Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

Bùi Xuân Tùng

Vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà nội - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

Bùi Xuân Tùng

Vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Luận văn Thạc sĩ

Người hướng dẫn khoa học: TS.Trần Anh Tài

Hà nội - 2004


PHẦN MỞ ĐẦU
1.


Sự cần thiết của đề tài.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bộ phận quan trọng trong hệ thống doanh
nghiệp nước ta. Đặc biệt, khi chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường, thì vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày
càng được khẳng định. Điều này được thể hiện trong việc tạo việc làm, thu hút
vốn vào sản xuất kinh doanh, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh
tế năng động và hiệu quả hơn. Việc phát triển tốt doanh nghiệp vừa và nhỏ không
những góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế mà còn tạo sự ổn định chính
trị xã hội của đất nước. Thông qua vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ là tác
nhân động lực thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá- hiện đại hoá.
Tuy nhiên các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay đang đứng trước khó
khăn lớn như: năng lực quản lý kém, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm
thấp, giá thành cao... dẫn đến khả năng cạnh tranh kém, khó đứng vững trên thị
trường quốc tế. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp vừa
và nhỏ chưa được giải quyết, từ khái niệm, vai trò, mô hình phát triển đến việc
tạo lập môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp này. Nhà nước ta hiện chưa
có cơ chế, chính sách thoả đáng khuyến khích các doanh nghiệp loại này phát
triển.
Từ vai trò to lớn của doanh nghiệp vừa và nhỏ đến những bất cập vừa nêu
trên cho thấy Nhà nước cần quan tâm đặc biệt đến bộ phận doanh nghiệp này
trong hệ thống doanh nghiệp Việt Nam. Cần có những biện pháp hữu hiệu, tăng
cường vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển
trong giai đoạn hiện nay.
Do vậy, việc nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ phát triển theo đề tài đã xác định là hết sức cần thiết, từ đó
nhanh chóng khắc phục được những nhược điểm và phát huy những mặt đã đạt

1



được trong quá trình nền kinh tế Việt Nam tiến lên Công nghiệp hoá Hiện đại hoá
và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

2.

Tình hình nghiên cứu

Trong thời gian gần đây đã có nhiều học giả nghiên cứu dưới nhiều giác độ
khác nhau về những vấn đề có liên quan đến đề tài. Đã có nhiều bài viết, tham
luận cũng như công trình nghiên cứu như:
* “Vai trò của Nhà nước trong việc tạo lập môi trường kinh doanh cho các
doanh nghiệp”- Tác giả: PTS. Mai Ngọc Cường
* “Vai trò quản lý của Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp”- Tác
giả: TS. Vũ Huy Từ....
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đã làm toát lên vai trò của Nhà nước trong
việc hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung. Tuy nhiên chưa đi sâu vào nghiên cứu
tác động và ảnh hưởng của vai trò Nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Bên cạnh đó, có một số nghiên cứu đã đi sâu vào doanh nghiệp vừa và nhỏ
song cũng chưa làm nổi bật được vai trò của Nhà nước đối với các doanh nghiệp
này, như :
* “Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam và khả năng cạnh
tranh”- Tác giả: TS. Lê Đăng Doanh.
* “Hoàn thiện chính sách kinh tế Việt Nam vĩ mô để thúc đẩy các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” – Tác giả PTS. Nguyễn Minh Tú...
Tình hình nghiên cứu từ trước đến nay cho thấy có rất ít công trình tập
trung nghiên cứu riêng về vai trò của Nhà nước đối việc phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ , nếu có nghiên cứu thì mới là sơ khai, đôi nét chấm phá chưa
làm nổi bật được vai trò quan trọng của Nhà nước. Chính vì vậy, tác giả bài viết

này hy vọng rằng bài viết của mình sẽ đáp ứng được một phần đòi hỏi này. Từ
đó thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng phát triển, góp phần đưa nền
kinh tế Việt Nam tiến lên Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.

3.

Mục đích nghiên cứu
2


Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng về vai trò của Nhà nước trong
việc hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ rõ những mặt hạn chế còn
tồn tại, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Nhà nước
trong vấn đề này.

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Thực trạng phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Vai trò
của các doanh nghiệp này trong nền kinh tế hiện nay.
- Tác động của Nhà nước đối với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam thông qua cơ chế và mô hình hỗ trợ cũng như là các chính
sách.
- Vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
phát triển trong thời kỳ đổi mới tiến lên Công nghiệp hoá - Hiện đại
hoá.
5.

Phương pháp nghiên cứu


- Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương
pháp: duy vật biện chứng, phân tích-tổng hợp, lịch sử lôgíc, thống kê, khảo sát
thực tiễn để có thể rút ra được những nhận định, kết luận và đưa ra những
khuyến nghị. Bên cạnh đó luận án sử dụng số liệu của Tổng Cục thống kê, số liệu
của các công trình nghiên cứu, bài viết trên các sách báo, tạp chí của nhiều tác
giả, nhiều tổ chức, bộ ngành...
6.

Những đóng góp của đề tài:

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hệ thống hoá lý luận về vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Đánh giá thực trạng phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay,
và vai trò của nhà nước đối với sự phát triển của các doanh nghiệp này.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Nhà nước trong
việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.

3


7.

Kết cấu của luận văn:

Ngoài Phần Mở đầu, Luận văn được trình bày trong ba chương và phần
kết luận :
CHƯƠNG 1 : DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ VAI TRÒ CỦA
NHÀ NƯỚC

CHƯƠNG 2 : VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC HỖ TRỢ
PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM.
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CÁC DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.

Phần Kết luận

4


CHƯƠNG 1
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC

1.1 KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
TRONG NỀN KINH TẾ:
1.1.1 Khái niệm và cách phân loại:
Ở Việt Nam hiện nay, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn đề
được nhà nước quan tâm đặc biệt. Trong văn kiện Đại hội Đảng ta khẳng định:
cần phải ưu tiên phát triển các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, công nghệ
tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh ... Đây thực sự là một định hướng
đúng đắn để nền kinh tế nước ta thích ứng và hội nhập với các nước trong khu
vực và quốc tế. Các nhà kinh tế đã khẳng định sự thành đạt của một số quốc gia
về kinh tế – xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của sự phát triển nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức cũng như những
khẳng định về vai trò, vị trí và chính sách quản lý phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam.
Theo công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 Chính phủ Việt Nam đã
tạm thời quy định: doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh

có tư cách pháp nhân với mục đích chính là mưu cầu lợi nhuận có quy mô doanh
nghiệp (tính theo các tiêu thức khác nhau) trong giới hạn nhất định đối với từng
trường hợp cụ thể. Hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp
trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động
trung bình hàng năm dưới 200 người. Trong thương mại, dịch vụ doanh nghiệp
vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có vốn dưới 3 tỷ đồng và số lao động dưới
200 người.
5


Hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Nhưng không có tiêu thức thống nhất để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
cho tất cả các nước và thậm chí ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác
nhau
tuỳ theo từng ngành nghề, từng địa bàn và từng thời điểm khác nhau. Có hai
nhóm tiêu thức phổ biến dùng để phân loại là: tiêu chí định tính và tiêu chí định
lượng:
-

Tiêu chí định tính: Dựa trên các đặc trưng cơ bản của các doanh

nghiệp vừa và nhỏ như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít...các tiêu chí
này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định
trên thực tế. Do đó, chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được làm cơ
sở để phân loại.
-

Tiêu chí định lượng: Số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu,

lợi nhuận... khi phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ có rất nhiều yếu tố tác động ta

có thể nhóm thành các nhóm sau:
+ Trình độ phát triển kinh tế: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các
tiêu chí càng tăng lên. Như vậy ở một số nước có trình độ kinh tế phát triển thấp
thì các chỉ số về lao động , về vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp
hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn, ở Nhật Bản doanh nghiệp có 300 lao
động và 1.000.000 USD tiền vốn thì là doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn doanh
nghiệp có quy mô như vậy ở Thái Lan lại là doanh nghiệp lớn.
+ Tính chất ngành nghề: Do đặc điểm của từng ngành nghề , có ngành sử
dụng nhiều lao động (dệt, may mặc...), có ngành sử dụng nhiều vốn, ít lao động
(hoá chất, điện...). Do đó, cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng
trong phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ giữa các ngành khác nhau. Trên thực tế
ở nhiều nước người ta thường chia từ 2 đến 3 nhóm ngành với các tiêu chí phân
loại khác nhau. Chẳng hạn, các ngành sản xuất, các ngành dịch vụ. Ngoài ra theo
chúng tôi có thể dùng khái niệm hệ số ngành (Ib) để so sánh đối chứng giữa các
ngành khác nhau.
6


+ Vùng lãnh thổ: Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau nên số
lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Chẳng hạn một doanh nghiệp ở
thành phố được coi là nhỏ, nhưng nó lại là lớn ở các vùng nông thôn. Do đó cần
tính để cả hệ số vùng (Ia) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô
doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau.
+ Tính chất lịch sử: Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng
với quy mô như vậy, hiện tại hoặc trong tương lai có thể là nhỏ hoặc vừa. Để tính
đến trình độ phát triển từng giai đoạn phát triển, trong việc xác định quy mô
doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng doanh nghiệp trung bình (Id) hệ số
này chỉ được sử dụng khi xác định quy mô doanh nghiệp cho các thời kỳ khác
nhau.
+ Mục đích phân loại: Quan niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khác nhau

nếu ta phân loại nhằm những mục đích khác nhau. Nếu mục đích phân loại là để
hỗ trợ doanh nghiệp yếu mới ra đời sẽ khác với mục đích là giảm thuế cho các
doanh nghiệp công nghệ sạch, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường.
1.1.2 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Ở Việt Nam nền kinh tế kém phát triển chủ yếu là sản xuất nhỏ nên doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế tạo việc làm, thu hút vốn, làm
cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Điều này được thể hiện trong một số điểm sau:
- Đóng góp vào kết quả hoạt động kinh tế: Năm 2001 doanh nghiệp vừa và
nhỏ tạo ra 30% giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp và 58% giá trị công
nghiệp địa phương, chiếm 76% tổng mức bán lẻ...Trong nhiều ngành nghề (gỗ,
giầy dép...) doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất phần lớn sản phẩm, đóng góp
phần lớn giá trị gia tăng, góp phần tăng trưởng kinh tế.
- Tạo việc làm cho người lao động: Việc làm là một vấn đề nhạy cảm đối
với bất kỳ một quốc gia nào, Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó (hàng năm
cả nước có thêm 1 triệu người đến tuổi lao động). Trong khi khu vực quốc doanh
thu hút được khoảng 1,6 triệu lao động thì riêng kinh tế cá thể thu hút được
7


khoảng 5 triệu lao động. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong
doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng 780,000 VND chỉ bằng 3% các doanh nghiệp
lớn. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong việc tạo việc làm, thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu là
bằng vốn của dân.
- Thu hút vốn: Vốn là một nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò
rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với
từng doanh nghiệp. Nhờ có vốn mới có thể kết hợp được các yếu tố khác như: lao
động, đất đai tài nguyên, công nghệ và quản lý. Tuy nhiên, một nghịch lý hiện

nay là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng trong khi đó nguồn vốn trong dân
còn nhiều nhưng không huy động được. Trong tình trạng đó chính các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là người trực tiếp tiếp xúc với người cho vay, gây được niềm
tin nên có thể vay được vốn, hoặc chính người có tiền đứng ra đầu tư kinh doanh.
- Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn: Sự phát triển của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong
nền kinh tế do số doanh nghiệp tăng lên rất lớn kéo theo sự tăng lên nhanh chóng
số lượng các mặt hàng, công nghệ và tạo điều kiện chuyển hướng kinh doanh
nhanh làm cho nền kinh tế có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh
doanh có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể làm đại lý vệ tinh
cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hoá, cung cấp nguyên liệu đầu vào,
thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn không với tới.
Một điều quan trọng là vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó phần lớn là
doanh nghiệp tư nhân chủ yếu chỉ đầu tư vào các ngành nghề có hiệu quả kinh tế
cao. Do vậy, việc tăng các cơ sở ngày càng làm cho nền kinh tế phát triển và có
hiệu quả. Tuy vậy, cần lưu ý là nếu doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ thì hiệu quả
kinh tế sẽ khó tăng lên được. Điều này, đưa ra những gợi ý cho các nhà hoạch
định chính sách kinh tế trong tương lai.
- Khai thác tiềm năng phong phú trong dân: Việc phát triển các doanh
nghiệp sản xuất các ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một

8


trong những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo, thu hút lao động
nông thôn, phát huy lợi thế từng vùng để phát triển kinh tế.
- Nâng cao thu nhập của dân cư: Việt Nam là một nước nông nghiệp cho
nên năng xuất của nền sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư thấp. Việc
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là phương hướng cơ bản nhằm tăng
nhanh thu nhập cho dân cư. Thực tế cho thấy thu nhập của dân cư có các doanh

nghiệp phát triển gấp 4-5 lần thu nhập của các vùng thuần nông. Điều không kém
quan trọng là thu nhập của dân cư được đa dạng hoá vừa có ý nghĩa nâng cao
mức sống, vừa làm cho cuộc sống giảm bớt rủi ro hơn, nhất là những vùng chịu
ảnh hưởng lớn của thiên tai.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Việc phát triển các Doanh nghiệp vừa
và nhỏ có ý nghĩa lớn trong việc phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn, xoá dần tình trạng thuần nông, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Không những thế, sự phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cơ cấu thành
phần kinh tế thay đổi. Các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh
chóng, các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp và củng cố lại nhằm kinh
doanh có hiệu quả và phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.

1.2 VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.
1.2.1. Sự cần thiết phải hỗ trợ:
Sự cần thiết phải hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất phát từ các vai
trò của các doanh nghiệp và lợi ích to lớn do việc hỗ trợ đó mang lại cả cho các
doanh nghiệp này và cũng có lợi đối với nhà nước (mà trước hết là thực hiện các
mục tiêu kinh tế vĩ mô và toàn xã hội).
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đã bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn, cụ thể là:
+ Trình độ lao động và quản lý yếu: ít được đào tạo một cách bài bản và
chủ yếu theo phương pháp truyền nghề, trình độ văn hoá thấp đặc biệt là số lao

9


động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh mới được thành lập nên chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo.
+ Khó khăn về vốn: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn

trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng chính thức (vì vốn tự có thấp, không
đủ thế chấp, không được hưởng chế độ trợ cấp về vốn, thị trường thuê mua tài
chính chưa phát triển...). Không đủ vốn để đầu tư cho công nghệ và trang thiết bị
dây chuyền hiện đại, dẫn đến tiêu hao nhiều nguyên liệu, giá thành cao, sức cạnh
tranh yếu ... đã trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
+ Khó khăn về tiêu thụ sản phẩm và thị trường xuất khẩu: Phần lớn các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đều tiêu thụ sản phẩm trong một thị trường hẹp. Do
thiếu vốn nên các doanh nghiệp này không có khả năng mở chi nhánh đại diện ở
các địa phương khác và nước ngoài làm hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Do quy định cuả nhà nước trong thương mại chỉ những doanh nghiệp có vốn từ
200 nghìn USD trở lên mới có thể được phép xuất khẩu trực tiếp nên phần lớn
các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xuất khẩu uỷ thác qua các công ty nhà nước.
Ngoài hậu quả là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu thông tin về nhiều mặt hàng,
thiếu khả năng cải tiến mẫu mã sản phẩm, thì việc xuất khẩu uỷ thác đã làm tăng
chi phí sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu. Khó
khăn trong hoạt động này đã hạn chế về khả năng phát triển về các số lượng và
chất lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Do đó, với những hạn chế và khó khăn nêu trên thì để các doanh nghiệp
vừa và nhỏ phát huy được vai trò của mình, cần thiết phải có sự hỗ trợ của nhà
nước. Hơn nữa, có nhiều vấn đề mà các doanh nghiệp này không thể tự giải quyết
được như: tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo
nguồn nhân lực... và nhiều vấn đề khác nếu được sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ làm
giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đứng vững
trên thị trường và phát triển thuận lợi.

10


Lợi ích của chính sách hỗ trợ đối với nhà nước và xã hội: thực tế ở nhiều

nước cho thấy sự hỗ trợ không chỉ có lợi đối với các doanh nghiệp mà còn có lợi
cho cả nhà nước và xã hội. Lợi ích đó được thể hiện trên các mặt:
+ Sự hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ là cách thức để nuôi dưỡng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước
+ Hỗ trợ doanh nghiệp là một cách đầu tư gián tiếp của nhà nước. Thay vì
phải đầu tư trực tiếp để thành lập các doanh nghiệp nhà nước bằng việc hỗ trợ các
doanh nghiệp đã có, đặc biệt là các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân.
+ Thông qua chính sách hỗ trợ của nhà nước, việc đầu tư phát triển sản
xuất hiệu quả hơn vì vừa huy động được tiềm năng trong dân, vừa thực hiện tốt
chức năng quản lý nhà nước.
+ Bằng việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ , nhà nước cũng có thể
giải quyết những vấn đề xã hội như thất nghiệp mà bất cứ nước nào cũng phải
đương đầu, tạo việc làm hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của nhà nước, thay vì
thành lập các doanh nghiệp nhà nước mới thì với số vốn đó có thể hỗ trợ cho một
số doanh nghiệp đã có nhiều gấp bội.
+ Nhà nước có thể định hướng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thông qua chính sách hỗ trợ.
1.2.2.Vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ các Doanh nghiệp vừa và nhỏ:
1.2.2.1. Hình thành khung pháp lý:
Việc tạo lập khung khổ pháp lý rõ ràng và chuẩn xác là điều kiện quan
trọng đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực
hiện chính sách hỗ trợ. ở Việt Nam hiện nay, do pháp luật chưa quy định thế nào
là doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như chưa có giải pháp khung về hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ này nên việc xác định đối tượng, phạm vi, cách thức hỗ
trợ rất khó khăn, phức tạp. Do đó nhiều chương trình hỗ trợ không thu được kết
quả, hoặc hiệu quả của việc hỗ trợ quá thấp.
1.2.2.2. Hình thành các cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý nhà nước đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
11



Hiện nay ở Việt Nam chưa có cơ quan nào chuyên trách về quản lý nhà
nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc quản lý các doanh nghiệp này
do nhiều cơ quan ở nhiều cấp khác nhau quản lý theo hình thức đăng ký kinh
doanh.
1.2.2.3. Khuyến khích phát triển các cơ sở hỗ trợ:
Nhu cầu hỗ trợ của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn mà khả năng
cũng như tiềm lực của đất nước thì có hạn. Vì thế, để đáp ứng các nhu cầu chính
đáng của các doanh nghiệp này cần thiết phải huy động lực lượng hỗ trợ của toàn
xã hội. Đây là giải pháp khá hiệu quả vì:
-

Nhà nước chỉ cần có chính sách hợp lý và hỗ trợ một phần cho các

công ty làm chức năng hỗ trợ mà không cần đầu tư nhiều nguồn lực của nhà nước
mà vẫn đạt được mục đích.
-

Tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

thông qua các chương trình, dự án về tài chính.
-

Cho phép thực hiện hỗ trợ theo những phương thức ứng xử thị

trường thay cho phương thức cung cấp không mất tiền thường dẫn đến trì trệ, ỷ
lại và dễ thất thoát.
1.2.3. Mô hình và cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước.
Ở nhiều nước cơ chế và mô hình hỗ trợ có một số điểm giống nhau nhưng
cũng có nhiều điểm rất khác nhau do điều kiện, mục tiêu, trình độ phát triển là

khác nhau. Nói đến mô hình và cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói đến
mục tiêu, nội dung, phương pháp, công cụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp này.
Mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ: Chủ yếu là nhằm tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp này phát huy được vai trò, tiềm năng vốn có của chúng, sản
xuất kinh doanh có hiệu quả, giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội mà nếu chỉ
riêng các doanh nghiệp lớn thì không thể giải quyết nổi.
Nội dung hỗ trợ: Bao gồm những vấn đề rất thiết thực đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp này tiến hành sản xuất kinh doanh thuận
lợi. Đó là:
12


- Có quan điểm, chiến lược, chính sách kinh doanh cởi mở để khuyến
khích các doanh nghiệp này phát triển.
- Hỗ trợ tạo lập môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng, thông tin, môi
trường xã hội an toàn.
- Hỗ trợ các yếu tố đầu vào: vốn, công nghệ, lao động…
- Hỗ trợ các yếu tố đầu ra liên quan đến hàng hoá, dịch vụ…
Phương pháp hỗ trợ: có thể bằng phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua môi trường.
- Hỗ trợ trực tiếp là đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép, cấp vốn sản xuất,
cấp vốn trực tiếp, cung cấp mặt hàng sản xuất kinh doanh, cung cấp thông tin,
xây dựng cơ sở hạ tầng…
- Hỗ trợ gián tiếp là hỗ trợ thông qua cơ chế, chính sách tác động vào môi
trường kinh doanh để điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp, ổn định chính trị
xã hội, tạo lập thị trường, khuyến khích thành lập các hội nghề nghiệp, các trung
tâm đào tạo nguồn nhân lực, miễn giảm thuế, hỗ trợ các doanh nghiệp mới thành
lập được vay vốn, bảo hộ sản xuất trong nước…
Công cụ hỗ trợ: thông qua các công cụ quản lý Nhà nước như chiến lược,
kế hoạch quy hoạch, chính sách bộ máy, cán bộ.

Để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ có kết quả tốt nhất thiết phải có hệ
thống cơ chế với mô hình hỗ trợ đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến
công cụ hỗ trợ. Mô hình hỗ trợ thành phần, liều lượng các yếu tố, cách thức tác
động, trình tự tác động… cần phải phù hợp với từng thời kỳ trong từng trường
hợp cụ thể. Chẳng hạn, thời kỳ đầu của của sự phát triển thì chiến lược là yếu tố
rất quan trọng, còn trong thời kỳ ổn định thì chính sách là công cụ rất quan trọng.
Như vậy xét trong dài hạn chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hỗ
trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các chính sách cụ thể hỗ trợ các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (ngoài chính sách kinh tế vĩ mô):
+ Tín dụng.
+ Hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ thiết bị.
+ Đào tạo nguồn nhân lực.
13


+ Chính sách thị trường sản phẩm, lao động
+ Liên kết với các công ty lớn.
+ Hỗ trợ xuất nhập khẩu.
+ Phát triển cơ sở hạ tầng.
+ Chính sách bảo vệ môi trường.
Nhìn chung, cơ chế và mô hình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
nhiều nước theo hướng sau:
Hỗ trợ theo cơ chế kinh doanh có vay có trả hơn là cho không. Vì việc bao
cấp cho không thường gây ra tâm lý trông chờ, ỷ lại, sử dụng nguồn lực kém hiệu
quả.
-

Hướng gián tiếp nhiều hơn trực tiếp: nhằm tạo lập cho các doanh

nghiệp cách ứng xử theo cơ chế thị trường.

-

Phân quyền cho chính quyền địa phương nhiều hơn là tập trung vào

Nhà nước, Trung ương, tăng cường các tổ chức phi chính phủ, hội nghề nghiệp
-

Bao quát toàn bộ nền kinh tế hơn là chính sách theo thành phần,

nhóm doanh nghiệp. Chỉ nên có một số chính sách riêng cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ nhưng đặt trong tổng thể nền kinh tế quốc dân
-

Đề cao vai trò của cộng đồng và chính sách đào tạo nguồn nhân lực.

1.3.KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC TRONG VIỆC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
Ở nhiều nước sự hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước
thường là hỗ trợ qua các chính sách và hỗ trợ gián tiếp qua các tổ chức trung
gian như ngân hàng, các tổ chức phi chính phủ, các quỹ… Việc hỗ trợ này dựa
trên cơ sở "tự phát triển" có nghĩa là việc hỗ trợ phải tính đến khả năng hiệu quả.
Về mặt pháp lý, sự hỗ trợ của Nhà nước được thể hiện ở luật khuyến khích doanh
nghiệp vừa và nhỏ về tài chính và tư vấn thông qua các ngân hàng, các quỹ, tổ
chức, công ty góp vốn.
Việc hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nướp chung cho đối tượng này mà chủ yếu
là cho đội ngũ cán bộ quản lý.
- Việc hỗ trợ phát triển công nghệ đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ
còn rất hạn chế, khả năng hỗ trợ trong việc triển khai nghiên cứu cũng như việc
chuyển qua công nghệ nói chung vẫn còn thấp và nó còn hạn chế hơn đối với các
Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ phần lớn tự mình hoặc

phải thuê các chuyên gia trong việc chuyển giao các công nghệ phục vụ cho sản
xuất kinh doanh với chi phí rất cao, nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng về tài
chính cho những chi phí này.
Từ những vấn đề tồn tại nêu trên ta có thể đưa ra một số nguyên nhân chủ
yếu tạo ra điều này đó là:
Thứ nhất vì nguyên nhân khách quan nền kinh tế xã hội có nhiều sự
thay đổi có khi không thể dự báo cũng như lường trước xu hướng phát triển nhất
là trong điều kiện năng lực dự báo của cán bộ nước ta cũng như vấn đề cập nhật
thông tin rất yếu kém, cho nên dù có kế hoạch đến chiến lược chỉ đạo đến đâu
chăng nữa thì cũng không thể tránh khỏi những soi sót, khập khiễng do điều kiện
kinh tế đã thay đổi.
Thứ hai là nguyên nhân chủ quan:
- Những nhận thức thiên kiến về Doanh nghiệp vừa và nhỏ ảnh hưởng tới
việc xây dựng các chương trình hỗ trợ phát triển trong một thời gian dài nước ta
say sưa với mô hình quy mô lớn hiện đại. Sự say mê đó đã phải trả giá bằng hiệu
quả kinh tế thấp kém kéo dài. Lịch sử phát triển kinh tế của một số nước như
83


Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc… đã chỉ ra rằng muốn phát triển với quy mô lớn,
hiện đại phải bắt đầu từ quy mô nhỏ và vừa để có quá trình tích tụ vốn, tích luỹ
kinh nghiệm để đi lên. Sự nóng vội chủ quan sẽ khó đi đến phát triển kinh tế. Sự
thiên kiến đó đã dẫn đến tình trạng trong một khoảng thời gian kéo dài chính phủ
thiếu các chính sách và chương trình hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
- Việc cụ thể hoá chính sách chủ trương ưu đãi hỗ trợ các Doanh nghiệp
vừa và nhỏ của các cơ quan quản lý nhà nước còn rất chậm. ở các tỉnh chưa có kế
hoạch toàn diện với biện pháp cụ thể khuyến khích hỗ trợ hướng dẫn doanh
nghiệp chưa đi sâu sát để tìm hiểu khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp.
- Cung cấp thông tin liên quan đến doanh nghiệp là hình thức hỗ trợ đến
được nhiều doanh nghiệp nhất tuy nhiên phần lớn các thông tin này do nhiều cơ

quan cung cấp. Do áp dụng nhiều văn bản pháp lý khác nhau nên trong nhiều
trường hợp đã cung cấp thông tin sai lệch, thiếu chính xác gây khó khăn cho
doanh nghiệp.
- Nhận thức của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là các doanh nghiệp tư nhân
về sự cần thiết sử dụng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh đang còn rất hạn chế.
Các chủ doanh nghiệp thường đưa ra một số lý do điển hình liên quan đến vấn
đề ít sử dụng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh . Một phần là do các doanh nghiệp
có thể có được hầu hết những gì họ cần từ các nhân viên của họ hoặc thông
qua giao tiếp cá nhân. Vì vậy họ có thể cho rằng không cần thiết phải mua các
dịch vụ phát triển kinh doanh và không cần biết những dịch vụ đó có thể mang
lại những lợi ích gì hoặc những dịch vụ đó cơ bản và cần thiết như thế nào
trong kinh doanh ngày nay.
2.3.3. Một số bài học kinh nghiệm được rút ra từ việc thực hiện các chính
sách và chương trình hỗ trợ phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Nhà nước.
Như đã trình bày ở trên trong thời gian qua dưới tác động của các chính
sách hỗ trợ phát triển của nhà nước thì các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có sự
tiến bộ đáng kể góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên những mặt chưa
được đã hạn chế đáng kể phạm vi quy mô và mức độ mà đáng ra các chính sách
84


có thể phát huy tác dụng được nếu như không gặp những điều này, từ thực tế trên
có thể rút ra một số bài học sau:
Một là thực tế đã khẳng định không phải chính sách ưu đãi, bao cấp và bảo
hộ mà là "cởi trói" trao quyền cho người dân phù hợp với yêu cầu của nhân dân
thì tự nó sẽ phát huy tác dụng trong huy động nguồn lực, sáng kiến và trí tuệ của
nhân dân để phát triển. Thực tế tiếp tục khẳng định yêu cầu phải tách biệt và phân
biệt rõ, việc đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh và việc quản lý nhà nước. Cụ thể
là việc đầu tư kinh doanh và quản lý sản xuất kinh doanh là của doanh nghiệp,

của người đầu tư, không phải của cơ quan và công chức nhà nước.Tất cả những
điều kể trên chứng tỏ việc nhất quán đối với tư duy nhất là tư duy kinh tế phù hợp
với thể chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là vấn đề thời sự ở
nước ta.
Hai là đảm bảo tính đồng bộ giữa quyền tự do tự chủ kinh doanh và thể chế
kinh tế thị trường. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế, tự do hoá
quyền kinh doanh, tự do hoá ra nhập thị trường mới là điều kiện cần nhưng chưa
đủ để huy động và phát huy hết nguồn lực hiện có, tận dụng được các cơ hội phát
triển. Các giải pháp hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường đi đôi với mở
rộng quy mô thị trường hoá nền kinh tế như xây dựng kết cầu hạ tầng, cung cấp
thông tin, hỗ trợ phát triển và nâng cao năng lực của các tác nhân thị trường sẽ
góp phận hiện thức hoá quyền tự do kinh doanh.
Ba là đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Thực tế trong những
năm qua cho thấy đổi mới và hoàn thiện các chính sách về doanh nghiệp nói
chung và Doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng chưa đủ để giải quyết hết các rào
cản đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hiệu lực của các chính sách
đang bị hạn chế đáng kể bởi sự không đồng bộ, không thống nhất, bởi các quy
định không còn phù hợp nhất là các văn bản liên quan trực tiếp đến hoạt động của
doanh nghiệp như về quyền sử dụng đất, về huy động vốn, về lao động, về thuế…
Chính vì vậy, những vướng mắc rào cản vẫn tồn tại khá phổ biến.
Bốn là tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi phải đi cùng các điều kiện trợ
giúp doanh nghiệp nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạo lập môi trường
85


pháp lý thuận lợi là chưa đủ cho sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh
của khu vực doanh nghiệp nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng mà phải
có trợ giúp tích cực nhiều mặt của nhà nước. Các trợ giúp của cơ quan nhà nước,
các cấp không thể chỉ dựa vào lòng nhiệt tình, hăng hái làm theo phong trào mà
phải có tính chuyên môn chuyên nghiệp cao.

Năm là thực hiện hoá quyền tự do kinh doanh và xã hội hoá trợ giúp phát
triển kinh doanh. Thực tế mấy năm qua cho thấy chỉ có nỗ lực của nhà nước chưa
đủ mà phải tạo cơ chế huy động được sự tham gia của các tổ chức xã hội như
hiệp hội các tổ chức quần chúng, các trường đại học và dạy nghè, viện nghiên
cứu, các tổ chức tư vấn và hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp. Mặt
khác sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng chỉ có hiệu quả, phát huy được tác dụng như
mong muốn, khi doanh nghiệp được tổ chức theo loại hình hiện đại với địa vị
pháp lý rõ ràng, được quản lý một cách minh bạch, tuân thủ pháp luật, tôn trọng
và tuân thủ các chuẩn mực đạo đức, văn hoá kinh doanh.
Sáu là năng lực của bộ máy nhà nước vẫn là khâu yếu nhất, chậm thay đổi
nhất thể hiện ở chỗ: nhận thức của bộ máy nhà nước nói chung chuyển biến
không đồng đều giữa trung ương và địa phương giữa các cơ quan cùng cấp có
liên quan và chậm hơn nhiều so với những thay đổi của hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật và thực tiễn phong phú, năng động, thái độ và tâm lý làm việc,
phương thức và công cụ quản lý của các cơ quan có liên quan chưa có sự thay đổi
một cách rõ nét để phù hợp với cơ chế, chính sách mới. Trong một số cơ quan
chức năng, vẫn còn không ít công chức vừa kém năng lực vừa kém đạo đức đã
gây nhiều cản trở đến hoạt động của doanh nghiệp.

86


CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CÁC DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

3.1. CÁC QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VỀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ :
3.1.1. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bộ phận quan trọng trong

chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Trong quá trình xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
nước ta phải quán triệt sâu sắc những vấn đề sau:
Xuất phát từ học thuyết của Cácmác: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp
với hạ tầng kinh tế. Vì vậy chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phải được
xây dựng phù hợp với mô hình kinh tế đã lựa chọn đó là nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN và bản chất của chính sách hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ là phải tương ứng với bản chất của mô hình kinh tế đó. Phát
triển nền kinh tế thị trường là phù hợp với quy luật phát triển kinh tế ở nước ta,
song cơ chế thị trường không phải là liều thuốc thần tiên chữa được bách bệnh
phát sinh trong nền kinh tế, ngay cả bản thân nó cũng nảy sinh những khuyết tật
như: độc quyền, ô nhiễm môi trường, thất nghiệp… Do vậy cần có "bàn tay hữu
hình" đó là tác động của Nhà nước để khắc phục khuyết tật của "bàn tay vô hình".
Vai trò quản lý của nhà nước đặc biệt quan trọng thông qua hệ thống chính sách
và đòn bẩy kinh tế là chủ yếu.
Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phải phù hợp với chủ
trương xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Về lâu dài
nhà nước cũng chỉ đầu tư cho các tập đoàn kinh tế lớn và một số doanh nghiệp có
quy mô vừa để thực hiện vai trò điều tiết, dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng và
87


phục vụ nhu cầu công cộng còn đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác hoạt
động chủ yếu vì mục tiêu kinh tế . Vì vậy chính sách hỗ trợ cần phải tạo được
môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước là nền tảng cho mọi quan điểm, hệ thống chính sách quản lý hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thiếu nó hoặc vận dụng nó không đúng, thì chính sách
quản lý và hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ

không có tác dụng. Việc xây dựng và phát triển chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ không có mô hình khuôn mẫu áp dụng cho mọi nước mà chúng ta
phải vừa làm vừa áp dụng sáng tạo trong điều kiện của Việt Nam.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường nên các doanh nghiệp và các nhà đầu tư còn chưa
có nhiều kinh nghiệm, sức ì còn lớn, tâm lý chụp giật còn phổ biến, chưa chú ý
nhiều đến chiến lược kinh doanh dài hạn. Vì vậy, phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ sẽ góp phần tạo nên một đội ngũ kinh doanh có kinh nghiệm và bản lĩnh
kinh doanh , tạo điều kiện về yếu tố con người của các giai đoạn phát triển tiếp
theo. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khuyến khích và tăngcường cạnh
tranh ngay trên thị trường trong nước làm cho nền kinh tế năng động hơn, làm
cho các doanh nghiệp phải vươn lên không ngừng bằng chất lượng và hiệu quả.
Nhờ đó nền kinh tế sẽ có cơ hội phát triển sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có ưu thế tạo được nhiều công ăn việc làm, điều
này hết sức quan trọng đối với một nước đang phát triển có tiềm năng về lao
động, ( đồng thời đó cũng là một gánh nặng xã hội ) như nước ta. Phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa góp phần thu hút thêm lao động giẩm sức ép về
việc làm, tăng thêm thu nhập, để cải thiện đời sống cho người lao động, vừa góp
phần sử dụng tốt hơn nguồn lực sẵn có ( nhất là lao động) của nền kinh tế để tạo
tiền đề tích luỹ cho các giai đoạn phát triển sau.
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ hội cho các nhà đầu tư bỏ vốn
vào kinh doanh đây cũng là một biện pháp góp phần làm tăng tỷ lệ tích luỹ của
nền kinh tế để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
88


3.1.2. Bảo hộ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong từng giai đoạn:
Trong quá trình hội nhập kinh tế, bên cạnh việc tập trung nâng cao năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước thì đồng thời để tránh tình trạng
Doanh nghiệp trong nước mất thị phần và có thể vươn ra thị trường nước ngoài

nhà nước cần có chính sách hợp lý để bảo hộ cho các doanh nghiệp đặc biệt là
doanh nghiệp vừa và nhỏ để chúng có thể tồn tại và trở nên cứng cáp hơn trước
khi phải đối mặt với xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá cụ thể là:
- Căn cứ vào tiến trình Việt Nam gia nhập các tổ chức mậu dịch tự do
APEC, AFTA, WTO…nhà nước cần có kế hoạch cụ thể để các doanh nghiệp có
biện pháp chiến lược đúng đắn để từng bước chủ động tham gia quá trình hội
nhập.
- Trong thời gian chưa đến thời hạn mở cửa thuế quan cần có những kế
hoạch bảo hộ tạo thời cơ, cơ hội cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, phải
tránh được tình trạng độc quyền trong nước và khuyến khích sự đổi mới công
nghệ để ngày càng tạo ra sản phẩm có liều lượng chất xám cao có thể cạnh tranh
với các doanh nghiệp nước ngoài.
- Phát huy những mặt mạnh, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của các doanh
nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài. Nhà nước nên có kế hoạch
xem xét những ngành nào cần phải tiếp tục bảo hộ, ngành không cần thiết bảo hộ
nữa, tạo điều kiện tối ưu cho doanh nghiệp Việt nam tham gia hợp tác với thị
trường khu vực và quốc tế mà bất lợi là tối thiểu.
3.1.3. Phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải lấy hiệu quả kinh tế xã
hội làm thước đo:
Trong cơ chế thị trường tiêu thức quan trọng để đánh giá doanh nghiệp là
hiệu quả kinh tế xã hội. Mặc dù doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu nhưng trên góc độ quản lý không thể coi nhẹ vấn đề
xã hội, do đó phải gắn hiệu quả kinh tế xã hội làm một. Do đó chính sách hỗ trợ
89


phải đảm bảo yêu cầu tạo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển một cách lành
mạnh đáp ứng mục tiêu hiệu quả kinh tế xã hội.
3.1.4. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết chặt chẽ với
doanh nghiệp lớn. Khuyến khích phát triển trong một số lĩnh vực mà doanh

nghiệp lớn không thể tham gia :
Nguyên lý chung là sản xuất lớn, sản xuất hàng loạt có hiệu quả hơn sản
xuất nhỏ về mặt kinh tế. Tuy nhiên nếu xét về hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả
của toàn bộ nền kinh tế nói chung chứ không phải riêng của một doanh nghiệp
nào thì không phải hoàn toàn như vậy. Thị trường có nhiều phân đoạn: Phân đoạn
dành cho sản xuất có số lượng tiêu thụ lớn, phân đoạn dành cho các sản phẩm
đơn chiếc đáp ứng hết sức riêng của một nhóm người hay một hộ tiêu thụ nào đó.
Chính doanh nghiệp vừa và nhỏ thích hợp với loại thị trường thứ hai này. Thông
thường nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì doanh nghiệp luôn luôn tìm
cách chiếm lĩnh thị trường, bất kể là lớn hay nhỏ. Vì vậy cần có khung khổ luật
pháp rõ ràng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp lớn có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau trong quá trình phát triển kinh tế của một nước, nó hỗ trợ đắc lực cho nhau
trong sản xuất kinh doanh. Trong đó doanh nghiệp lớn là "hạt nhân" đứng vị trí
trung tâm, doanh nghiệp vừa và nhỏ là những "vệ tinh" đứng xung quanh. Đó là
cơ sở ban đầu để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, có đủ sức cạnh tranh trên
các thị trường, có khả năng đáp ứng nhu cầu của vùng về một số loại hàng hoá
nhất định. Tuy nhiên doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn có tính độc lập trong việc đáp
ứng nhu cầu ở các vùng nhỏ, vùng xa, vùng cung của đường phân phối, cũng như
độc lập trong sản xuất kinh doanh với các doanh nghiệp lớn. Yêu cầu của quan
điểm này là chính sách tạo ra môi trường cho sự liên kết, hợp tác kinh doanh
giữa các doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ khuyến khích các doanh
nghiệp lớn hình thành hệ thống vệ tinh bao gồm cả những kiên kết ngang, liên kết
dọc trong quá trình sản xuất hay trong bao tiêu sản phẩm, cung ứng vật tư, máy
móc thiết bị… Mối liên hệ đó được thể hiện:

90


- Phân công chuyên môn hoá giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh

nghiệp lớn sao cho có hiệu quả. Doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo đầu vào, vừa góp
phần tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp lớn.
- Doanh nghiệp lớn hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ để đào tạo tay nghề trao
đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Gia thầu lại cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ những phần việc mà doanh nghiệp lớn ký hợp đồng
với nhà nước.
3.1.5 Phát triển các khu công nghiệp dành riêng cho các Doanh nghiệp vừa
và nhỏ :
- Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về cơ sở hạ tầng,
giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp vừa và nhỏ . Hơn
nữa, nhà nước dễ dàng thực hiên các chính sách ưu đãi và tiến hành hỗ trợ cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong khu công nghiệp.
3.1.6. Ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn
-

Trong chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn

hiện nay thì phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là mô hình thích hợp nhất để
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, Bởi vì hiện nay nước ta có trên 70% dân số
sống ở nông thôn. Quá trình phát triển những năm qua đã tạo ra sự chênh lệch
nhất định về thu nhập nói riêng và trình độ phát triển nói chung giữa thành thị và
nông thôn. Tình trạng nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn chưa được sử dụng tốt
cho phát triển kinh tế đã và đang dẫn đến sức ép di cư vào các trung tâm công
nghiệp và đô thị lớn, dễ gây lên những biến động lớn khôn lường trong xã
hội.Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy đốĩ với các nước đông dân ở Châu á thì
chiến lược phát triển đi từ nông nghiệp và nông thôn là khôn ngoan và có hiệu
quả do một số lý do sau:
- Tập trung phát triển nông thôn sẽ làm tăng thu nhập của bộ phận dân cư
này, góp phần làm giảm thiểu nhu cầu di cư vào các thành phố và trung tâm công
nghiệp, ổn định xã hội tránh cho các thành thị rơi vào tình trạng quá tải và hỗn

độn về mọi mặt.

91


- Thu nhập dân cư tăng lên ở nông thôn làm cho sức mua của toàn xã hội
tăng lên. Đó là yếu tố kích thích sản xuất không chỉ đối với kinh tế nông thôn mà
còn đối với cả nền kinh tế thành thị. Điều đó sẽ làm tăng mối liên kết giữa thành
thị và nông thôn góp phần giảm chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai khu
vực này.
- Sử dụng được nguồn lao động dồi dào một trong hai yếu tố quan trong cho
tăng trưởng đó là vốn và lao động trong khi nước ta còn đang thiếu thốn. Hơn
nữa nông thôn có sẵn nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú phát triển công
nghiệp tiêu dùng nhất là cho các ngành chế biến lương thực và thực phẩm.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ :
Trước những khó khăn và thách thức đối với khu vực doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong khi vai trò của khu vực này đã được khẳng định qua kinh nghiêm của
nhiều nước cũng như thực tiễn của Việt nam thì việc có một hướng đi đúng đắn
nhằm phát triển khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ là một trong những mục tiêu
quan trọng để phát triển kinh tế đất nước trong thiên niên kỷ mới. Trước mắt để
tháo gỡ những khó khăn, khắc phục những hạn chế làm cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ chưa phát triển đúng với tiềm năng vốn có của nó và để tạo môi trường thuận
lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động chúng ta cần phải thực hiện một
số biện pháp sau:
- Tiếp tục nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò quan trọng của khu
vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với quá trình phát triển kinh tế đất nước. Việc
nâng cao nhận thức đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo điều kiện
nhằm thay đổi tư duy về khu vực này đối với mỗi người dân cũng như toàn xã
hội tạo điều kiện nâng cao tinh thần kinh doanh và vị trí của doanh nhân trong xã
hội. Việc đánh giá cao vị thế của người kinh doanh hay nói cách khác việc tôn

vinh các doanh nhân sẽ làm thay đổi nhận thức về nghề nghiệp sẽ có nhiều hơn
những nhà doanh nghiệp trẻ và cũng sẽ có nhiều hơn những doanh nghiệp thành
đạt.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đối với khu vực doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó có một vấn đề cực kỳ quan trọng là tạo sự bình đẳng
92


×