Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Phật Giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.34 KB, 34 trang )

Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................... 2
1.

Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 2

2.

Đối tƣợng nghiên cứu ...................................................................................................... 3

3.

Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................................ 3

PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 4
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO ................................................... 4
1.

Nguồn gốc ra đời .............................................................................................................. 4

2.

Nội dung chủ yếu của tƣ tƣởng Triết học Phật giáo ..................................................... 5
2.1. Tư tưởng chủ yếu của Phật giáo về thế giới Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo
thể hiện tập trung ở nội dung của 3 phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên. ......................... 5
2.2. Tư tưởng chủ yếu của Phật giáo về nhân sinh ................................................................ 7


2.3. Quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam ............................................................ 11

CHƢƠNG 2 ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM ........................................................... 13
1.

Khái quát về đặc điểm đời sống tinh thần của con ngƣời Việt Nam ......................... 13

2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam ............................... 17
2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tập quán của người Việt Nam ....................... 17
2.2 Các phong tục tạp quán khác. ........................................................................................ 21
3. Ảnh hưởng của Phật giáo đến đạo đức của người Việt Nam ............................................... 23
3.1. Tư tưởng Phật giáo hướng đến đạo đức, từ bi, khoan dung .......................................... 23
3.2. Xây dựng triết lý lấy vị tha làm lẽ sống cao cả, lý tưởng của mình .............................. 24
3.3. Đạo đức Phật giáo hướng thiện, chống cái ác, cảm hóa con người .............................. 25
4. Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa nghệ thuật của người Việt Nam ............................. 27
5. Ảnh hưởng của Phật giáo đến kiến trúc xây dựng của người Việt Nam .............................. 29

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................. 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 34

Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 1


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên
thế giới, tồn tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý luận đồ sộ và số lượng phật tử
đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo Phật được truyền bá vào nước ta khoảng
thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão
và đạo Thiên chúa.
Tuy nhiên, tùy ở từng giai đoạn lịch sử của dân tộc mà học thuyết tư
tưởng, tôn giáo này hay học thuyết tư tưởng, tôn giáo khác nắm vai trò chủ đạo,
có tác động mạnh đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của người Việt, như Phật
giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Cho đến nay, những học thuyết này
không giữ địa vị độc tôn mà song song cùng tồn tại với các học thuyết, tôn giáo
khác, tác động vào đời sống xã hội.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận soi đường cho chúng ta.
Nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống
dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng, tình cảm của
một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là
không thể, nên chúng ta cần vận dụng một cách phù hợp để góp phần đạt được
mục tiêu của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Do đó, việc tìm hiểu nghiên cứu
Phật giáo đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết.
Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt tiến bộ cũng như hạn chế, Phật giáo
giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để
hướng đạo cho con người một cách chân chính, đúng đắn. Theo đạo để làm điều
thiện, tránh cái ác.
Hơn nữa quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với
quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy, khi
Học viên: Ngô Quang Thái


Trang 2


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật
giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và nhìn nhận, đánh giá nó là một nội dung
quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển nhân
cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đến xả hội, con người Việt Nam.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng trong đó chú ý các phương pháp: logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp,
gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề ra.

Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 3


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO

1. Nguồn gốc ra đời
Đạo phật ra đời trong hoàn cảnh rối ren của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Thế kỷ
VI trước Công nguyên, lúc này Ấn Độ đang trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Sự
phân chia đẳng cấp ngặt nghèo sâu sắc; Thời kỳ này xã hội Ấn Độ chia làm bốn
đẳng cấp cách biệt nhau…. Đẳng cấp Bà La Môn (địa vị cao nhất); đẳng cấp Sát
đế lỵ (dòng họ vua quan, quý tộc); đẳng cấp Vệ Xá (gần những người giầu có,
buôn bán thủ công), đẳng cấp Thứ Đà la (nô lệ). Ngoài ra còn có một tầng lớp
người thuộc hàng cùng khổ dưới đáy xã hội, bị mọi người khinh rẻ. Trước khi có
sự ra đời của đạo Phật, mâu thuẫn giữa các đẳng cấp trên hết sức gay gắt được thể
hiện trong những cuộc đấu tranh mang tính chất toàn xã hội. Cùng thời điểm này
Ấn Độ đã và đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa các nhà duy vật và duy tâm, đấu
tranh giữa các tôn giáo, bởi lẽ bên cạnh sự thống trị của đạo Bà La Môn còn có sự
hiện diện của Phệ đà giáo và một số giáo phái khác, đồng thời tư tưởng duy vật
thô sơ và tư duy biện chứng đã xuất hiện.
Hoàn cảnh xã hội và những tư tưởng quan niệm trên đã trực tiếp hoặc gián
tiếp góp phần thúc đẩy sự ra đời của đạo Phật.
Bỏ qua những truyền thuyết về Tất Đạt Đa tìm đường cứu khổ cho chúng
sinh mà sáng lập ra đạo Phật thì có thể thấy rằng thực chất Phật giáo ra đời là do
kết quả của cuộc đấu tranh gay gắt giữa các giai cấp, đấu tranh giữa thần quyền
và thế quyền, giữa những người nắm kinh tế của xã hội và những người nắm tư
tưởng xã hội. Cuộc đấu tranh ấy đã lôi kéo đông đảo quần chúng nghèo khổ tham
gia giành bình đẳng thật sự nơi trần gian, quần chúng đã nhận được sự bình đẳng
trong tư tưởng, nơi gọi là cõi Niết bàn của nhà Phật.
Giáo lý của đạo Phật tập trung vào hai vấn đề, một là sự khổ não, hai là sự
giải thoát ra khỏi khổ não ấy. Khổ não là sự luân hồi, thoát khỏi vòng luân hồi thì
khỏi khổ, mà muốn thoát khỏi vòng luân hồi thì phải bỏ hết dục vọng trên trần
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 4



Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

thế. Khi thoát khỏi vòng luân hồi con người mới lên được cõi Niết bàn, là cõi cực
lạc.
Đạo Phật là một tôn giáo, có cùng bản chất như mọi tôn giáo khác, song
đạo Phật còn có một số đặc điểm riêng: đạo Phật không quan niệm về đấng sáng
tạo ra thế giới. Thế giới tự nó vận động, phát triển thông qua luật vô thường nhân
quả. Sự vận động ấy diễn ra trong không gian và thời gian, đạo Phật sơ kỳ ở tiểu
thừa mang nhiều tính duy vật những quan niệm của đạo Phật về thế giới về con
người, về vận động mang hình thức biện chứng. Các giáo lý đạo Phật chứa đựng
nhiều nội dung đạo đức, hướng thiện. Đồng thời cũng phủ nhận một cách gián
tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội.
Với những đặc điểm đó, cùng với giáo lý của mình đạo Phật đã tìm được
chỗ đứng trong lòng xã hội Việt Nam.
2. Nội dung chủ yếu của tƣ tƣởng Triết học Phật giáo
2.1. Tƣ tƣởng chủ yếu của Phật giáo về thế giới Quan điểm về thế giới
quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của 3 phạm trù: vô ngã, vô
thƣờng và duyên.
- Vô ngã (không có cái tôi chân thật) trái với quan điểm của kinh Vêđa,
đạo Bàlamôn và đa số các môn phái triết học tôn giáo đương thời thừa nhận sự
tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo
cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị thần nào
sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của 2 yếu tố là “Sắc” và “Danh”.
Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận được, nó bao gồm đất,
nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ có
tên gọi. Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn để hành
động) và thức (sự nhận thức). Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là

“Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao gồm sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng),
hành (suy lý) và thức (ý thức), chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và
con người. Nhưng sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự

Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 5


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân
thực.
- Vô thƣờng (vận động biến đổi không ngừng) đạo Phật cho rằng “Vô
thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ
không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng, không nghỉ theo chu trình
bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất đi. Do
đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là
biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong
một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành
đến biến dị rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự
vât, hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng
không phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi
là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không phải là hết khổ
mà chết là điều kiện của một sinh thành mới.
- Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả): Phật giáo cho
rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất đều chịu

sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là điều kiện giúp cho nguyên
nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nhân khác, nhân
khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như vậy mà tạo nên sự biến
đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “Nhân-Quả”, nhân là cái hạt,
quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp
nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không thể có quả, nếu
không có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học
Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng
tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu
thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong
quá trình liên hệ, vận động, biến đồi không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động,
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 6


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

biến đồi nằm trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn
mọc mạc chất phát nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật
biện chứng về thế giới.
2.2. Tƣ tƣởng chủ yếu của Phật giáo về nhân sinh
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong
thuyết “Tứ Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt
diệu đòi hỏi mọi người phải nhận thức được. Tứ diệu đế là:
Khổ đế:
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não,

không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của
cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi
khổ là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải
xa nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà
không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc
của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học,
khổ đau là một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế là một chân lý khách
quan hiện thực. Khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng lọat nhân duyên được
tạo tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng
mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của
khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy
trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó,
con người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào
khác. Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới.
Phật ví sự khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều
hơn nước biển”.
Nhân đế (hay Tập đế):

Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 7


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết

tập lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả
mãn được trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc
của luân hồi. Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do
“thập nhị nhân duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi
con người. 12 nhân duyên ấy gồm:
1. Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không
sáng suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con
đường thoát khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không
thấu hiểu Tứ diệu đế cũng được gọi là Vô minh.
2. Duyên hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các
giác quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để
thiêu hủy, đón nhận.
6. Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó
là sắc, thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
7. Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc
với lục căn sinh ra cảm giác.
8. Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác
động của thế giới bên ngoài.
9. Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn
chiếm lấy, giữ lấy không chịu buông ra.
10. Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi
già, ốm đau rồi chết.
Học viên: Ngô Quang Thái


Trang 8


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung
đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho
cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời
giải thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là
ái và thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân
và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô
thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng.
Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay
nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay
không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não khuấy động,
chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
Diệt đế:
Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt
thì sự khổ cũng được tận diệt. Muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên,
bắt đầu từ diệt trừ vô minh.
Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực
tướng của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành động
tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ
được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt
khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.

Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp
thủ, thì những nỗi lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh
thản, đầu óc tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng
lượng hơn. Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi
phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa
phiền muộn, lo lắng sợ hải mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 9


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được
chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và bao
dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ nào thì
đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.
Ðạo đế:
Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để
hoàn thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân
duyên, và một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng
sinh tử. Chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn.
Có 8 con đường chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính
đạo”. Bát chính đạo bao gồm:
1.Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về
Tứ diệu đế và giáo lí vô ngã.
2.Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý
nghĩa của bốn chân lí một cách không sai lầm.

3.Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
4.Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm
việc xấu, nên làm việc thiện.
5.Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên
quan đến sát sinh.
6.Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát
triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7.Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn
tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
8.Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế,
vô ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh,
đạt tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt,
chấm dứt sinh tử luân hồi.
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 10


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con
người và xã hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm
dục), bất vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà)
và bất đạo (không trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và
tư tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghỉ thiện và
làm việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên trong triết

lý nhân sinh và con đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi
quan không tưởng và duy tâm về xã hội. Và những tư tưởng xã hội phật giáo đã
phản ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ – trung đại
và nêu lên ước vọng giải thoát nổi bi kịch cho con người lúc đó. Phật giáo cũng
nói lên được tự do bình đẳng trong xã hội nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang
nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội.
2.3. Quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Ngày nay, căn cứ các tài liệu và các lập luận khoa học của nhiều học giả,
giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam
rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III qua hai con đường
Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
2.3.1 Phật Giáo du nhập qua con đƣờng Hồ Tiêu
Con đường Hồ Tiêu (Chemi des epices) tức là đường biển, xuất phát từ các
hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam...lợi dụng được
luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu
vực Đông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán bằng
những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các thương nhân
thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị
tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á. Giao
Châu tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ chân giao lưu
của các thương thuyền. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240 trước TCN,
Mahoda-con vua A dục (Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam. Tư liệu trong
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 11


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học


Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt của Đạo Phật vào
đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trước công nguyên 2879258). Đó là câu chuyện công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương thứ 3 lấy
Đồng Tử. Chuyện kể rằng Đồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn bán giao thiệp
với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo một khách buôn ngoại quốc đến
Quỳnh Viên và tại đây Đồng Tử đã gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều.
Nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên Dung đã biết đến Đạo Phật. Qua dữ kiện này ta thấy
sự hiện diện của Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam khá lâu từ
trước.
Qua nhiều tài liệu lịch sử và dựa vào địa lý, thiên nhiên, cư dân, lịch sử có
thể cho chúng ta một kết luận chắn chắc rằng Đạo Phật đã được truyền trực tiếp
vào Việt Nam chứ không thông qua Trung Hoa bằng con đường Hồ Tiêu. Tuy
nhiên, cũng có nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh rằng Đạo Phật đồng thời được
truyền vào Việt Nam qua con đường Đồng Cỏ.
2.3.2 Phật Giáo du nhập qua con đƣờng Đồng Cỏ
Con đường Đồng Cỏ (Chemin des Steppes) tức là đường bộ còn gọi là con
đường tơ lụa con đường này nối liền Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc Ấn
Độ, Assam hoặc phía Trung Á, một nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua
các vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng phương
tiện lạc đà. Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các
triền sông Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam. Cuốn Lịch sử Phật
Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương nhân xuất phát từ Trung
Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông Kanburi mà
xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng
Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam ,
chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn
của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do những di dân Ấn Độ
thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn Độ vào đầu công nguyên

Học viên: Ngô Quang Thái


Trang 12


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh
Hóa hay Nghệ An".
Những dữ kiện về con đường Hồ Tiêu và con đường Đồng Cỏ có liên quan
đến sự giao lưu của Việt Nam tuy chưa nhiều chứng minh có những chứng tích
mà lịch sử còn để lại, dù lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật
Giáo Việt Nam thì vào thế kỷ thứ II TCN, vua Ấn Độ Asoka sau cuộc đại hội kết
tập kinh điển lần thứ ba, vua và trưởng lão Tissa Moggaliputta đã gởi nhiều phái
đoàn Như Lai sứ giả lên đường truyền bá chánh pháp cho các nước thuộc vùng
viễn đông, trong đó có đoàn của hai vị cao tăng là Uttara và Sona được phái đến
Suvana -Bhumi, xứ Kim Địa. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về vùng Kim Địa
nhưng ý kiến trong quyển lịch sử Phật Giáo Thế Giới thì cho rằng vùng Kim Địa
này là bán đảo Đông Dương từ Miến Điện kéo dài đến Việt Nam. Vấn đề này
được sách Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (sđđ) viết: "sử liệu Phật Giáo Miến Điện
chép rằng hai vị cao tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến Điện truyền giáo
nhưng sử liệu Phật Giáo tại Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và Sona có
đến Thái Lan truyền giáo. Có học giả dựa vào một tài liệu Trung Hoa nói rằng ở
Giao Châu tại thành Nê Lê, có bảo tháp của vua Asoka, và học giả đó xác định
thành Nê Lê chính là Đồ Sơn hiện nay (cách Hải Phòng khoảng 12km)".
Nói chung căn cứ theo các tư liệu trên thì chúng ta có thể khẳng địng rằng
Phật Giáo truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ I sau công nguyên bằng những
phương tiện hòa bình và vì thế không một giọt máu nào đã chảy, không một giọt
lệ nào rơi vì sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam.

CHƢƠNG 2 ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM
1. Khái quát về đặc điểm đời sống tinh thần của con ngƣời Việt Nam
Hướng ngoại là thiên về nghiên cứu thế giới vật chất bên ngoài. Hướng nội
là thiên về nghiên cứu thế giới tinh thần bên trong. Thiền tông đã đề xuất chủ
trương “dĩ tâm truyền tâm”. Do đạo Phật quan niệm vạn vật đồng nhất thể, nên
bản thể vũ trụ cũng tiềm ẩn trong mỗi con người. Bởi vậy khi làm cho bản thể
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 13


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

trong mỗi cá nhân hoà đồng với bản thể vũ trụ, thì ta và thế giới hoà làm một.
Muốn đạt được điều đó thì phải có trí tuệ hay Phật học gọi là Bát Nhã. Nhưng để
đi đến cái đó, mỗi người phải tự khai mở tâm mình, “hãy tự thắp đuốc lên mà đi”,
mà bước đầu là phải có sự biến đổi về mặt đạo đức theo hướng thiện. Điều này
hợp với người Việt với truyền thống nghiêng về trau dồi tâm tính, đạo đức luân lý
hơn là học hỏi trau dồi tri thức hiện đại.
Điểm này khiến người Việt trong cuộc sống đề cao cái tâm, lối sống tình
cảm. Cách suy nghĩ và lối sống mang nặng màu sắc tình cảm, một mặt giúp nhân
dân ta trong những thời hoạn nạn, thiên tai, địch hoạ... nhưng nó cũng làm hạn
chế sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật.
Cùng một sự vật, hiện tượng chúng ta thường hoặc quan tâm đến cấu trúc,
bản chất hoặc nghiên cứu những mối liên hệ, quan hệ với những sự vật , hiện
tượng khác. Đương nhiên phương Đông chú trọng mối quan hệ nhiều hơn. Xuất
phát từ “dịch”, “vô thường”, người phương Đông cho rằng không có gì là trường

tồn, đứng yên mà vạn vật luôn vận động, biến đổi không ngừng. Vì vạn vật sinh
sinh, hoá hoá, sắc sắc, không không nên cái ta thấy được chỉ là những mối liên hệ
thấp thoáng giữa các trạng thái của sự vật trong quan hệ với những sự vật khác.
Để chỉ những mối liên hệ, Phật giáo có luật nhân quả. Nhân quả là chỉ mối
quan hệ phổ biến mọi sự vật, hiện tượng. Không có cái tôi độc lập, không có thế
giới tác rời “cái tôi, không có “cuộc sống” tách rời - tất cả những cái đó là những
tương tác chặt chẽ và chỉ bị tách rời nhau trong tưởng tượng. Do vậy mà người
phương Đông, Việt Nam theo đạo Phật thường để ý nhiều đến mối quan hệ, chủ
yếu cảm tính, đạo đức nên nhiều nhìn nhận sai lệch, có tính chủ quan duy ý trí.
Do đó, cuộc sống người Việt Nam thường chú ý nhiều đến quan hệ họ hàng, làng
xóm, xã hội sao cho khôn khéo, tế nhị.
Tư duy người Việt có thêm một loạt khái niệm lấy từ Phật giáo. Những
khái niệm đó góp phần làm tăng những khái niệm mang tính triết lý của người
Việt, khiến tư duy người Việt mang tính khái quát hơn, trừu tượng hơn. Ngoài ra,
ảnh hưởng của Phật giáo lên cách tư duy còn thể hiện ở quan niệm về sự phát
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 14


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

triển của vạn vật qua 4 giai đoạn: sinh (ra đời, xuất hiện) , trụ (tồn tại, hiện hữu),
dị (phát triển, tiến hoá, biến đổi) và diệt (tử, chết, biến mất), còn ở con người đó
là sinh, lão, bệnh, tử. Đó là sự phát triển tự nhiên, tất yếu của mọi sự vật, hiện
tượng, mọi sự sống.
Các khái niệm “vô thường”, “vô ngã” cũng ảnh hưởng nhiều tới hệ tư
tưởng phong kiến Việt Nam. Theo quan niệm nhà Phật thì mọi sự vật, hiện tượng

là sự kết hợp động của những yếu tố, động (Pháp), bởi vậy chúng luôn vận động
không ngừng. Phật giáo đóng góp 1 cách nhìn nhận thế giới động, phù hợp với sự
phát triển sự vật. Áp dụng triệt để luật vô thường vào việc phân tích con người,
Phật giáo cho rằng người là kết hợp động của 5 yếu tố - ngũ uẩn, bởi vậy con
người không có cái gọi là bản ngã mà là vô ngã. Cách nhìn này đã khiến con
người sống một cách không sợ và vị tha.
Khi quan sát thế giới bên ngoài, Phật giáo đã nhìn ra một mối quan hệ phổ
biến, cơ bản giữa các sự vật, hiện tượng – đó là mối quan hệ nhân – duyên - quả.
Thuyết này là sự phản ánh khái quát rút ra từ thế giới hiện tượng, đặc biệt là khi
xem xét sự phát triển của tự nhiên. Cách nhận thức hợp lý này đã cung cấp cho
người Việt một cách suy nghĩ mang tính chất nhân quả để nhìn con người, cuộc
sống, vạn vật: “nhân nào, quả nấy”,”gieo gió, gặp bão”, “ở hiền gặp lành”....
Các học giả đều cho rằng chưa có một học thuyết, một tôn giáo nào phân
tích thế giới nội tâm, trong đó có tư duy sâu sắc như Phật giáo. Theo Phật học thì
tư duy, ý thức của con người tựa như một dòng sông của ý niệm tuôn chảy không
ngừng. Trong một sátna( thời gian búng ngón tay), tâm ý ta đã trải qua 960 lần
chuyển niệm, trong thời gian một ngày đêm, nó trải qua 13 ức triệu niệm. Dưới
dòng sông tuôn trào này, ở nơi sâu thẳm vô hình đâu đó là A lại da thức (Tạng
thức) – nơi tàng trữ mọi mầm mống của vũ trụ. Tuy khó hình dung nhưng Phật
giáo đã cung cấp cho ta một cái nhìn động về tư duy, ý thức. Phật giáo chỉ cho ta
rằng muốn có tư duy, suy nghĩ đúng thì điều kiện cần là phải tập trung tư tưởng.
Tư tưởng, tư duy, ý thức của con người giống như ngọn đèn. Nếu cứ để
bình thường thì toả sáng bốn phương, nhưng nếu biết tập trung toàn bộ ánh sáng
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 15


Trường ĐHKTCN Long An


Tiểu luận Triết Học

vào một điểm, hội tụ chúng lại, thì điểm này trở nên rất sáng và mạnh. Vai trò của
Thiền đối với tư duy cũng giống như việc tập trung ánh sáng vậy. Nó là một
phương pháp khoa học.
Phật giáo còn dạy muốn suy nghĩ thật khách quan cần phải có cái tâm bình
tĩnh, tỉnh táo. Tâm nhảy nhót như khỉ vượn, bị thiêu đốt bởi tham lam, hận thù, si
mê, tâm đứng ở nhị kiến, thích và không thích, yêu và ghét, thì nhận thức không
thể nào khách quan được. Tâm như vậy giống như mặt nước hồ qua trận cuồng
phong làm nổi sóng, vẩn đục và không thể nào thấy được những viên cuội dưới
đáy sông. Muốn cho tâm được yên tĩnh, tỉnh táo thì việc đầu tiên là nên nghĩ và
làm những điều thiện. Đạo Phật hướng người Việt tới việc suy nghĩ về làm những
điều thiện, làm lành lánh giữ. Trong các loại nghiệp của con người có 3 loại
nghiệp quan trọng nhất là thân, khẩu, ý. Trong đó Phật giáo coi nghiệp ý (về tư
duy, suy nghĩ) là quan trọng nhất. “Tổng vệ sinh”, “làm sạch” tư duy vừa là công
việc khẩn thiết vừa là công việc thường xuyên từng giờ, từng phút với mỗi Phật
tử. Tư tưởng từ bi bác ái, chủ trương khuyến thiện trừ ác, hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn
là những tư tưởng lôi cuốn đông đảo người Việt và trở thành lòng thương người,
tính nhân đạo của họ. Chính vì quan tâm cứu vớt con người trước bất công đau
khổ nên người Việt đã tiếp thu và nhiệt tình ủng hộ đạo Phật.
Đạo Phật cũng đóng góp một khía cạnh phương pháp nhận thức quan trọng
– đó là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, tinh thần và tự nhiên hay tâm và vật.
Một mặt thì tâm và vật không tách rời nhau. Không có vật thì cũng chẳng có tâm.
Ngược lại, không có tâm thì vật như thế nào ta cũng không biết. Sở dĩ có vật là
vật do ta đã quẳng cái tâm vào đó rồi.
Mặt khác, không chỉ có vật chất, giới tự nhiên, vật luôn vận động mà ý
thức, tinh thần, tâm cũng luôn vận động. Hai cái luôn vận động như vậy, cậy làm
thế nào để nắm bắt, nhận thức được cái thứ hai. Đứng trước vấn đề này Phật giáo
đã đưa ra giải pháp như đã trình bày là tập trung tư tưởng, giữa cho tâm yên tĩnh,
tỉnh táo. Như vậy ở đây Phật giáo dùng cái tĩnh trong sáng được tập trung cao độ


Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 16


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

để nắm bắt cái động, “dĩ biến bất biến ứng vạn biến”. Đây là một vấn đề khá lý
thú so với nhận thức thông thường.
2. Ảnh hƣởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần của ngƣời Việt
Nam
2.1 Ảnh hƣởng của Phật giáo đến phong tục tập quán của ngƣời Việt
Nam
Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi
dân tộc. Thông qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại được những
giá trị văn hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với người Việt
Nam, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng phật giáo khá nhiều. Song ở đây
người viết chỉ đề cập đến những tập tục phổ biến trong đời sống hằng ngày của
người Việt.
2.1.1 Ảnh hƣởng phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh
và bố thí
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống
văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của phật giáo. Vì
khi đã trở về với phật pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó
giới căn bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Trong
hành động lời nói và ý nghĩa, người phật tử phải thể hiện lòng từ bi. Điều không
thể có được khi con người còn ăn thịt, còn uống máu chúng sanh. Để đạt được

mục đích đó, người phật tử phải dùng đến phương pháp ăn chay. Cố nhiên người
xuất gia ăn chay trường, còn phật tử tại gia còn nhiều trở ngại nên chỉ ăn chay kỳ.
Thông thường người Việt Nam, cả phật tử lẫn người không phải phật tử cũng
theo tục lệ đặc biệt này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng một và
ngày rằm mỗi tháng, có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày 01, 14, 15 và 30,
nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 29, có người ăn mỗi tháng sáu ngày là những
ngày mùng 8, 14, 15, 23, 29 và 30 (nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 28, 29), có
người phát tâm ăn chay mỗi tháng mười ngày là ngày 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28
và 30 (nếu tháng thiếu thì ăn vào ngày 27,28,29) cũng có nhiều người phát
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 17


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

nguyện ăn chay suốt cả tháng (thường là tháng bảy âm lịch) hoặc ba tháng (tháng
giêng, tháng bảy và tháng mười) hay cả năm, đôi khi có một số người đi phát
nguyện ăn trường chay giống như những người xuất gia.
Về mặt ăn uống, ăn chay rất phù hợp với phong cách ăn uống Á Đông, chú
trọng ăn ngũ cốc nhiều hơn thực phẩm động vật, vả lại ăn chay giúp cho cơ thể
được nhẹ nhàng, trí óc được minh mẫn sáng suốt. Gần đây các bác sĩ Soteylo, và
bác sĩ Varia Kiplami cho biết trong các thứ thịt có nhiều chất độc, rất nguy hiểm
cho sức khoẻ con người. Và các nhà khoa học đều cho rằng ăn chay rất hợp vệ
sinh và không kém phần bổ dưỡng. Trên tinh thần đó, nên nguời việt nam dù
không phải là Phật Tử cũng thích ăn chay, và tập tục này đã ảnh hưởng sâu rộng
trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam từ xưa đến nay.
Ăn chay và thờ phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc thờ

phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị. Người phật tử, người mộ đạo thờ
phật đã đành, nhiều người không phải là phật tử cũng dùng tượng phật hay tranh
ảnh có yếu tố phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và
trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, phật giáo là một thành tựu
về tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo phật tục lệ bố thí và phóng sanh
đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày rằm và mùng một,
người Việt thường hay mua chim, cá, rùa..để đem về chùa chú nguyện rồi đi
phóng sanh. Người Việt cũng thích làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ
nghèo khó, hoạn nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về chùa. Tuy nhiên,
trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên này càng bị
thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho các
đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảng sống gặp khó khăn đúng với truyền
thống đạo lý của dân tộc lá làng đùm lá rách.

Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 18


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

2.1.2 Ảnh hƣởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ
chùa.
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc
vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ tiên
có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng
với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để các

vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày sám hối, người
tín đồ về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân
tâm. Quan niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là
xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà
vào ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam
Bảo và tổ tiên Ông Bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người quá cố và
cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tánh của họ.
Bên cạnh việc đi chùa sám hối vào ngày rằm, mùng một , người Việt Nam
còn có tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày
rằm tháng giêng, rằm tháng tư (Phật Đản) và rằm tháng bảy (lễ vu lan). Đây là
một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt. Tuy
nhiên, đi viếng chùa cũng tùy thuộc vào mục đích và quan niệm của mỗi người.
Cánh cửa chùa bao giờ cũng rộng mở đối với thập phương bá tánh, nhất là các
ngày hội lớn của Phật giáo, của dân gian (tết Nguyên Đán) hoặc những ngày kỷ
niệm lớn của lịch sử dân tộc (giổ tổ Hùng Vương). Vào những ngày này, đông
đảo các tầng lớp nhân dân, các giới trong xã hội đều qui tụ về đây. Trước cánh
cửa thiền môn, những khuôn mặt trang nghiêm, vẻ đẹp thanh thoát của hoa huệ,
hoa cúc chen lẫn với hương trầm quyện tỏa tạo nên bầu không khí ấm cúng, linh
thiêng, thể hiện tấm lòng thành kính của họ đối với Đức Phật và các bậc Thánh
Hiền. Những hình ảnh đó đã góp phần tạo nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của dân
tộc Việt. Trong dòng người tấp nập, đông đảo đó không phải ai cũng đến đây vì
lý do tín ngưỡng thuần túy. Một số đông người chỉ đơn giản muốn đi xem lễ hội
hoặc thích chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa chiền nhưng khi đã hội nhập vào bầu
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 19


Trường ĐHKTCN Long An


Tiểu luận Triết Học

không khí trang nghiêm họ cũng thấy mình trở nên đỉnh đạc và trầm tỉnh hơn, đây
là cơ hội giúp họ quay về với Đạo Phật.
2.1.3 Ảnh hƣởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cƣới hỏi :
Đây cũng là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt. Về ma
chay, theo phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước đây rất là phiền
phức và hao tốn. Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng thì tang lễ diễn ra đơn
giản và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình (theo Đạo Phật) có người qua đời,
thân quyến đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi là
làm ma chay). Thông thường các nghi thức trong tang lễ được diễn ra tuần tự như
sau : (1) Nghi thức nhập liệm người chết; (2) lễ phát tang; (3) lễ tiến linh (cúng
cơm); (4) khóa lễ kỳ siêu cho hương linh; (5) lễ cáo Triều Tổ (cáo tổ tiên ông Bà
trước giờ di quan); (6) lễ di quan và hạ huyệt; (7) Đưa lư hương, long vị, hình
vong về nhà hoặc chùa; (8) lễ an sàng; (9) cúng thất (tụng kinh cầu siêu và cúng
cơm cho hương linh trong bảy tuần gồm 49 ngày, mỗi tuần cúng một lần); (10) lễ
tiểu tường (giáp năm, sau ngày hương linh mất một năm); (11) lễ đại tường (lễ xã
tang, sau ngày hương linh qua đời hai năm).
Ở những gia đình không theo Đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia
chủ mến chuộng Đạo Phật nên họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho
hương linh và tổ chức tang lễ giống như những tín đồ theo Đạo Phật. Nhìn chung,
tập tục ma chay tại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi thức của
Phật giáo.
Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so với
Thiên Chúa giáo, khổng giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều đôi
bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật
phù hộ cho mối lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió. Đến ngày cưới
hỏi, họ được hướng dẫn về chùa để chư tăng làm lễ "hằng thuận quy y" trước khi
rước dâu. Đó là một lễ chúc lành ngắn gọn và được chư tăng khuyên dạy một số
nguyên tắc đạo đức Phật giáo, để làm kim chỉ nam cho cuộc sống mới.


Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 20


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

2.2 Các phong tục tạp quán khác.
Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo đã
được kể trên, chúng ta còn thấy một số tập tục khác cũng tương đối phổ biến và
có ít nhiều liên quan đến Phật giáo mà chúng ta phải ghi nhận.
2.2.1 Tập tục đốt vàng mã
Đây là tập tục rất phổ biến ở Việt Nam mà người Việt đã tiếp nhận từ Phật
giáo Trung Quốc. Nhiều người ngộ nhận rằng tập tục này xuất gia từ quan điểm
nhân quả luân hồi của Phật giáo, do đó nó đã tồn tại trong Phật giáo từ xưa cho
tới ngày nay. Nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng tánh thì đời sau sẽ tái
sinh trở lại làm người hạnh phúc, sung sướng giàu sang hoặc vãng sanh về thế
giới cực lạc. Còn nếu kiếp này ăn ở tệ bạc, làm nhiều điều ác, sau khi chết sẽ bị
đọa xuống địa ngục cõi âm ti chịu nhiều đau khổ. Người nhiều tội lỗi hay không
có ai thờ cúng, cầu siêu thì ở nơi địa ngục bị oan ức, đói lạnh, không thể siêu
thoát được hoặc đầu thai được. Cho nên những người thân ở nơi dương thế phải
thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để người thân của mình dưới cõi âm ti bớt đi phần
tội lỗi hoặc được ấm no mà thoát kiếp. Sau khi cúng giỗ, ngày vọng người chết sẽ
nhận được những vật dụng, tiền bạc đã cúng và đốt đó. Trong các đồ mã và giấy
tiền vàng bạc để cúng thường có hình ảnh (Phật Di Lặc hay Bồ Tát Quan Âm)
hoặc chữ nghĩa (chú vãng sanh, chữ triện) có yếu tố của Phật giáo với ý đồ mong
sự cứu độ của Chư Phật đối với người đã khuất.

Nhưng tập tục đốt vàng mã là một "hủ tục" mang tính mê tín dị đoan và vô
lý, người Phật tử chân chính không bao giờ chấp nhận. Chính trên thế gian này,
đồng tiền của nước này mang sang nước khác còn khó được chấp nhận, huống hố
từ nhân gian, đốt gởi xuống âm phủ xài, là chuyện không có cơ sở để tin cậy
được. Theo Phật dạy chúng sanh tùy nghiệp thiện ác theo đó mà thác sanh nơi cõi
lành, cõi dữ. Thân nhân chúng ta chết cũng theo nghiệp thiện ác mà thọ sanh vào
sáu cõi chứ không ngồi chờ việc đốt vàng mã của người thân, vừa trái với đạo lý,
vừa phí tổn tiền bạc vô ích. Theo Phật giáo thì có rất nhiều cách để thể hiện lòng
thương và lòng chung thủy của người sống đối với người chết bằng cách khi có
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 21


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

người sắp chết, thân quyến phải phát tâm bố thí, cúng dường, phóng sanh và điều
quan trọng là phải thông tin cho người đó biết việc làm của gia đình mà hướng
tâm đến con người thiện, nhờ đó mà họ sẽ thọ sanh vào cảnh giới an lành.
2.2.2 Tập tục coi ngày giờ
Đây là một tập tục ăn sâu vào tập quán của người Việt nói riêng và cả
Châu Á nói chung. Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà
cửa, đám chết, đám cưới, xuất hành đầu năm... người ta thường về chùa để nhờ
các thầy coi giúp giùm ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh. Thông thường
người ta hay tránh ba ngày: mùng 05, 14, 23, họ cho ba ngày này là xuôi xẻo, là
bất hạnh, cần phải tránh.
Theo cái nhìn của Phật giáo thì đây cũng là một loại hình mê tín, người
Phật tử không nên chạy theo. Đức Phật dạy rằng với người làm điều lành, ngày

nào cũng là ngày tốt với người làm việc tốt, ngày nào cũng là ngày lành. Năm
tháng đối với người làm thiện đều là ngày tốt cả, gieo nhân thiện thì sẽ gặt quả
lành. Giáo lý nhân quả của Đạo Phật là cán cân công bằng với khổ đau và hạnh
phúc của con người chứ không phải là sự phân định của hên xuôi.
2.2.3 Tập tục xin xăm, bỏi quẻ
Xin xăm bói quẻ là một việc cầu may. Cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, một
loại hình sinh hoạt khá rầm rộ tại các chùa, đình, miếu vào dịp đầu năm mới hoặc
các ngày lễ lớn. Các chùa làng có thờ Quan Thánh Đế Quân thường có đi đôi với
việc xin xăm. Người xin xăm trước hết đến lạy Phật rồi sang bàn thờ Quan
Thánh, khấn nguyện xin một quẻ xăm, rồi họ lắc ống xăm có 100 thẻ đê lấy một
thẻ rớt ra, sau đó họ cầm quẻ xăm đến nhờ thầy trù trì giải đáp giùm vận mạng
của mình. Mỗi thẻ ứng với một lá xăm có ghi sẵn trong những điều tiên đoán về
công việc làm ăn, học tập, hôn nhân, gia đình... của mỗi người bốc được quẻ xăm
đó. Đây là một tập tục không lành mạnh do tin tưởng vào sự may rủi của số phận
đã được sắp đặt, an bài từ trước. Như sách xưa co câu "phước chí tâm linh, hoa lai
thần ám". Nghĩa là người gặp lúc phước đến thì giở quẻ ra đều tốt, khi họa lại thi

Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 22


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

rút lá xăm nào cũng xấu. Thế là tốt xấu tại mình, không phải tại xăm quẻ. Người
Phật tử chân chính cần phải loại bỏ những loại hình mê tín này.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã
chịu nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. Nhất là từ Trung Quốc.

Trong đó Phật giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không ít
các tập tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tuy
nhiên, không phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt tất cả, mà
trong đó có tập tục cần phải chắc lọc lại để phù hợp với chánh pháp. Đó là nhiệm
vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong thời hiện đại. Bên cạnh sự ảnh hưởng
trong các phong tục tập quán của dân tộc. PG còn ảnh hưởng qua các loại hình
nghệ thuật như, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật sân khấu cải lương...
3. Ảnh hƣởng của Phật giáo đến đạo đức của ngƣời Việt Nam
3.1. Tƣ tƣởng Phật giáo hƣớng đến đạo đức, từ bi, khoan dung
Phật giáo chủ trương đem tình yêu thương đến với mọi người. Từ bi là
phạm trù thuộc tứ vô lượng tâm, bao gồm: từ, bi, hỷ, xả. Tâm từ là tình thương
bao la, không giới hạn; đem lại hạnh phúc cho mọi người, mọi loài, cứu khổ, cứu
nạn cho chúng sinh mà quên đi những lợi ích của bản thân. Tâm bi là thương xót
vô lượng, vô biên nhưng không bi lụy, vì thế trở thành động lực cho việc cứu khổ,
cứu nạn. Đây cũng là đức tính giúp cho con người sống cao thượng hơn, gần gũi
hơn. Tâm hỷ là sống vui vẻ, bất kể thất bại, nghịch cảnh, vui với thành công của
người khác là vô lượng vô biên. Tâm xả là đem hết sức mình để cứu người, giúp
người không mong bù đắp, là tinh thần hy sinh vì tha nhân. Tâm từ và tâm bi là
tiền đề, khởi đầu cho tâm hỷ, tâm xả. Sự rung động, lòng trắc ẩn, cao thượng
hướng về nỗi đau của người khác sẽ định hướng cho con người trong lý trí, hành
động, sẵn sàng quên mình vì mọi người. Xây dựng tứ vô lượng tâm, Phật giáo
muốn nhấn mạnh vào cái tâm của con người, đó là đạo đức, lòng người, trí tuệ.
Cái tâm của con người nằm trong mối quan hệ biện chứng với xã hội. Do đó, khi
nói đến đạo đức của Phật giáo, người ta thường nói đến từ bi, hỷ, xả, vô ngã, vị

Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 23



Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

tha, cho nên tứ vô lượng tâm vừa là cái thiện hoàn chỉnh, vừa là lòng khoan dung
rộng lớn của Phật giáo
Nhân sinh quan Phật giáo đã hòa đồng với tập quán, tín ngưỡng truyền
thống của người Việt Nam. Đạo đức xã hội coi trọng chữ tâm, coi đây là gốc để
tạo nên sức mạnh, động lực cho sự phát triển xã hội. Tư tưởng Phật giáo đã góp
phần củng cố đạo đức xã hội, tôn vinh những giá trị văn hóa dân tộc, khơi dậy
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, góp phần tạo nên
nhân cách con người. Tư tưởng Phật giáo phù hợp với truyền thống nhân đạo,
thương người như thể thương thân của đạo lý người Việt. Tinh thần này còn được
biểu hiện cao độ ở trong đối xử với tù nhân ở các cuộc chiến tranh nhân dân, khi
đã quy hàng thì luôn nhận được sự đối xử khoan hồng của nhân dân ta; những kẻ
lầm đường, lạc lối khi đã hối lỗi cũng luôn nhận được sự tha thứ của dân tộc.
3.2. Xây dựng triết lý lấy vị tha làm lẽ sống cao cả, lý tƣởng của mình
Phật giáo nói đạo lý vô ngã là muốn con người hiểu rằng cái tôi thực ra chỉ
là giả tướng do 4 đại: đất, nước, lửa, gió tạm thời hợp nhau tạo thành, theo quy
luật có ngày nó sẽ bị tan rã, suy yếu, già rồi chết. Do vậy, con người không nên
mê muội theo đuổi danh lợi, không cần thiết phải tranh giành mà cần phải độ
lượng, khoan dung với mọi người. Đó cũng chính là cách con người hoàn thiện
bản thân để tiến tới giải thoát. Với thuyết vô thường, vô ngã, Phật giáo đem lại
cho con người một triết lý sống vị tha, nhân bản. Khi đã thấu suốt được chân lý
này, con người sẽ vươn lên khỏi cuộc sống vị kỷ mà sống theo tinh thần từ, bi,
hỷ, xả, vô ngã, vị tha. Như vậy, Phật giáo là một tôn giáo giàu tình thương, yêu
chuộng hòa bình. Với lý tưởng nhân văn, bác ái, Phật giáo dễ gắn bó với quần
chúng, gần gũi với quan niệm nhân đạo cộng sản chủ nghĩa. Yêu nước là giá trị
cao nhất của người Việt Nam. Một dân tộc phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh,
nhưng trong đời sống luôn tha thiết hòa bình, quan văn trọng hơn quan võ. Ngay

từ khi được du nhập vào nước ta, Phật giáo đã thẩm thấu vào truyền thống yêu
nước trong suốt chiều dài lịch sử truyền thống dân tộc, thâm nhập vào đạo đức
dân tộc theo truyền thống vì nghĩa, vì nước. Các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 24


Trường ĐHKTCN Long An

Tiểu luận Triết Học

đã có nhiều vị cao tăng là quốc sư, giúp vua về chính trị, quân sự, nội trị bang
giao được lưu truyền trong sử sách. Các thiền sư giúp vua nhưng không tham
quyền, tham lợi nên luôn được vua tin tưởng. Các thiền sư ở Việt Nam tu hành
không phải theo lối bi quan, yếm thế mà luôn đồng hành cùng dân tộc, nhất là
trong những thời điểm lịch sử khi đất nước có giặc ngoại xâm. Điều này có thể
coi là sự hóa thân của Phật giáo vào truyền thống đạo đức của dân tộc.
Không phải chỉ khi Phật giáo là quốc giáo mà ngay cả khi đã nhường chỗ
cho Nho giáo vào đầu thế kỷ XV thì ảnh hưởng của nó đến đời sống đạo đức của
nhân dân ta vẫn rất đậm nét. Chẳng hạn tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
“việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo” cũng rất gần gũi,
tương đồng với đạo đức Phật giáo.
Nếp sống của con người Việt Nam hướng nội, rất nhạy cảm trước mọi
niềm vui, nỗi buồn của người khác, sẵn sàng chia sẻ, đồng cam cộng khổ với
những người xung quanh. Cái nghĩa ấy, ngoài yếu tố truyền thống, cũng có ảnh
hưởng từ giáo lý nhân sinh Phật giáo. Bởi vậy, trong giải quyết các mối quan hệ,
người Việt đề cao việc lấy cái tâm làm gốc, thiên về tình cảm. Trong gia đình,
việc thờ cúng tổ tiên là một truyền thống, đạo lý của người Việt Nam, được cộng
hưởng bởi đạo đức Phật giáo.

3.3. Đạo đức Phật giáo hƣớng thiện, chống cái ác, cảm hóa con ngƣời
Trong giáo lý Phật giáo, dù ở bất kỳ tập kinh, luận hay luật nào, dù ít hay
nhiều cũng ngầm chứa những tư tưởng về cái thiện, mà tiêu chí đầu tiên là bất sát.
Giá trị cao đẹp của đạo đức Phật giáo là từ bi, cứu khổ, cứu nạn. Nó vượt qua thời
gian, không gian vì nó nhằm bảo vệ, phát huy, duy trì nhân bản, làm điều lành,
hướng về điều lành hoặc ít nhất là đừng làm cái ác, đừng hướng về cái ác. Thuyết
nghiệp báo, nhân quả, luân hồi với mục đích thiết thực của Phật giáo mong muốn
ai cũng làm điều thiện, tránh điều ác. Nó có giá trị trong việc giáo dục, thực hành
đạo đức, con người gieo nhân nào thì sẽ được quả ấy. Chính vì vậy, đã góp phần
nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, có tác dụng điều chỉnh không chỉ ý thức
đạo đức mà cả hành vi đạo đức của con người. Phạm vi ảnh hưởng của nó không
Học viên: Ngô Quang Thái

Trang 25


×