điều chỉnh giá của nhóm hàng do Nhà nước quản lý như dịch vụ giáo dục, dịch
vụ y tế thấp hơn so với năm trước.
+với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
từ số lượng sang chất lượng, từ chiều rộng sang chiều sâu, nâng cao hiệu quả đầu tư,
nâng cao năng suất lao động.
+trong hai năm gần đây, CPI tăng thấp, ngoài các nguyên nhân như đã đề cập, còn có yếu
tố tâm lý, chi tiêu của người dân được tính toán kỹ hơn, cân nhắc hơn.
-Năm 2016:
+ yếu tố thị trường, các dịp nghỉ lễ, Tết kéo dài kéo theo sự gia tăng của các chỉ số giá
nhóm hàng ăn uống, dịch vụ, chỉ số giá nhóm du lịch trọn gói tăng 3,75% so với tháng 12

năm trước, ngoài ra các nhóm may mặc, đồ uống và thuốc lá cũng có chỉ số giá tăng cao.

17


+Giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh 12 đợt tăng (vào các tháng
3,4,5,6,9,10,11,12), theo đó, giá xăng dầu trong quý II tăng 1,1%, quý III tăng 6,5%, quý
IV tăng 5,69% so với quý trước.
+yếu tố làm giảm CPI: mặt hàng lương thực, thực phẩm, giá các mặt hàng thiết yếu trên
thế giới khá ổn định, giá nhiên liệu trên thị trường thế giới, Giá gas sinh hoạt,
+ Thời tiết khắc nghiệt, rét hại, rét đậm ở miền Bắc, bão lũ ở miền Trung, khô hạn ở miền
Trung, Tây nguyên và xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long đã đẩy giá lúa, gạo
trên thị trường tăng cao. Chỉ số giá nhóm lương thực tháng 12 năm 2016 tăng 2,57% so
với tháng 12 năm trước. Do thời tiết nóng lạnh thất thường nên nhu cầu dùng điện sinh
hoạt tăng cao, theo đó chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 2,03% so năm trước.
-Năm 2017:
+ tình hình chính trị thế giới sẽ và tiếp tục có xu hướng ổn định hơn trong năm 2017.
+ một số nền kinh tế lớn có khả năng chi phối và dẫn dắt kinh tế thế giới có nhiều dấu
hiệu tích cực về tăng trưởng
+giá dầu trên thị trường thế giới năm 2017 nhiều khả năng ít biến động mạnh so với năm
2016.
+Các chính sách quản lý, điều hành nền kinh tế, đặc biệt là chính sách tài khoá, tiền tệ
tiếp tục thực hiện theo hướng chủ động, thận trọng, chặt chẽ, tiết kiệm và góp phần phát
triển kinh tế bền vững, giá cả, thị trường ổn định.
+ kinh tế Mỹ tăng trưởng trở lại, đồng USD sẽ mạnh lên, đặc biệt việc Mỹ rút khỏi Hiệp
định Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) làm cho thị trường xuất khẩu của Việt Nam
khó khăn hơn; tỷ giá có biến động tăng cao hơn năm 2016 và điều này có thể tác động
đến CPI năm 2017
+ giá cả một số sản phẩm, dịch vụ do nhà nước quản lý (giá dịch vụ y tế, giáo dục,giá
điện, giá nhiên liệu) tiếp tục điều chỉnh tăng trong năm 2017.

-Năm 2018:
+chính sách của chính phủ:
-Mức lương mới áp dụng cho người lao động ở các doanh nghiệp tăng,
- Đối với điều hành của Chính phủ, giá dịch vụ y tế tăng và giảm theo các thong tư chính
phủ đề ra để ổn định giá cả

18


- tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 2/10/2015
-giá xăng dầu thị trường thế giới tăng khá mạnh, tuy nhiên đến 2 tháng cuối năm giảm
mạnh.
II. mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
1. Thực trạng thất nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 2013-2018

Năm

2014

Tỷ
lệ 2,08%
thất
nghiệp

2015

2016

2017


2018

2,31%

2,3%

2,24%

2,0%

Nguồn : tổng cục thống kê
Bảng 3: bảng thống kê tỷ lệ thất nghiệp của lao động tại Việt Nam giai đoạn 2013-2018.
Nhận xét:
Bảng số liệu trên cho thấy trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2018, tỷ lệ thất nghiệp
của lao động Việt Nam ở mức ổn định dao động ở mức trên 2%. Năm 2015 có tỷ lệ thất
nghiệp cao nhất(0,31%) sau đó giảm dần và thấp nhất vào năm 2018 (2,0%).
-Năm 2014: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2014 là 2,08% (Quý I là
2,21%; quý II là 1,84%; quý III là 2,17%; quý IV là 2,1%), trong đó khu vực thành thị là
3,43%, thấp hơn mức 3,59% của năm trước; khu vực nông thôn là 1,47%, thấp hơn mức
1,54% của năm 2013.
- Năm 2015:Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2015 là 2,31% (Năm 2013
là 2,18%; năm 2014 là 2,10%), trong đó khu vực thành thị là 3,29% (Năm 2013 là 3,59%;
năm 2014 là 3,40%); khu vực nông thôn là 1,83% (Năm 2013 là 1,54%; năm 2014 là
1,49%). Nền kinh tế khởi sắc với sự phát triển mạnh của khu vực công nghiệp và dịch vụ
là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi giảm dần theo quý (Quý I là 2,43%; quý II là
2,42%; quý III là 2,35%; quý IV là 2,12%) và giảm chủ yếu ở khu vực thành thị (Quý I là
3,43%; quý II là 3,53%; quý III là 3,38%, quý IV là 2,91%).

19



-Năm 2016: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2016 là 2,30% (Năm 2015
là 2,33%; năm 2014 là 2,10%), trong đó khu vực thành thị là 3,18% (Năm 2015 là 3,37%;
năm 2014 là 3,40%); khu vực nông thôn là 1,86% (Năm 2015 là 1,82%; năm 2014 là
1,49%). Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15-24 tuổi) năm 2016 là 7,34%, trong đó khu
vực thành thị là 11,30%; khu vực nông thôn là 5,74%.
-Năm 2017: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2017 là 2,24%, trong đó
khu vực thành thị là 3,18%; khu vực nông thôn là 1,78%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh
niên (Từ 15-24 tuổi) năm 2017 là 7,51%, trong đó khu vực thành thị là 11,75%; khu vực
nông thôn là 5,87%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2017 là
1,63%, trong đó khu vực thành thị là 0,85%; khu vực nông thôn là 2,07%. Tỷ lệ lao động
có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp16 năm 2017 ước tính là 57%, trong đó khu
vực thành thị là 48,5%; khu vực nông thôn là 64,4%.
Năm 2018: Tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước năm 2018 là 2,00%, trong đó khu vực
thành thị là 2,95%; khu vực nông thôn là 1,55%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong
độ tuổi ước tính là 1,46%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 0,69%; tỷ lệ
thiếu việc làm khu vực nông thôn là 1,85%.
2. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp giai đoạn 2014 đến 2018
-Khi nói đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp , các nhà kinh tế thường đề cập
đến khái niệm “đánh đổi”. đánh đổi có nghĩa là được cái này mất cái kia , chọn cái này
phải bỏ cái kia . A.W.Philips đã phát hiện ra rằng thất nghiệp giảm thì lương có khuynh
hướng tăng , lương tăng sẽ làm tăng giá . Như vậy , thất nghiệp giảm sẽ kéo theo tình
trạng lạm phát tăng . Phát hiện này đã dẫn đến một luận điểm cho rằng giữa lạm phát và
thất nghiệp có sự đánh đổi với nhau. Vậy thì sự đánh đổi này được thể hiện như thế nào?
Có phải luôn xảy ra tình trạng đánh đổi không ?
- Lạm phát và thất nghiệp là những vấn đề vĩ mô được dân chúng và chính phủ các nước
quan tâm hàng đầu vì những ảnh hưởng trực tiếp, to lớn đến đời sống người dân và sự ổn
định của nền kinh tế . Cho đến nay , có nhiều nhà kinh tế học đã nghiên cứu và đưa ra
nhiều ý kiến khác về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp để có những chính sách

điều tiết vĩ mô hợp lý nhằm tác động để điều chỉnh mức thất nghiệp và lạm phát .

20


- Xét về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam, ta có bảng số liệu sau:
Năm
Thất
nghiệp
Lạm
phát

2014
2,08

2015
2,31

2016
2,30

2017
2,24

2018
2,0

1,84

0,6


2,66

3,53

3,54

Bảng 4: tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 2014-2018

7
6
5
4
lạm phát
thất nghiệp

3
2
1
0
2014

2015

2016

2017

2018


Biểu đồ: thế hiện tình trạng lạm phát và thất nghiệp của Việt Nam giai đoạn 2014- 2018
-Qua diễn biến của số liệu thực tế trên bảng và biểu đồ đã vẽ, ta có thể nhận thấy: mối
quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp thể hiện rõ nét các tính chất của 1 chu kỳ kinh tế từ
tăng trưởng cao đảo chiều sang suy thoái , từ suy thoái chuyển sang phục hồi và tăng
trưởng và lại chuyển sang suy thoái . Có thể thấy , trong giai đoạn này mối quan hệ giữa
thất nghiệp và lạm phát tại Việt Nam có quan hệ đánh đổi. Tuy nhiên , nhìn vào bảng số
liệu dựa theo xu hướng biến động của thất nghiệp và lạm phát, có thể thấy rằng mối quan
hệ đánh đổi này thể hiện khá là mờ nhạt và cũng khó nhận diện trực tiếp theo số liệu

21


thống kê. Trong khoảng thời gian này, khi lạm phát biến đổi phức tạp thì thất nghiệp lại
càng ổn định tỷ lệ và có xu hướng trở về mức thất nghiệp tự nhiên .
-Thất nghiệp phụ thuộc rất lớn vào tình trạng của nền kinh tế và những chính sách giải
quyết việc làm . Khi nền kinh tế suy thoái, thất nghiệp sẽ tăng cao và ngược lại . Trong
khi đó, lạm phát phụ thuộc chủ yếu vào chính sách tài khóa và tiền tệ. Tỷ lệ thất nghiệp
năm 2014-2018 ở mức ổn định ( trên 2%), trong khi đó tỷ lệ lạm phát có xu hướng ngày
càng tăng (từ 1,84% năm 2014 lên tới 3,54% vào năm 2018) .Nhưng nhìn chung , dễ thấy
khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lạm phát dẽ giảm và ngược lại.
Thất nghiệp và lạm phát chịu tác động từ các chính sách của chính phủ. Tuy nhiên mỗi
chính sách lại có những tác động khác đến thất nghiệp và lạm phát. Từ năm 2008- nay ,
lạm phát luôn là vấn đền được quan tâm hàng đầu khi mà mục tiêu cua chính phủ đề ra là
“ổn định kinh tế và vĩ mô, kiềm chế lạm phát”. Tính đến nay, chúng ta đã làm được điều
đó, từ 2014 đến 2018 mức lạm phát được duy trì ổn định ở mức một con số.
Như vậy , giai đoạn từ năm 2014 đến 2018 , tức là trong vong năm năm trở lại đây thì
thất nghiệp có xu hướng ngày càng giảm và ổn định, có xu hướng tiệm cận dần mức thất
nghiệp tự nhiên .Mặc dù vậy, so với thất nghiệp, lạm phát có xu hướng biến động phức
tạp hơn nhiều .(Giai đoạn từ năm 2014-2015, lạm phát từ 1,84% giảm xuống còn 0,6%,
sau đó đến năm 2016 lại tăng nhanh lên tới 2,66% và tiếp tục lên tới 3.53% vào năm

2017: con số này tiếp tục duy trì 3,54% vào nhăm 2018)
3. Kiến nghị, đề xuất giải pháp hạn chế lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn tiếp
theo:
3.1. Giải pháp can thiệp nhằm hạn chế lạm phát trong thời gian tới:
-Để kiềm chế lạm phát thì dù chính sách tiền tệ hay chính sách tài khóa cũng nhằm vào 2
mục tiêu chung đó là: Giảm bớt lượng tiền trong lưu thông và gia tăng cung cấp hàng hóa
dịch vụ trong xã hội. Với mỗi mục tiêu trên thì mỗi chính sách đều có những công cụ sử
dụng riêng để thực hiện tốt hai mục tiêu trên.
*Mục tiêu giảm bớt lượng tiền trong lưu thông.
+ Đối với chính sách tiền tệ: Để giảm bớt lượng tiền vào lưu thông thì chính sách tiền tệ
cần đưa gia một số giải pháp sau:
· Ngừng phát hành tiền vào trong lưu thông nhằm giảm lượng tiền đưa vào lưu thông
trong xã hội

22


· Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Đây là biện pháp nhằm giảm lượng cung tiền vào thị trường.
Biện pháp này tác động đến tất cả các ngân hàng và bình đằng giữa các ngân hàng với
nhau.
· Nâng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tiền gửi: Biện pháp này sẽ làm hạn chế các ngân
hàng thương mại mang các giấy tờ có giá đến ngân hàng nhà nước để chiết khấu. Ngoài
ra việc nâng lãi suất tiền gửi sẽ hút khiến người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn.
· Ngân hàng trung ướng áp dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm bán các chứng từ có giá
cho các ngân hàng thương mại.
· Ngân hàng trung ương bán vàng và ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại.
+ Đối với chính sách tài khóa: Để giảm bớt lượng tiền trong lưu thông thì bộ tài chính
cần đưa ra một số giải pháp sau:
· Giảm chi ngân sách: Đó là giảm chi tiêu thường xuyên và cắt giảm đầu tư công.
· Tăng tiền thuế tiêu dùng nhằm giảm bớt nhu cầu chi tiêu cá nhân trong xã hội

*Mục tiêu gia tăng hàng hóa dịch vụ cung cấp trong xã hội.
+ Đối với chính sách tiền tệ: Để thúc đẩy sản xuất và dịch vụ trong xã hội thì chính sách
tiền tệ cần đưa ra một số giải pháp sau:
· Đưa ra chính sách ưu đãi tín dụng thông qua ưu đãi lãi suất đối với các đối tượng hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất. Việc ưu đãi về lãi suất sẽ làm giảm chi phí sản xuất đầu vào
vì vậy tăng năng suất lao động.
+ Đối với chính sách tài khóa: Để thúc đẩy sản xuất và dịch vụ trong xã hội thì bộ tài
chính cấn đưa ra một số giải pháp sau:
· Bộ tài chính chỉ đạo tổng cục thuế giảm thuế đầu tư, thuế nhập khẩu nguyên vật liệu và
máy móc thiết bị và thuế thu nhập doanh nghiệp. Từ đó làm giảm bớt chi phí đầu vào lên
làm tăng năng suất lao động.
*Một số giải pháp kiềm chế lạm phát của nước ta hiện tại trọng nghị quyết 11 . Trong thời
gian tới chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ và chính sách tài khóa thận trọng
và thắt chặt cụ thể như sau:
+ Đối với chính sách tiền tệ:
· Quy định tốc độ tăng trưởng tín dụng phải giữ ở mức dưới 20%

23


· Trong tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 15 -16% và ưu tiên cho việc phát triển
nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ và khối doanh nghiệp nhỏ và vừa.
· Thắt chặt tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất đặc biệt là bất động sản và chứng
khoán. Ngoài ra còn giảm tỷ lệ dư nợ đối với lĩnh vực này
· Đưa ra chính sách bình ổn thị trườn ngoại tệ và vàng nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối. Hiện nay chính phủ đang cầm giao dịch mua bán
ngoại tệ tại thị trường tự do và cấm các cửa hàng vàng cá nhân giao dịch mua bán vàng
miếng.
+ Đối với chính sách tài khóa:
· Phấn đấu tăng thu ngân sách khoảng 7 – 8% so với dự toán đã được quốc hội thông qua.

· Sắp xếp lại chi thường xuyên nhằm tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên trong 9 tháng
còn lại
· Cắt giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% GDP
· Giám sát chặt chẽ và rà soát lại nợ chính phủ, quốc gia và không mở rộng đối tượng
được chính phủ bảo lãnh.
· Đối với đầu tư công: Chính phủ quyết định cắt giảm tối thiểu 10% lượng vốn theo kế
hoạch tín dụng đầu tư từ ngân sách.
3.2. Giải pháp can thiệp nhằm giảm thất nghiệp trong thời gian tới:
- Tích cực đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế
+ Về tài khóa, sẽ tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển dựa vào củng cố nguồn thu; giãn
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho các thành phần kinh tế.
+Về tiền tệ, sẽ tiếp tục bù lãi suất tín dụng cho vốn vay trung và dài hạn phục vụ đầu tư
máy móc thiết bị cho nền kinh tế nói chung và cho khu vực nông nghiệp nói riêng với các
khoản.
+Kích thích tăng trưởng bằng các gói kích cầu.
- Sắp xếp lại cơ cấu lao động đồng thời nâng cao trình độ cho người lao động. Việt Nam
có dân số trẻ nguồn lao động dồi dào, chi phí rẻ nhưng do cơ cấu bố trí chưa hợp lý nên
việc khai thác lao động kém hiệu quả.

24


- Tăng nguồn vốn đầu tư (chủ yếu lấy từ dự trữ quốc gia, vay nợ nước ngoài) đẩy nhanh
tiến bộ xây dựng cơ sở hạ tầng, làm thủy lợi, thủy điện giao thông… nhằm tạo việc làm
mới cho người lao động. Đồng thời, nới lỏng các chính sách tài chính, cải cách thủ tục
hành chính nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài tạo nguồn việc làm cho người dân.
Bên cạnh đó khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho các doanh nghiệp
vay vốn để mua sắm trang thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất.
- Ưu đãi đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư các dự án,
công trình có quy mô lớn, tạo nhiều việc làm, hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua việc

giảm thuế, hoán thuế, khoanh nợ song song với cam kết phải duy trì việc làm cho số lao
động hiện tại và thu hút thêm lao động nếu có thể, hỗ trợ vay vốn cho các doanh nghiệp
gặp khó khăn để duy trì sản xuất, bảo đảm việc làm cho người lao động.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu
côngnghiệp các dự án kinh tế. giúp tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm cho công nhân.
- Để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động cần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
công nghiệp và dịch vụ, hướng người lao động đến những việc làm ở những ngành nghề,
đem lại giá trị cao trong các chuỗi giá trị, với điều kiện lao động phải có hiểu biết, có kỹ
năng chuyên môn để dần thay thế khu vực kinh tế nông nghiệp kém hiệu quả bằng khu
vực kinh tế có giá trị cao hơn, thông qua đó nâng cao đời sống và thu nhập của người lao
động, tạo ra một thị trường lao động cạnh tranh để giảm nguy cơ thất nghiệp khi có
khủng hoảng.
- Lao động nông thôn rất cần được đào tạo, dạy nghề, họ cần có trình độ chuyên môn và
cập nhật kiến thức để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước.
- Cần đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa và phát triển mạnh các khu kinh tế vệ tinh, các khu
công nghiệp và các làng nghề, tăng cường mối quan hệ giữa sản xuất công nghiệp với
nông nghiệp và dịch vụ, đặc biệt khai thác mối liên kết kinh tế giữa các thành phố lớn với
các khu vực phụ cận nhằm tạo ra nhiều việc làm tại chỗ.
- Cần có sự phát triển bền vững và đồng bộ thị trường hàng hóa, thị trường đất đai, thị
trường vốn, thị trường lao động và thị trường tín dụng.
- Tổng liên đoàn lao động các tỉnh, thành phố giúp đỡ người lao động sớm tìm được việc
làm mới thông qua trung tâm tư vấn việc làm. Bên cạnh việc giải quyết việc làm thì đầu
tư cho công tác dạy nghề cũng là biện pháp kích cầu không kém phần quan trọng.

25


×