Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Luận văn Thần Thoại Việt Nam Và Thần Thoại Trung Hoa Từ Góc Nhìn So Sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.5 KB, 71 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

PHẠM THỊ THỦY

THẦN THOẠI VIỆT NAM
VÀ THẦN THOẠI TRUNG HOA
TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

PHẠM THỊ THỦY

THẦN THOẠI VIỆT NAM
VÀ THẦN THOẠI TRUNG HOA
TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ NGỌC LAN



HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN

Em xin trân trọng cảm ơn tới các thầy cô Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà
Nội 2, khoa Ngữ văn, tổ Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện trong suốt thời
gian em học tập và nghiên cứu tại trƣờng. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc tới cô giáo – TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan, ngƣời đã hƣớng dẫn, động viên
và tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Đồng thời em cũng xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình luôn quan
tâm, yêu thƣơng tạo điều kiện cho em học tập, cảm ơn các bạn sinh viên đã
góp ý, động viên và trao đổi cùng em trong quá trình nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Phạm Thị Thủy


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan:
Khóa luận “Thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa từ góc nhìn
so sánh” là kết quả nghiên cứu của riêng em, dƣới sự giúp đỡ khoa học của
TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan, có sự tham khảo ý kiến của những ngƣời đi trƣớc.
Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, công trình có sẵn nào.
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2018
Sinh viên


Phạm Thị Thủy


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu...................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 6
5. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ........................................... 6
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 6
7. Cấu trúc đề tài ............................................................................................. 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THẦN THOẠI VIỆT NAM VÀ THẦN
THOẠI TRUNG HOA ...................................................................................... 7
1.1

Khái niệm về thần thoại ........................................................................... 7

1.1.1. Thần thoại hiểu theo nghĩa rộng ........................................................... 7
1.1.2. Thần thoại hiểu theo nghĩa hẹp ............................................................... 9
1.2. Thần thoại Việt Nam ............................................................................. 11
1.3. Thần thoại Trung Hoa ............................................................................ 14
CHƢƠNG 2: THẦN THOẠI VIỆT NAM VÀ THẦN THOẠI TRUNG HOA
– NHỮNG BIỂU HIỆN TƢƠNG ĐỒNG ...................................................... 19
2.1. Tƣơng đồng về nhân vật........................................................................... 19
2.1.1. Nhân vật là thần .................................................................................... 19
2.1.2. Nhân vật là anh hùng văn hóa ............................................................... 25
2.1.3. Nhân vật là con ngƣời ........................................................................... 27

2.2. Tƣơng đồng về cốt truyện ........................................................................ 30
2.3. Tƣơng đồng về mô típ .............................................................................. 33


2.3.1. Mô típ quả trứng khởi thủy ................................................................... 34
2.3.2. Mô típ hôn nhân cận huyết .................................................................... 35
2.3.3. Mô típ nguồn gốc xuất thân thần kì ...................................................... 37
2.3.4. Mô típ cột chống trời............................................................................. 38
2.3.5. Mô típ nạn hồng thủy ............................................................................ 40
CHƢƠNG 3: THẦN THOẠI VIỆT NAM VÀ THẦN THOẠI TRUNG HOA
– NHỮNG BIỂU HIỆN KHÁC BIỆT ............................................................ 44
3.1. Khác biệt trong cách thức miêu tả và xây dựng nhân vật ........................ 44
3.1.1. Ngoại hình và diện mạo ........................................................................ 44
3.1.2. Chức năng ............................................................................................. 47
3.2. Khác biệt về cốt truyện ............................................................................ 50
3.3. Khác biệt về mô típ .................................................................................. 54
3.3.1. Mô típ thờ vật tổ .................................................................................... 54
3.3.2. Mô típ bán thần………………………………………………………. 60
3.3.3. Mô típ tiêu diệt quái vật……………………………………………… 61
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong kho tàng văn học dân gian, thần thoại đƣợc nhìn nhận là thể loại
văn học độc đáo, là bộ phận không thể thiếu trong nền văn học thế giới. Đối
với các dân tộc thì thần thoại “chính là hình thức nhận thức thế giới mang tính
đặc trƣng của con ngƣời thời cổ” [12; 15]. Khi nhìn nhận về ngoại giới, con
ngƣời có nhận thức còn khá mơ hồ. Khi họ muốn lí giải, khám phá về thế giới

tự nhiên, khi mà nó còn nhiều điều mơ hồ thì có thể nói sự ra đời của thần
thoại đã giải quyết đƣợc những nhu cầu bức thiết và chính đáng của con
ngƣời xƣa. Những điều con ngƣời khao khát lí giải và muốn đƣợc chinh phục,
khám phá cho thấy đƣợc nhu cầu cần thiết về ngoại giới của con ngƣời: “Đó
là toàn bộ những truyện hoang đƣờng, tƣởng tƣợng về các vị thần hoặc những
con ngƣời, những loài vật mang tính chất thần kì, siêu nhiên do con ngƣời sáng
tạo ra để phản ánh và lí giải các hiện tƣợng trong thế giới tự nhiên và xã hội theo
quan niệm vạn vật có linh hồn (hay thế giới thần linh của họ)”. [13; 250]
Thần thoại Việt Nam là sự tổng hợp những câu chuyện kể dân gian về
các vị thần, về các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, phản
ánh quan niệm của ngƣời thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con
ngƣời. Cũng giống nhƣ ngƣời Việt cổ, ngƣời Trung Hoa cổ đại cũng thể hiện
sự nhận thức sơ khai của mình, quan niệm liên quan đến lí giải nguồn gốc thế
giới, các vị thần, ngƣời anh hùng, cũng nhƣ ý nghĩa các tôn giáo, tín ngƣỡng
của họ thông qua những huyền thoại.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy giữa thần thoại Việt Nam và thần thoại
Trung Hoa có nhiều điểm tƣơng đồng, gặp gỡ và giao thoa. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, thần thoại mỗi dân tộc có những nét đặc sắc, khác biệt thể hiện quan
điểm, tƣ tƣởng khác nhau của mỗi dân tộc.

1


Với mong muốn tìm hiểu những điểm tƣơng đồng và khác biệt trong
thần thoại Việt Nam so với thần thoại Trung Hoa, từ đó khám phá ra những
nét đặc sắc trong tƣ tƣởng của con ngƣời ngƣời xƣa, chúng tôi đã lựa chọn đề
tài “Thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa từ góc nhìn so sánh” làm
đề tài khóa luận tốt nghiệp. Tôi hi vọng với đề tài này sau khi đƣợc hoàn
thiện, đề tài sẽ có những đóng góp cho những bạn có niềm yêu thích với thần
thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa.

2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Thần thoại đƣợc sáng tạo ngay từ khi ngƣời xƣa có nhận thức về
thế giới. Thế giới tự nhiên còn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn, vừa ẩn chứa nhiều
mối hiểm họa, nhƣng đồng thời cũng là ngôi nhà lớn bao bọc, nuôi dƣỡng con
ngƣời. Ăng-ghen đã nói: “Sự nhân cách hóa các lực lƣợng tự nhiên đã làm
nảy sinh ra các vị thần đầu tiên” và “trong thời đại nguyên thủy, tôn giáo sinh
ra từ những khái niệm hết sức sai lầm của con ngƣời về trạng thái tự nhiên
của chính họ và về bên ngoài tự nhiên xung quanh họ”. [13; 210]
Nhƣ vậy, có thể nói những quan niệm đầu tiên về thế giới tự nhiên của
con ngƣời đƣợc thể hiện thông qua thần thoại nguyên thủy, cho nên các hình
tƣợng các vị thần đầu tiên là sự lí giải cho thế giới tự nhiên.
2.2. Trong “Văn học dân gian” tập 2 (1991), tác giả Hoàng Tiến Tựu
đã trình bày quan điểm: “Tuy thần thoại Việt không còn giữ đầy đủ hệ thống
và cốt truyện nguyên thủy của nó, nhƣng xét về phƣơng diện nội dung thì số
thần thoại Việt Nam còn lại chẳng những đã phản ánh xã hội, tƣ tƣởng, tâm
hồn Việt Nam mà còn thể hiện đƣợc những vấn đề cơ bản thƣờng có trong
thần thoại của nhiều dân tộc (nhƣ vấn đề nguồn gốc vũ trụ, nguyên nhân của
hiện tƣợng tự nhiên, nguồn gốc của các loài động vật, thực vật và loài ngƣời,
nguyên nhân của sự sống, sự chết, nguồn gốc dân tộc, nguồn gốc các
nghề...)”. [15; 13]

2


“Ở bộ phận thần thoại suy nguyên, nhằm giải thích các hiện tƣợng
trong thế giới tự nhiên, nhìn chung hình ảnh con ngƣời chƣa xuất hiện rõ nét,
nhƣng qua đây và cũng chỉ qua đây chúng ta mới có thể hiểu đƣợc phần nào
về trình độ hiểu biết, sức tƣởng tƣợng, những ƣớc mơ khát vọng và cách cảm
nghĩ của những thế hệ ngƣời Việt đầu tiên bắt đầu thực hiện về khám phá và
lí giải thế giới”. [15; 13]

Cuộc sống của con ngƣời xƣa đƣợc thể hiện thông qua việc đi tìm hiểu
về thần thoại. Khi khảo sát về thần thoại thì điều quan trọng đó là chúng ta
khảo sát hệ thống các nhân vật.
2.3. Năm 1991, trong cuốn “Giáo trình văn học dân gian”, tác giả Trần
Gia Linh đã trình bày quan điểm của mình khi viết về nguồn gốc nảy sinh của
thần thoại: “Sự thật ngƣời Việt trong thời kì đầu chế độ cộng sản nguyên
thủy, vì sống phiêu bạt nên chƣa nhận thức đƣợc cái chết, chƣa có quan niệm
linh hồn sau khi chết. Về sau, trong xã hội thị tộc, cuộc sống định cƣ giúp cho
con ngƣời dần dần nhận thức đƣợc sự chết và từ đó nảy sinh quan niệm linh
hồn tƣ tƣởng vạn vật có linh hồn biến hóa thành đa thần luận việc thờ cúng
vật tổ biến thành việc thờ cúng tổ tiên. Ngƣời nguyên thủy Việt Nam đã sống
trong cuộc bình đẳng nên họ quan niệm những thành viên của thế giới cõi
thần cũng đều bình đẳng. Thần trong thần thoại là những hiện tƣợng tự nhiên
đƣợc hình tƣợng hóa hoặc những anh hùng lao động có công với thị tộc thần
thánh hóa mà tạo nên. Mƣa, gió, sấm, sét,… đƣợc thần thánh hóa thành các
truyện thần Mƣa, thần Gió, thần Sấm, thần Sét. Nhân vật thần con ngƣời chƣa
phân chia giai cấp”. [11; 6]
2.4. Trong cuốn “Phân tích tác phẩm văn học dân gian ( 1995)”, tác
giả Đỗ Bình Trị đã trình bày nhƣ sau khi nêu ra quan điểm của mình về thần
thoại: “Những mẩu chuyện về sự tích các thần cổ đại luôn luôn chứa chan
những hiểu biết thực tế về ngoại giới và những kinh nghiệm thực tế tích lũy

3


đƣợc trong đời sống sinh tồn của các cộng đồng ngƣời thời cổ” và “Thần
thoại diễn tả dƣới hình thức khái quát hóa nghệ thuật rộng lớn, những ƣớc mơ
ban đầu của tổ tiên chúng ta chế ngự sức sức mạnh của thiên nhiên”. [ 16; 76]
Tiếp theo tác giả trích dẫn quan điểm của M.Gorki: “Ở phía mỗi sự vƣơn lên
của trí tƣởng tƣợng cổ đại đều cố thể dễ dàng tìm thấy động lực của nó, mà

cái động lực đó thì bao giờ cũng là ƣớc vọng của loại ngƣời muốn làm cho lao
động của mình đƣợc nhẹ nhàng hơn”... Trong phần kế tiếp tác giả trình bày:
“Thần thoại phản ánh nhận thức non nớt, sai lệch, đầy đủ tính chất hƣ ảo của
thời cổ về thế giới cũng nhƣ về bản thân con ngƣời đồng thời thể hiện sự bất
lực của họ trƣớc các sự vật, hiện tƣợng mà không thể hiểu nổi”.[16; 78]
2.5. Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học”, các tác giả Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đã đƣa ra khái niệm về thần thoại nhƣ sau:
“Thần thoại là thể thể loại truyện ra đời và phát triển sớm nhất trong lịch sử
truyện kể dân gian của dân tộc. Đó là toàn bộ những truyện hoang đƣờng,
mộng tƣởng về các vị thần hoặc những con ngƣời, những loại vật mang tính
chất thần kỳ, siêu nhiên do con ngƣời thời nguyên thủy sáng tạo để phản ánh
và lí giải các hiện tƣợng trong thế giới tự nhiên và xã hội theo quan niệm vạn
vật có linh hồn (hay thế giới thần linh) của họ. Chẳng hạn thần thoại Việt
Nam (dân tộc Kinh có những truyện nhƣ Thần Trụ Trời, Rắn già Rắn lột, Lúa
thần, Chú Cuội cung trăng, Sơn Tinh – Thủy Tinh,...”. [8; 298]
2.6. Năm 2006, trong cuốn “Giáo trình văn học dân gian- trƣờng Đại
học Sƣ Phạm Hà Nội”, khi viết về thần thoại, các tác giả Phạm Thu Yến, Lê
Trƣờng Phát, Nguyễn Thị Bích Hà đã viết: “Hình tƣợng thần trong thần thoại
chính là sự sáng tạo của nghệ thuật vô ý thức phản ánh một cách chân thực
của ngƣời xƣa. Thông qua hàng loạt những hình tƣợng thần, ngƣời ta có thể
hiểu đƣợc quan niệm thực tế và quan niệm thẩm mỹ của họ”. Tiếp đó “trong
câu chuyện thần thoại, hình tƣợng thần là hình tƣợng trung tâm của sự sáng

4


tạo nghệ thuật, nó vừa hồn nhiên mộc mạc, vừa kì lạ phóng khoáng. Nó vẫn
có thực nhƣng vẫn đầy hấp dẫn bởi tính chất trẻ trung, mạnh mẽ của thời đại
mà sức mạnh của con ngƣời chƣa bị xiềng xích bởi trật tự xã hội. Thần chính
là những phác thảo đầu tiên và vô cùng quý giá của những nhân vật văn học

sau này”. [17; 19]
2.7. Trong cuốn “Thần thoại Trung Quốc”, GS Đinh Gia Khánh viết:
“Kho tàng thần thoại của một đất nƣớc chỉ có thể đƣợc sắp xếp thành hệ
thống, tức là có mạch lạc, có thế thứ trong các áng sử thi. Kho tàng thần thoại
ấy chỉ có thể đƣợc bảo tồn lâu dài và giữ đƣợc nội dung cơ bản, nguyên sơ
của nó nếu các truyện đƣợc đúc kết với nhau trong các áng sử thi có nội dung
và hình thức xác định và ổn định. Các thần thoại Trung Quốc không đƣợc đúc
kết thành một hệ thống trong các áng sử thi cho nên rơi vào tình trạng vụn
vặt, rời rạc. Đó là điều dễ hiểu.” [9; 7]
Nhƣ vậy ta thấy rằng, các nhà nghiên cứu đã đề cập nhiều đến thần
thoại, khảo sát với số lƣợng nhiều song thực tế nó mới chỉ dừng lại ở mức độ
giới thiệu, khái lƣợc, mức độ quan tâm tới thần thoại chƣa đầy đủ và sâu sắc.
Đặc biệt là đề tài “Thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa từ góc nhìn
so sánh” chƣa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào bàn bạc, mở
rộng vấn đề này. Các công trình nghiên cứu chỉ dừng lại khảo sát , đề cập một
cách sơ lƣợc, rải rác về thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa trong
các giáo trình, sách nghiên cứu tham khảo về văn học dân gian.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này đƣợc thực hiện nhằm mục đích sau:
- Tìm hiểu những nét khái quát về thần thoại Việt Nam và thần thoại
Trung Hoa.
- Từ đó so sánh những nét tƣơng đồng cũng nhƣ khác biệt của thần
thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa ở một số phƣơng diện cơ bản.

5


- Góp phần hệ thống hóa tài liệu về thần thoại Việt Nam và thần thoại
Trung Hoa
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu những tiền đề lí luận cơ bản về văn học so sánh
- Tập trung tìm hiểu những nét tƣơng đồng và khác biệt về thần thoại
Việt Nam và thần thoại Trung Hoa.
5. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tƣợng nghiên cứu: Điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa thần thoại
Việt Nam và thần thoại Trung Hoa
+ Phạm vi nghiên cứu
- Tƣ liệu: “Lƣợc khảo về thần thoại Việt Nam” (Nguyễn Đổng Chi);
“Kho tàng thần thoại Việt Nam” (Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo); “Thần
thoại Trung Hoa” (Dƣơng Tuấn Anh)
- Nội dung: Khóa luận tập trung làm rõ những nét tƣơng đồng và khác
biệt trong truyện thần thoại của hai quốc gia trên một số phƣơng diện cơ bản
nhƣ: nhân vật, cốt truyện, mô típ.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, ngƣời viết chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp thống kê, phân loại
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung khóa luận
gồm có các chƣơng sau:
Chƣơng 1: Khái quát về thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa
Chƣơng 2: Thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa – những biểu
hiện tƣơng đồng
Chƣơng 3: Thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa – những biểu
hiện khác biệt

6



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THẦN THOẠI VIỆT NAM
VÀ THẦN THOẠI TRUNG HOA
1.1. Khái niệm về thần thoại
Khái niệm thần thoại đƣợc hiểu một cách chính xác nhƣ thế nào là vấn
đề luôn đƣợc các nhà nghiên cứu cố gắng hoàn thiện. Khái niệm thần thoại
không chỉ là một từ hay một nghĩa mà là ở nhiều nhân tố hợp thành. Lịch sử
hình thành cho đến nay, thần thoại là đề tài phong phú cho các nhà nghiên
cứu bởi nó mang một nét sâu đậm về nguồn gốc con ngƣời, quá trình cuộc
sống, những quy luật thiên nhiên hay làm nên những tín ngƣỡng tôn giáo, văn
hóa. Thần thoại nói chung còn là ở nhiều cách hiểu khác nhau ở mỗi sự
nghiên cứu của mỗi tác giả. Xuất phát từ nhiều vấn đề khác nhau thì thần
thoại còn là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học. Chính từ
những góc độ nghiên cứu khác nhau đó mà mỗi bộ môn nghiên cứu khoa học
có quan niệm về thần thoại tƣơng đối độc lập và riêng biệt. Vì vậy thần thoại
từ xƣa đến nay vẫn là đề tài đa dạng phong phú, đƣợc lí giải thông qua nhiều
ý kiến. Khái niệm thần thoại đƣợc lí giải theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
1.1.1. Thần thoại hiểu theo nghĩa rộng
Theo nhƣ nghiên cứu của Lại Nguyên Ân, thần thoại đƣợc hiểu là:
“Sáng tạo của trí tƣởng tƣợng tập thể toàn dân, phản ánh khái quát hiện thực
dƣới dạng những vị thần đƣợc nhân cách hóa hoặc những sinh thể có linh hồn
mà dù là quái tƣợng, phi thƣờng đến mấy cũng vẫn đƣợc đầu óc ngƣời
nguyên thủy nghĩ và tin là hoàn toàn có thực. Mặc dù thần thoại tồn tại nhƣ
những truyện kể về thế gian, nhƣng thần thoại không phải là một thể loại
ngôn từ mà là những ý niệm và biểu tƣợng nhất định về thế giới. Cảm quan
thần thoại nói chung không chỉ bộc lộ bằng truyện kể, mà còn bộc lộ trong
nhiều hình thức khác: trong hành động (nghi lễ, lễ thức, răn cấm), trong các

7



bài ca, điệu nhảy… Đặc trƣng của thần thoại thể hiện rõ nhất trong văn hóa
nguyên thủy, ở đó thần thoại là cái tƣơng đƣơng với văn hóa tinh thần và
khoa học của xã hội cận hiện đại”. [2]
Trong tƣ duy của con ngƣời nguyên thủy, họ nhận thức và lí giải thế
giới bằng hệ thống các câu chuyện sáng tạo. Về sau, “thần thoại phân chia
thành các hình thái ý thức xã hội nhƣ tôn giáo, nghệ thuật, văn học, khoa học,
tƣ tƣởng chính trị… thì các hình thái ấy vẫn bảo lƣu trong chúng hàng loạt mô
hình thần thoại, đƣợc chế biến lại để đƣa vào cấu trúc mới, thần thoại có cuộc
sống thứ hai" [16; 299]. Nhƣ vậy theo cách hiểu này thì khái niệm thần thoại
là một hình thức tƣ duy, và từ đó ngƣời nguyên thủy nhận thức đƣợc về khách
thể thông qua phƣơng thức tƣ duy này.
Những tri thức thần thoại trong các nghiên cứu của Mác gắn liền với
các tri thức triết học. Ông cho rằng: "Thần thoại nào cũng chinh phục, chi
phối và nhào nặn những sức mạnh tự nhiên ở trong trí tƣởng tƣợng và bằng trí
tƣởng tƣợng. Không thể nào hiểu đúng đƣợc thần thoại nếu tách nó ra khỏi xã
hội nguyên thủy, nơi mà nhu cầu lí giải, chinh phục tự nhiên và xã hội của
con ngƣời thời cổ đại gắn liền với thế giới quan thần linh hay cũng gọi là thế
giới quan thần thoại. Dùng trí tƣởng tƣợng để hình dung, giải thích và chinh
phục thế giới, ngƣời nguyên thủy đã tạo ra thần thoại và thần thoại là một
hình thái ý thức nguyên hợp đa chức năng, nó vừa là khoa học vừa là nghệ
thuật vô ý thức, đồng thời còn là tín ngƣỡng, tôn giáo của ngƣời nguyên
thủy." [3; 9]
Nhƣ vậy, với những quan điểm trên, Mác vừa lí giải thần thoại đồng
thời cũng giải thích đƣợc các vấn đề trong xã hội thời khởi nguyên. Thần
thoại không chỉ là một thể loại tự sự trong văn học mà còn chứa đựng rất
nhiều tri thức thuộc các loại hình khác. Từ các quan điểm trên, ta nhận thấy,
thần thoại vừa là hình thức tƣ duy, vừa là loại hình nghệ thuật, phản ánh xã
hội nguyên thủy, thời kì đẹp đẽ “một đi không trở lại”.


8


1.1.2. Thần thoại hiểu theo nghĩa hẹp
Thần thoại là vấn đề đƣợc quan tâm nghiên cứu từ lâu, không chỉ trong
nghiên cứu ở Việt Nam mà còn nhiều nƣớc trên thế giới. Trong từng công
trình nghiên cứu khác nhau, thì khái niệm thần thoại cũng đƣợc trình bày theo
nhiều hƣớng khác nhau.
E.M. Meletinski - nhà nghiên cứu ngƣời Nga chỉ ra: “Từ thần thoại có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nghĩa đen là truyền thuyết, truyện thoại. Thƣờng
ngƣời ta hiểu nó là truyện về các vị thần, các nhân vật đƣợc sùng bái hoặc có
quan hệ nguồn gốc với các vị thần, về các thế hệ xuất hiện trong thời gian ban
đầu, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập nên những nhân tố của
nó - thiên nhiên và văn hóa. Hệ thần thoại (mifalogia) là tổng thể những câu
chuyện nhƣ thế về các vị thần và các nhân vật đồng thời là hệ thống những
quan niệm hoang đƣờng về thế giới” [7; 653]. Melentinski đã nhìn nhận thần
thoại là thể loại văn học tự sự tiên phong trong văn học dân gian, cho thấy
đƣợc thế giới con ngƣời thời khởi nguyên.
Xem xét các mối quan hệ giữa thần thoại và xã hội nguyên thủy,
Ph.Ănghen nhận thấy: “Thần thoại là sản phẩm tinh thần của ngƣời nguyên
thủy, nội dung của nó mang nặng tính chất hoang đƣờng ảo tƣởng nhƣng
trong đó cũng chứa đựng nhiều yếu tố có giá trị quan trọng về nhiều mặt. Sự
nhận thức và lí giải sai lầm, ảo tƣởng về thế giới ở trong thần thoại là điều tất
yếu không thể tránh khỏi” [13; 315]. Ý kiến này của Ănghen cho chúng ta
thấy hai vấn đề mang tính bản chất của thể loại thần thoại. Thứ nhất, đó là sản
phẩm tinh thần của ngƣời nguyên thủy, mang tính chất ảo tƣởng, hoang
đƣờng nhƣng chứa đựng nhiều yếu tố có giá trị về nhiều mặt. Thứ hai, sự
nhận thức và lí giải sai lầm ảo tƣởng tồn tại trong thần thoại mang tính tất yếu
không thể tránh khỏi, đó chính là dấu hiệu của tƣ duy nguyên thủy đặc thù mà
ta chỉ có thể tìm thấy trong thần thoại mà thôi.


9


Các nhà nghiên cứu văn học trong nƣớc khi trình bày khái niệm về thần
thoại cũng đi theo con đƣờng riêng của mình. Ở Việt Nam, cuốn “Lược khảo
về thần thoại Việt Nam” đƣợc xem là một trong những nghiên cứu có tính
chất tiên phong về thần thoại của Nguyễn Đổng Chi. Thần thoại đƣợc ông đƣa
ra nhƣ sau: "Thần thoại là một truyện cổ tích. Trong các truyện cổ tích có thể
chia làm hai thứ: một thứ nội dung hoàn toàn nói về ngƣời hoặc về vật mà ta
có thể gọi là nhân thoại, vật thoại, trong đó không có sức thần phép tiên len
vào; một thứ trái lại, bao hàm ít nhiều chất hoang đƣờng quái đản. Thần thoại
thuộc về thứ sau" [4; 9]. Cách hiểu trên đây của Nguyễn Đổng Chi đã cho
chúng ta thấy mấy vấn đề trong nghiên cứu thần thoại:
- Thứ nhất, ranh giới giữa thần thoại và một số thể loại khác (đặc biệt là
với truyền thuyết, cổ tích) là khá mong manh, do đó có những tác phẩm đƣợc
xếp vào nhiều thể loại.
-Thứ hai, cách thức phản ánh của thần thoại và cổ tích có những nét hết
sức giống nhau, từ đó dẫn tới việc phân loại và nghiên cứu thần thoại gặp
nhiều rắc rối.
Vũ Ngọc Khánh trong công trình chủ biên của mình là “Kho tàng thần
thoại Việt Nam” đã đƣa ra nhận định: "Thần thoại là hình thức sáng tác của
con ngƣời thời đại xa xƣa, nó thể hiện ý thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lí giải vũ
trụ và chinh phục vũ trụ của con ngƣời" [10; 5]. Nhận định này đã lần nữa bổ
sung và khẳng định sự tồn tại của thần thoại Việt Nam.
Trong giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam” do Đinh Gia Khánh làm
chủ biên, khái niệm thần thoại đƣợc đƣa ra: “Thần thoại là hiện tƣợng văn hóa
tinh thần ra đời từ khá sớm. Theo quy luật phổ biến, thần thoại chủ yếu ra đời
trong xã hội cộng đồng nguyên thủy, vào những thời kì xa xƣa của các xã hội
trƣớc khi có giai cấp. Thần thoại phản ánh một cách kì diệu nhận thức về vũ

trụ, về công cuộc đấu tranh thiên nhiên, sinh hoạt xã hội và tƣ duy xã hội ở
các tộc ngƣời anh em từ thời cổ sơ” [9; 585].

10


Cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử,
Lê Bá Hán chủ biên trình bày khái niệm thần thoại nhƣ sau : "Thần thoại còn
gọi là huyền thoại. Là thể loại truyện ra đời và phát triển sớm nhất trong lịch
sử truyện kể dân gian các dân tộc. Đó là toàn bộ những truyện hoang đƣờng,
tƣởng tƣợng về các vị thần hoặc những con ngƣời, những loài vật mang tính
chất kỳ bí, siêu nhiên do con ngƣời thời nguyên thủy sáng tạo ra để phản ánh
và lí giải các hiện tƣợng trong thế giới tự nhiên và xã hội theo quan niệm vận
vật có linh hồn (hay thế giới quan thần linh) của họ" [8; 250]. Dựa vào những
quan điểm đƣợc nêu ra ở trên, ta nhận thấy đƣợc rằng khái niệm thần thoại
đƣợc xem xét, nghiên cứu một cách toàn diện hơn. Quan điểm đó không chỉ
nêu ra thời gian ra đời mà bên cạnh đó đối tƣợng, nội dung hay cách thức thể
hiện đều đƣợc trình bày. Theo lối tƣ duy này, ngƣời nghiên cứu có cái nhìn
đầy đủ và toàn diện hơn.
Từ các cơ sở trên ta có thể đƣa ra cách hiểu về thần thoại theo cách
chung nhất là: Thần thoại là một thể loại tự sự của văn học dân gian phản ánh
thế giới con ngƣời nguyên thủy theo “phƣơng thức thần thoại”. Nhìn chung,
mỗi nhà nghiên cứu lại trình bày khái niệm về thần thoại theo quan niệm của
mình, đó là vấn đề còn tồn tại nhiều ý kiến. Tuy còn tồn tại những ý kiến khác
nhau nhƣng suy cho cùng thì trong mỗi quan điểm ấy vẫn tồn tại những nét
giống nhau. Điều đó làm cơ sở nền tảng cho ngƣời nghiên cứu có cái nhìn
tƣơng đối toàn diện về thể loại.
1.2. Thần thoại Việt Nam
Có thể thấy đại bộ phận thần thoại đều đề cập đến việc giải thích những
hiện tƣợng tự nhiên có ảnh hƣởng đến nông nghiệp nhƣ mƣa, bão, gió, nƣớc

lũ... Ở thời kỳ đồ đá mới trở về trƣớc chúng ta chƣa thấy dấu vết gì chứng tỏ
lúc này đã có nghề nông nghiệp nguyên thủy ra đời. Cho nên có thể kết luận
rằng thần thoại chƣa phải là sản phẩm tinh thần của giai đoạn lịch sử này.

11


Muốn có điều đó phải đợi đến thời đại sau này khi thực tiễn xã hội đòi hỏi
phải giải thích tự nhiên để tiến hành sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp; đòi hỏi phải tìm hiểu xã hội và giải thích địa vị, tác dụng của các tập
đoàn xã hội trong sản xuất, cũng nhƣ khi năng lực trừu tƣợng hóa, khái quát
hóa của tƣ duy con ngƣời đã đạt đến mức có thể tạo ra đƣợc những cốt truyện
để thuyết minh, những tình tiết mạch lạc, có hệ thống. Lẫn với những đồ bằng
đồng, ngƣời ta còn đào đƣợc ở Đông Sơn một mũi giáo bằng đồng và sắt tiếp
hợp và các vật khác bằng sắt.
Nếu nhƣ trong giai đoạn trƣớc ngƣời ta mới biết cải biến những vật sẵn
có trong tự nhiên nhƣ cành cây, hòn đá để làm công cụ hoặc mới biết nặn đồ
gốm, thì bây giờ con ngƣời đã tổng hợp đƣợc tri thức, sáng kiến của mình và
vận dụng nó để chế tạo ra những công cụ tinh vi, phức tạp nhƣ lƣới mác, mũi
tên, trống đồng... mà trƣớc đó con ngƣời chƣa bao giờ làm đƣợc. Đối với nền
sản xuất của xã hội thì tác dụng của những công cụ lao động bằng đồng này
nhất định có ý nghĩa lớn hơn, trực tiếp hơn, hiệu quả hơn nhiều so với rìu đá,
búa đá. Còn về đồ gốm thì tuy là một bƣớc tiến quan trọng nhƣng vẫn chỉ có
tác dụng hạn chế trong phạm vi sinh hoạt của con ngƣời hơn là có tác dụng
trực tiếp đến sản xuất. Công cụ sản xuất mới xuất hiện đã thúc đẩy sự phát
triển về mọi mặt của xã hội.
Nghề săn bắn và đánh cá phát triển mà nhất là nông nghiệp nguyên
thủy ra đời đem lại cho con ngƣời nguồn lƣơng thực dồi dào hơn. Dần dần
ngƣời ta có ý niệm nuôi gia súc làm lƣơng thực dự trữ. Ngƣời ta ƣớc đoán xã
hội có những ngƣời chuyên làm về những công cụ bằng động nhƣ giáo, mác,

tên, lƣỡi cuốc, trống đồng... chắc rằng thủ công nghiệp đã trở thành một
ngành sản xuất độc lập. Nhƣ thế tức là công cụ bằng đồng xuất hiện đã đẩy
mạnh nền sản xuất xã hội đồng thời cũng đã mở rộng rất nhiều phạm vị tác
động vào tự nhiên của con ngƣời. Địa bàn hoạt động càng đƣợc mở rộng thì

12


lại đòi hỏi con ngƣời càng phải giải quyết nhiều khó khăn, càng buộc con
ngƣời phải tiến lên một bƣớc tìm hiểu và giải thích tự nhiên.
Về săn bắn và chăn nuôi cũng vậy. Khi thú vật săn đƣợc ăn không hết
phải để dành đến hôm sau, nghề chăn nuôi nguyên thủy ra đời thì đồng thời
cũng xuất hiện những mâu thuẫn mới trong lĩnh vực này. Con ngƣời tiến dần
từ nông nghiệp nƣơng rẫy đến nông nghiệp đồng bằng. Trong quá trình đó
con ngƣời phải đấu tranh với tự nhiên. Chính vì thế có sự tác động đến thế
giới bên ngoài. Khi canh tác con ngƣời đặt ra các câu hỏi: do đâu lại có mƣa,
gió, sấm sét? Tại sao thì nắng gắt làm cho cây cối khô cằn, khi lại mƣa tràn
trề gây lên ngập lụt, làm khó khăn việc canh tác của con ngƣời? Hiện tƣợng lũ
lụt, hạn hán là tại đâu?...
Nhƣ chúng ta biết, sức sản xuất trong: nông nghiệp, chăn nuôi, thủ
công nghiệp... ở thời đại đồ đồng rất phát triển. Sức sản xuất tăng cao giúp
cho con ngƣời có thể sản xuất đƣợc nhiều số lƣơng thực tối thiểu mà họ cần
thiết để sinh sống. Do đó xã hội đã có sản phẩm dƣ thừa và chế độ tƣ hữu
nguyên thủy ra đời.
Lúc này trình độ tri thức của loài ngƣời đã tƣơng đối phát triển, khả
năng phân tích và tổng hợp, trừu tƣợng và khái quát đã đạt đến mức độ có thể
giải thích thế giới hoặc bƣớc đầu nhận biết để cải tạo thế giới mặc dầu rằng nó
còn rất sơ khai. Tất cả những yêu cầu đấu tranh sản xuất và đấu tranh xã hội
trên cơ sở đồng thời là điều kiện quyết định ra sự ra đời và phát triển của thần
thoại và cũng chính vào lúc mà xã hội tiến đến giai đoạn đồ đồng là lúc tổ tiên

chúng ta có đầy đủ điều kiện để sáng tác thần thoại.
Thần thoại là sản phẩm tất yếu của giai đoạn xã hội thời nguyên thủy
đang chuyển sang chế độ nô lệ. Tóm lại ta có thể kết luận rằng mặc dù các
truyện thần thoại đều bao gồm tính chất hoang đƣờng, thần linh của nó nhƣng
sứ mạng chủ yếu của nó vẫn là phục vụ cho sản xuất, cho cuộc đấu tranh

13


chống áp bức, chống ngoại xâm. Ra đời do những nhu cầu lịch sử và trên cơ
sở một điều kiện nhất định của trình độ sản xuất, thần thoại Việt Nam thể hiện
lòng ƣớc muốn và cố gắng nhận thức về vũ trụ, thế giới, vƣơn lên trong lao
động, và đấu tranh của tổ tiên ngƣời Việt Nam chúng ta.
Nhƣ vậy có thể nói, thần thoại Việt Nam hình thành từ ba nguồn chủ
yếu. Một là, mối mâu thuẫn giữa nhu cầu lí giải các hiện tƣợng tự nhiên với
trình độ non nớt về giới tự nhiên của ngày xƣa. Hai là, khát vọng ngự trị thế
giới tự nhiên, chinh phục tự nhiên của con ngƣời. Ba là, khát vọng lí giải các
mối quan hệ mới xuất hiện và ngày càng đa dạng giữa con ngƣời với chính
mình, với ngƣời khác giữa cộng đồng này với cộng đồng khác.
1.3. Thần thoại Trung Hoa
Thần thoại Trung Hoa là một bộ phận quan trọng không chỉ với văn
học Trung Quốc mà còn là phần không thể thiếu trong văn học nhân loại. So
với thần thoại Hy Lạp hay thần thoại Ấn Độ thì thần thoại Trung Hoa thiếu đi
tính hệ thống, có nhiều lí do dẫn đến tình trạng này. Nhƣng với những thành
quả còn tồn tại, nhân loại không thể không thừa nhận sự kì vĩ của nó. Những
mẩu câu chuyện, mẩu nhỏ của thần thoại đƣợc lƣu giữ trong nhiều sách cổ
của Trung Quốc nhƣ Sơn hải kinh, Trang Tử, Hoài Nam Tử, Sở Từ… sau đó
các nhà nghiên cứu đã xâu chuỗi lại để có đƣợc diện mạo rõ ràng hơn.
Dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên sự gắn kết các mảnh vụn còn sót lại
của cả một kho tàng thần thoại kì vĩ nhƣ vậy không thể thành công mĩ mãn.

Hiện tƣợng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Có thể là do những chuyện
thần thoại đó sinh ra từ nhiều nguồn riêng rẽ, có thể không có sự liên quan,
liên kết với nhau. Có thể trong quá trình lƣu truyền qua thời gian bị thất tán,
đứt gãy, không phục nguyên đƣợc nữa, hoặc có thể do con ngƣời vô tình làm
thần thoại biến dạng, khiến cho sự kết nối các mảnh thần thoại càng khó thực
hiện. Tình trạng vụn vặt đó đƣợc giải thích trong cuốn “Lịch sử tiểu thuyết

14


Trung Quốc”ở trang 34, 35: “Thần thoại Trung Quốc sở dĩ chỉ còn những
mẩu vụn vặt, các thuyết cho là gì vì hai lẽ: Lẽ thứ nhất là nhân dân Trung
Hoa, đầu tiên sống ở lƣu vực sông Hoàng Hà, thiên nhiên tƣơng đối thiếu
thuận lợi, sinh sống đòi hỏi phải cần cù, thành ra trong thực tế mà truất bỏ tƣ
tƣởng thần bí, đi đến chỗ không có khả năng tập hợp chuyện cổ để làm một
áng văn lớn. Lẽ thứ hai là Khổng Tử ra đời, lấy những vấn đề thực dụng sửa
mình, yên nhà, trị nƣớc, bình thiên hạ làm giáo lí, không muốn nói việc thần,
những thuyết hoang đƣờng thời thái cổ đều là những điều nhà Nho không nói,
cho nên về sau chẳng những không làm đƣợc gì cho sáng sủa, lớn lao thêm
mà còn để tản mát, mất mát đi nữa. Nhƣng xét cho rõ, thì lí do nhấn mạnh
hơn là ở chỗ thần với quỷ không phân biệt rạch ròi. Ngƣời xƣa nói, thiên thần,
địa kì, nhân quỷ, nghe nhƣ phân biệt rõ ràng, song nhân quỷ cũng làm đƣợc
thần kì. Ngƣời lẫn lộn thì cái tín ngƣỡng nguyên thủy còn thì những điều
giống với truyền thuyết mỗi ngày xuất hiện không ngừng, những điều cũ đó
đã chết cứng đi mà cái mới có cuối cùng cũng không sáng bừng lên đƣợc”.
Mặc dù vậy, dù có hệ thống hay chỉ là những mảnh vỡ vụn vặt thì một
điều không thể phủ nhận rằng thần thoại Trung Hoa cho thấy sức sáng tạo bay
bổng của con ngƣời nguyên thủy. Trong “túi khôn” của mình, “ngƣời Trung
Quốc cổ xƣa đã nhân hóa,thần thánh hóa các hiện tƣợng tự nhiên; thần thánh
hóa, anh hùng hóa các nhân vật trong cộng đồng của họ; mỹ hóa, lí tƣởng hóa,

kì vĩ hóa, kì dị hóa toàn bộ thế giới ấy… (bao gồm cả các nhân vật). Cho nên
ngƣời ta mới thấy đƣợc hai con mắt của ông Bàn Cổ là mặt trăng, mặt trời.
Hay nhƣ vua Nghiêu có hai con mắt nhƣng lại có đến bốn con ngƣơi; những
tộc ngƣời trong cộng đồng ấy không cần ăn, chỉ uống sƣơng nhƣng vẫn có thể
sống, rồi bay lên bay xuống giữa trời; rồi những con cua to bằng cả hòn đảo,
những con chim xòe cánh che kín cả một góc trời; những vị thần đầu ngƣời

15


mình rắn, đầu chó mình ngƣời hay đầu ngƣời mình chim…” [1; 5] Quả thực
là một sự tƣởng tƣợng bay bổng đến kì lạ, kì dị.
Nhờ có trí tƣởng tƣợng bay bổng ấy mà ngƣời dân Trung Hoa có thể
gói ghém, gửi gắm vào thần thoại nhận thức của mình về thế giới, về xã hội,
đồng thời qua đó gửi gắm những ƣớc mơ, những khát vọng, hoài bão của
chính bản thân con ngƣời. Ngƣời dân Trung Hoa giải thích có trời và có đất là
do “khí nhẹ bay lên tạo thành trời”, “khí nặng thì lắng xuống tạo thành đất”.
Hiện tƣợng nắng nóng, hạn hán gắn với thần thoại của mƣời mặt trời; loài
ngƣời ra đời là công tạo sinh từ bàn tay của Nữ Oa. Để trị vì, để bảo vệ cho
cuộc sống của con ngƣời thì có Thần Nông, Hoàng Đế, vua Nghiêu, vua
Thuấn. Chim Tinh Vệ nhỏ bé mà vẫn miệt mài lấp biển, Hình Thiên mất đầu
thế nhƣng vẫn cố gắng chống lại cƣờng quyền… Chính những điều đó trở
thành động lực cho biết bao thế hệ con ngƣời từng bƣớc tiến đến hoài bão,
khát vọng của mình dù còn nhiều chông gai và vô vàn gian khó.
Nhƣ vậy, kho tàng thần thoại Trung Hoa để lại cho xã hội loài ngƣời
những ý nghĩa nhất định. Đó là những ý thức về hiểm họa, tồn tại cả trong thế
giới bên ngoài và ngay cả trong thế giới loài ngƣời; đồng thời qua đó gửi gắm
một sức sống mãnh liệt, một tinh thần phản kháng, đấu tranh không biết mệt
mỏi đối với tự nhiên và xã hội, nhằm vƣơn đến một cuộc sống thịnh vƣợng,
đầy đủ, ấm no, hạnh phúc hơn.

Có thuyết nói rằng, thần thoại đƣợc xuất phát từ trong quá trình lao
động của con ngƣời, họ tìm kiếm những câu chuyện mang đến tinh thần lạc
quan trong xã hội. Thần Thoại Trung Hoa cũng vậy, qua lao động họ thấy và
hiểu nhiều với cuộc sống, sáng tạo ra nhân vật chính là niềm tin vào cuộc
sống, bài ca, điệu múa sau những lần mệt mỏi, buồn sầu hay thiên nhiên tàn
phá con ngƣời không yên… Thần thoại là một thể loại sáng tác để gắn chặt
hoạt động của nhân dân thời viễn cổ chiến đấu với tự nhiên để duy trì cuộc

16


sống, có quan hệ với cuộc sống và lịch sử viễn cổ. Họ biểu hiện khát vọng
chống lại các thế lực siêu hình đang tàn phá tự nhiên hay ảnh hƣởng đến con
ngƣời. Những thế lực đen tối ấy bí ẩn mà con ngƣời chúng ta không lƣờng
trƣớc đƣợc. Con ngƣời chúng ta yếu ớt nên khả năng chống lại tự nhiên để
sinh tồn là tinh thần vƣợt khó, là sức mạnh cộng đồng, sức mạnh thần bí mà
con ngƣời gọi là thần đó. Nhân dân viễn cổ sống theo bầy, sống chung và lao
động tập thể, họ sáng tạo ra những công cụ thô sơ để giúp ít cho công việc
hằng ngày có từ thời nguyên thủy, kí hiệu trên gỗ, văn tự bằng hình vẽ, âm
nhạc và múa nguyên thủy. Đồng thời từ đó thần thoại xuất phát từ nhu cầu
khám phá thế giới bí ẩn và tạo nên một tinh thần mạnh mẽ để đấu tranh với tử
thần. Thần thoại bƣớc vào xã hội nguyên thủy không ngừng sáng tạo và phát
triển cùng với tiến trình lịch sử đất nƣớc. Từ rất sớm, ngƣời Trung Hoa
nguyên thủy đã sáng tạo ra văn hóa đồ đá, đó là thời kì con ngƣời bƣớc vào
nhận thức để ý thức về thế giới xung quanh mình. Vào giữa và cuối thời kì đồ
đá xã hội dần tiến cao đến xã hội thị tộc “mẫu hệ” nhƣ ở lƣu vực sông Hoàng
Hà, Trƣờng Giang, đó là nơi gắn bó với dòng máu mẹ do vậy mà thần thoại
cũng xuất hiện nhiều nữ thần nhƣ Nữ Oa, Tây Vƣơng Mẫu, Hy Hòa... Họ là
những ngƣời sáng tạo ra con ngƣời và vạn vật, cải tạo và chinh phục xã hội.
Cùng với xã hội “mẫu hệ” là “phụ hệ” ra đời, thần thoại xuất hiện nhiều nhân

vật phái nam nhƣ Ngọc Hoàng, Thần Nông, Hậu Nghệ… Là những nhân vật
phi thƣờng hay là ngoại hình khác lạ với sức tƣởng tƣợng trong thần thoại: kỳ
cầm dị thú, hung thần quái vật cùng với thần thị tộc, thần bộ lạc, thần Sấm,
thần Mƣa… đều không thể tách khỏi những quan niệm đó. Nhận thức và
tƣởng tƣợng của con ngƣời dần dần phát triển, giữa ngƣời và thần, động vật,
thiên nhiên luôn là biểu hiện muôn màu của hình thái ý thức ở con ngƣời thần
thoại xƣa và tiếp tục tồn tại. Ý thức đó là do có thể thấy, hiểu, nhìn và với sự
quan sát tinh tế mới thấu đáo đƣợc cùng tâm linh con ngƣời. Qua từng giai

17


đoạn con ngƣời cũng có nhận thức hơn thành một xã hội hoàn chỉnh, tách rời
thiên nhiên, tiến tới thế giới khác theo mong muốn con ngƣời.
Tóm lại, thần thoại Việt Nam hay Trung Hoa đều ra đời từ thời nguyên
thủy nhằm mục đích giải thích các hiện tƣợng tự nhiên, phản ánh đời sống của
con ngƣời. Thần thoại xuất phát từ nhu cầu khám phá tự nhiên và tạo nên một
tinh thần mạnh mẽ để đấu tranh với tử thần. Thần thoại bƣớc vào xã hội
nguyên thủy không ngừng sáng tạo và phát triển cùng với sự đi lên của các
dân tộc. Qua kho tàng thần thoại hai quốc gia, độc giả thấy đƣợc những ý
nghĩa con ngƣời xƣa gửi gắm trong những câu chuyện đó. Đó là những ý thức
về hiểm họa cả trong ngoại giới lẫn xã hội loài ngƣời; coi trọng con ngƣời
đồng thời qua đó gửi gắm một sức sống mãnh liệt, một tinh thần phản kháng,
đấu tranh không biết mệt mỏi đối với tự nhiên và xã hội, vƣơn đến một cuộc
sống thái bình, đầy đủ, ấm no, hạnh phúc hơn.

18


CHƢƠNG 2: THẦN THOẠI VIỆT NAM VÀ THẦN THOẠI

TRUNG HOA – NHỮNG BIỂU HIỆN TƢƠNG ĐỒNG
2.1. Tƣơng đồng về nhân vật
2.1.1. Nhân vật là thần
Nhân vật trung tâm trong thần thoại ở Việt Nam và Trung Hoa là thần. Sự
tƣơng đồng về nhân vật thần biểu hiện qua những dấu hiệu phổ biến nhƣ sau:
a. Đặc điểm ngoại hình
Ngoại giới trong nhận thức của con ngƣời còn quá nhiều điều bí ẩn.
Mỗi sự vật trong thế giới ấy đều có nguồn gốc cho sự tồn tại. Con ngƣời xƣa
đã sáng tạo ra các vị thần với những hành trạng cụ thể, tạo ra không gian trời
đất - nơi mà mọi sự vật trong không gian ấy có thể duy trì sự sống để lí giải về
sự nảy sinh của trời đất. Thần thoại đƣợc con ngƣời xƣa sáng tạo ra để lí giải
tự nhiên . Do đó, qua khảo sát, ta nhận thấy thần là nhân vật trung tâm trong
thế giới thần thoại. Thần thoại ra đời với chức năng cơ bản là đề cập đến
ngoại giới và mối quan hệ của thế giới đó với loài ngƣời. Nghệ sĩ dân gian đã
sáng tạo ra hình ảnh các vị thần để giải thích các hiện tƣợng tự nhiên, giải
thích vũ trụ từ đâu mà có hay loài ngƣời từ đâu sinh ra và mỗi sự vật trong thế
giới tự nhiên. Cách lí giải của ngƣời xƣa tuy còn đơn giản, phiến diện và ngây
thơ nhƣng ta vẫn có thể thấy đƣợc khả năng tƣ duy của con ngƣời thời cổ.
Những lực lƣợng tự nhiên có sức mạnh, ảnh hƣởng đến đời sống con ngƣời,
vƣợt qua khỏi sự tƣởng tƣợng của con ngƣời, khiến con ngƣời không thể giải
thích đƣợc. Chính vì vậy các nhân vật thần đƣợc xuất hiện, họ hiện lên phong
phú đa dạng, có khi hiền dịu, có khi lại hung dữ lắm. Con ngƣời xƣa nể phục,
sùng bái các thần.
Các vị thần đƣợc xuất hiện trong thần thoại Việt Nam và thần thoại
Trung Hoa đƣợc xây dựng đều có ngoại hình to lớn, kì vĩ. Dân gian đã khắc
họa nên những vị thần. Những vị thần ấy xuất hiện với tầm vóc sánh ngang

19



×