Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

ĐỀ TÀI LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.25 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÔN: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
LỚP: QH1012

VĂN BẢN WORD
ĐỀ TÀI: Thành tựu văn học Ai Cập, Lưỡng Hà
Nhóm thực hiện: 04
STT HỌ VÀ TÊN
MSSV
LIÊN LẠC
Email:
1
Nguyễn Võ Minh Ngọc 1257060093

Điện thoại: 01249578581
Email:
2
Phan Thị Hồng Liên
1257060063

Điện thoại: 01649224031
Email:
3
Lê Đình Thi
1257060131

Điện thoại: 0972180750
Ngày nộp: 24/02/2013
NỘI DUNG
I.







Đặt vấn đề:
Giới thiệu sơ lược văn minh Ai Cập – Lưỡng Hà.
II.
Thành tựu văn học:
1. Những nét tương đồng:
a. Văn bia:
Ai Cập:
 Những văn bản kim tự tháp: được khắc trên những bức tường trong các kim tự tháp của
năm vị pharaoh thuộc vương triều V và VI (cuối thế kỷ XXV – giữa thế kỷ XXIII TCN),
được chôn cùng với người chết như các tác phẩm kinh cầu hồn, hàm chứa quan niệm của
người Ai Cập về thiên nhiên và con người, cái chết và cuộc sống sau khi chết, phản ánh
ước muốn người chết trở thành bất tử, niềm tin ngây thơ của con người vào khả năng
thắng được cái chết và trở nên bất tử giống thần linh.
 Văn bia tiểu sử/ tự truyện của các quan đại thần: quan niệm của người Ai Cập cổ “sự vật
không có tên thì không tồn tại”, việc khắc ghi vĩnh cửu tên của người chết trên bia mộ
làm cho sự sống thành vĩnh cửu, tiêu hủy tên đồng nghĩa với việc tiêu hủy người mang
tên đó. Từ đó, dần xuất hiện các câu chuyện tự sự có nội dung và nghệ thuật đặc sắc.
 Văn bia lịch sử: thuộc thời Tân vương quốc, không có yếu tố huyền thoại, gần với thực
tế, như Biên niên sử của Pharaoh Tuthmosis III, Trường ca Pentaur, Văn bia Israel [1].
Lưỡng Hà:

Văn bia chiến công của các vị vua: xuất hiện ở Sumer vào phần tư thứ hai của thiên niên
kỷ III TCN, gắn với việc xây dựng các ngôi đền và các con kênh, các cuộc chiến tranh.
Đến giữa thiên niên kỷ III TCN, văn bia trở nên dài hơn đồng thời bắt đầu hình thành
những cơ sở của một phong cách ngày càng trở nên giàu hình tượng và biểu cảm.

1








“Ngụy văn bia”: mô phỏng phong cách của các văn bia cổ và dòng tự sự được kể từ ngôi
thứ nhất, thường được viết để tưởng nhớ các sự kiện chiến tranh, trong đó có cả những
sự kiện đang diễn ra. Các tác phẩm tiêu biểu: Lịch sử thánh đường Tummal, Danh mục
các vua, Liệt kê tên các năm [2].

Văn bia của các vua Assyria: niên đại vào khoảng thế kỷ VIII – VII TCN, có thể chia
thành ba loại:
 Văn bia long trọng: sự liệt kê các chiến công của nhà vua nhưng không có thông tin
lịch sử hay địa lý nào.
 Biên niên sử: ghi lại chi tiết hơn những cuộc viễn chinh và những chiến công của nhà
vua, cung cấp những tư liệu hết sức quý giá về lịch sử và địa lý.
 “Thư tín”: của các vị vua gửi thần linh dưới dạng bản báo cáo chi tiết về một cuộc
viễn chinh.
b. Văn giáo huấn, tư tưởng triết lí:
Ai Cập:

Châm ngôn: văn giáo huấn chứa đựng những tư tưởng đạo lý và quy định hành xử trong
xã hội Ai Cập cổ đại. Các tác phẩm chính: Châm ngôn của vua thành Heracleopolis,
Châm ngôn của Ani, Amenepome, Châm ngôn của Ankhsheshonk, Châm ngôn Insinger
[3]
.

 Châm ngôn của Ptahotep: Ptahotep là tể tướng của vua Izezi thuộc vương triều V
(khoảng 2500 năm TCN). Châm ngôn là lời giảng dạy cho con trai, đồng thời cũng là
người kế vị ông, những lời giáo huấn mang tính đạo đức cao cả được xen lẫn với
những lời khuyên bảo về sinh hoạt đời thường.

Bài ca của người chơi đàn hạc: tập hợp khoảng 15 văn bản được truyền lại tử thời Trung
Vương quốc và Tân Vương quốc, được lưu trên papyrus Harris 500. Tác phẩm là phản
đề cho giáo lý về sự bất tử, đề cao cuộc sống trần gian, bộc lộ rõ ràng thái độ ngờ vực
đối với những tín điều về thế giới bên kia, cho thấy ở thời Trung Vương quốc có sự hiện
diện những tư tưởng tôn giáo xã hội khác nhau, đôi khi đối lập nhau.

Bi ca một linh hồn tuyệt vọng: thuộc thời Trung Vương quốc (khoảng 2000 năm TCN),
là một tác phẩm triết lí với giọng điệu bi đát. Nhân vật “tôi” trong tác phẩm là một người
thất vọng về cuộc sống nên muốn kết liễu đời mình, cái chết trong mắt “tôi” được diễn tả
như một niềm vui. Nhưng đến phần cuối của tác phẩm, nhân vật “tôi” đã quay về niềm
tin rằng các thần linh sẽ phán xét công bằng [4].
Lưỡng Hà:
 Văn bản Eduba: từ “Eduba” nghĩa là “ngôi nhà của những tấm bảng”, là tên gọi của các
trường học Sumer. Các tác phẩm eduba văn chương có thể chia thành 3 nhóm:
 Tác phẩm mô tả cuộc sống trong trường học: Người cha và đứa con phóng đãng,
chứa đựng lời khuyên răn của người cha, vốn là một thư lại, dành cho cậu con trai
học kém và bướng bỉnh.
 Văn bản giáo huấn: gắn với hoạt động của các trường học của Sumer, nhằm mục đích
giáo dục, răn dạy đạo đức (Châm ngôn của thần Shuruppak Ziusudra), khuyên bảo
thực tiễn để hoàn thành một việc nào đó (Biên niên sử người làm nông).
 Cách ngôn dân gian: gắn với cuộc sống đời thường nhiều hơn cả, bao gồm tục ngữ,
châm ngôn, truyện tiếu lâm, ngụ ngôn, truyện cổ tích, v.v... (Chàng chăng cừu thành
Adab, Anh nghèo thành Nippur[5]).
2



 Tranh luận – đối thoại: những hình thức sơ khai của việc phê phán xã hội. Tác phẩm tiêu
biểu: Tam thiên bi quan, Truyện về người vô tội bị nạn [6].

Cuộc đối thoại bi quan: niên đại cuối thiên niên kỉ II – đầu thiên niên kỷ I TCN, diễn
ra giữa một ông chủ với người đầy tớ của mình, về những ý định của người chủ về đi
lại, dùng bữa, xây dựng, hôn nhân,v.v... [7]
c. Văn xuôi:

Ai Cập: một số tác phẩm tiêu biểu: Người bị đắm tàu, Papyrus Westcar, Truyện về Neferkar
và viên tướng Sisin, Huyền thoại về công chúa xứ Bakhtan, Cuộc phiêu lưu của Un-Amon,
Những truyền thuyết về Petubast, Truyện về Haemuas (hay Truyện về những quan tư tế
Memphis), Truyện về hoàng tử phải chết, Papyrus Rylands IX, Ký lục Demotic [8].
 Truyện hai anh em: niên đại khoảng năm 1212 TCN. Hai anh em là nông dân, nhưng
do bị hiểu lầm làm nhục chị dâu nên người em bỏ đi và trải qua nhiều chuyến phiêu
lưu thần kì. Cuối truyện, người anh biết được sự thật đã giúp chàng trở về và trở
thành pharaoh của Ai Cập.
 Nói thật và nói dối: truyện là cuộc xung đột giữa hai anh em tên Chân và Giả. Giả
hãm hại anh và làm anh mù mắt. Đến cuối truyện, cậu con trai của Chân nhờ sự giúp
đỡ của các thần linh đã trả thù Giả vì tội làm mù mắt cha cậu.

Lưỡng Hà: Truyện Adapa, Truyện Etana, Trường ca tự sự, Biên niên sử Babylon [9].
 Thần thoại: Thần thoại về Enki, về hành trình của thần Nanna đến Nippur, về việc tạo
nên con người, về trận đại hồng thủy, về âm phủ, về những chiến công anh hùng, v.v...
 Enuma Elish: trường ca bằng ngôn ngữ Akkad, đề tài là chiến tranh của các chư thần
và công cuộc sáng tạo ra thế gian, gồm bảy bảng chữ dạng nêm, mỗi bảng chứa từ
125 đến 165 dòng.Trường ca tiêu biểu cho kiểu truyện phục vụ việc cúng tế [10].
d. Tụng ca và ai ca:

Ai Cập:

 Tụng ca thần linh : Tụng ca dâng Hapi (thần sông Nile), tụng ca Amon – Aton, tụng ca
thần Osiris [11].

Lưỡng Hà:
 Tụng ca (ca ngợi thần Enlil, ca ngợi các thành phố và các ngôi đền, Bài câu nguyện
vươn tay lên thần Ishtar [12]).
 Ai ca: những bài khóc cho các tai họa của dân chúng, cũng là những tác phẩm cúng tế,
mang tính nghi lễ (Người đàn ông và vị thần của riêng mình)[13].
e. Thơ tình yêu:

Ai Cập: xuất hiện các bản ghi chép từ thời Tân Vương quốc.Có thể chia thành hai loại
chính, một loại được chỉnh lý chau truốt, manh hơi hướng hàn lâm, thính phòng và loại thứ
hai giản dị, gần gũi với phong cách sáng tác dân gian hơn [14].

Lưỡng Hà:
 Bài hát trong các nghi thức kết hôn: Trong các buổi lễ kết hôn, các bài ca này được diễn
xướng dưới hình thức hội thoại trong các vở kịch ngắn, trong đó các nhân vật vua chúa
đảm nhận vai trò thần bảo trợ và các quan tư tế đóng vai bạn đời của thần.
 Cuộc đối thoại tình yêu: dài hơn 50 dòng, mô tả cuộc cãi cọ của một đôi tình nhân [15].
2. Dị biệt và đặc trưng:
 Ai Cập:
3


 Tử thư: tuyển tập lớn các tác phẩm thời kì Tân Vương quốc dành cho những người chết,
sáng tác nhằm mục đích bảo đảm sự bất tử cho bất kỳ người trần gian nào. Đặc biệt nổi
bật trong đó là chương 125 của tác phẩm, mô tả cảnh tòa án dưới âm phủ của thần Osiris
phán xét linh hồn người chết, lần đầu tiên trong lịch sử tôn giáo và văn học, thể hiện tư
tưởng thưởng phạt sau khi chết tùy thuộc vào phẩm hạnh của con người trên dương thế.
 Tác phẩm chính luận: xuất hiện vào thời kỳ lịch sử chuyển giao giữa hai thời đại Cổ

Vương quốc và Trung Vương quốc (Tiên tri của Nerferty, Truyện Sinuhe, Châm ngôn
Amenemkhat I, Hùng biện của Ipuwer [16]).
 Lưỡng Hà:
 Sử thi thần thoại và sử thi anh hùng: thực tế các tác phẩm này có đặc trưng nội dung
và phong cách giống những hình thức cổ của truyện cổ tích anh hùng hay cổ tích thần
kỳ hơn là sử thi, là những hình thức sơ khai, từ đó phát triển thành sử thi đích thực [17].
 Sử thi Gilgamesh: xuất hiện cách đây khoảng 4000 năm, là tác phẩm văn học dồ sộ
đầu tiên của nhân loại, có giá trị nhân bản và nghệ thuật thơ ca vô cùng sâu sắc.
Gilgamesh là một thũ lĩnh có thật của Uruk, các huyền thoại thuê dệt xung quanh ông
chính là nền tảng cho Sử thi Gilgamesh. Về mặt giá trị văn học, Sử thi Gilgamesh có
ảnh hưởng lớn đến rất nhiều tác phẩm văn học sau này, nhiều mô típ quen thuộc chúng
ta dễ dàng bắt gặp trong văn học thế giới đều khởi nguồn từ Sử thi Gilgamesh [18].
 Điềm triệu (Omina): thể loại chỉ có thể tìm thấy trong văn học Lưỡng Hà, là những
bản ghi chép các hiện tượng được cho là điềm báo trước của các quan tư tế Akkad.
Những ghi chép như vậy được thu thập thành tập bài giảng cho các thầy bói tương lai,
để họ có thể tiên đoán tương lai khi các hiện tượng tương tự lặp. Trong omina còn có
những sự kiện xã hội có thực được nhắc đến, trong chừng mực nào đó chúng có thể
được xem như những tư liệu lịch sử.
III.
Nhận định, đánh giá:
1. Những khó khăn trong việc phân chia thể loại các tác phẩm văn học Ai Cập –
Lưỡng Hà: Tất cả sự phân chia theo thể loại trong nghiên cứu này hoàn toàn là
ước lệ và dựa trên những quan niệm của văn học hiện đại về thể loại.Điều khó
khăn nhất trong việc thử phân loại văn học cổ đại Ai Cập – Lưỡng Hà là phân ranh
giới rõ ràng giữa tác phẩm văn chương đích thực với những tác phẩm thành văn
khác.Quá trình này đã dẫn đến kết luận là việc phân chia các tác phẩm thành các
nhóm lớn thì tiện hơn và khách quan hơn là phân loại tỉ mỉ thành nhóm nhỏ.
2. Vấn đề tôn giáo trong văn học Ai Cập – Lưỡng Hà:
Văn học cổ đại Ai Cập – Lưỡng Hà gắn liền với đời sống và hệ tư tưởng của xã
hội cổ đại – hoàn toàn bị chi phối bởi tôn giáo. Nhiều tác phẩm của nền văn học

này đã thấm nhuần thế giới quan tôn giáo, biểu hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau. Tuy nhiên không nên từ đó mà cho rằng văn học cổ đại chỉ là những văn bản
tôn giáo hay thần thoại. Ngược lại, nó rất phong phú đa dạng về thể loại.
3. Ảnh hưởng của văn học Ai Cập – Lưỡng Hà cổ đại đối với văn học thế giới:
Ta có thể tìm thấy trong các tác phẩm còn lại của văn học Lưỡng Hà mô típ tiểu
biểu cho các tác phẩm văn học sau này, đặc biệt là trong thể loại truyện cổ tích
thần kỳ. Nhiều thủ pháp nghệ thuật khác của văn học Lưỡng Hà cũng đã được kế
thừa như các hình thức sơ khai của việc phê phán xã hội thông qua các cuộc đối
thoại, thủ pháp lặp lại, hình tượng nhân vật, v.v...

4


Đặc biệt, Ai Cập nói chung và văn học của nó nói riêng có ảnh hưởng rõ ràng đối
với Kinh Thánh (Ngụ ngôn của Solomon từ Châm ngôn Amenemope, câu chuyện
về Joseph và Pot từ Truyện về hai anh em). Chắc chắn rằng ảnh hưởng của văn học
Ai Cập đối với văn học cổ đại Hy Lạp là rất đặc biệt. Trong thời Hy Lạp hóa ở Ai
Cập xuất hiện thứ văn học bao gồm những bản dịch hay những phỏng thuật sang
tiếng Hy Lạp các tác phẩm của văn học Ai Cập (Lời sấm của người thợ gốm, dị
bản thần thoại về nữ thần Tethnut, phóng tác truyền thuyết về pharaoh Nektanebe
của Ai Cập). Văn học Hy Lạp – Ai Cập lại có tác động đối với văn học cổ đại Hy
Lạp – La Mã. Cần phải nói đến mối quan hệ đã được các nhà nghiên cứu phát hiện
giữa thơ tình yêu của Ai Cập với thơ tình yêu của Hy Lạp – La Mã cổ đại: những
mô típ hệt như vậy với cách lý giải cũng hệt như vậy trong thơ tình yêu của Ai Cập
rất lâu trước khi các nhà thơ cổ đại Hy – La xuất hiện.
Văn học Ai Cập còn ảnh hưởng đến văn học cổ đại Do Thái, qua trung gian văn
học Coptic ảnh hưởng đến văn học Arập. Nói cách khác, văn học thế giới phải
mang ơn nhiều đối với một trong những nền văn học cổ nhất – văn học Ai Cập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Câu chuyện văn chương phương Đông – Nhật Chiêu – NXB Giáo dục.

2. Văn học cổ đại Ai Cập – M. A. Korostovtsev, Trần Thị Phương Phương dịch – Website
khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
3. Văn học Lưỡng Hà – V.K. Afanasyeva, Trần Thị Phương Phương dịch – Website
khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
4. Lịch sử các nền văn minh – Hoàng Lê Minh – NXB Văn hóa thông tin
5. Lịch sử văn minh nhân loại – GS. Vũ Dương Ninh – Tủ sách ĐH KHXH & NV TP.HCM
1998.
6. Nguồn gốc văn minh – Will Durant, Nguyễn Hiến Lê dịch – NXB Văn hóa thông tin.
7. Almanach: những nền văn minh thế giới – Nhiều tác giả - NXB Văn hóa thông tin.

5


PHỤ LỤC
1. Văn bia lịch sử:
 Biên niên sử của Pharaoh Tuthmosis III: được khắc trên các bức tường đền Karnak
thờ thần Amon ở Thebes, là trích đoạn trong từ toàn văn biên niên sử thời bấy giờ do
viên thư lại Chanini soạn.
 Trường ca Pentaur: mô tả trận đánh Kandesh nổi tiếng giữa Ramses II với những
người Hitti diễn ra vào đầu thế kỷ XIII trước công nguyên, ca ngợi pharaoh như một
anh hùng, người cứu đất nước và nhân dân thoát khỏi kẻ thù khủng khiếp là những
người Hitti.
 Văn bia Israel: ca ngợi chiến thắng của pharaoh Merenptah - người kế vị Ramses II trước những đội quân Libia hùng mạnh xâm lược Ai Cập.
2. Ngụy văn bia:
 Lịch sử thánh đường Tummal: liệt kê tên các vị vua trị vì các thành bang khác nhau
từng xây dựng và tái thiết thánh đường Tummal.
 Danh mục các vua: liệt kê các vua, thường theo mẫu chung vị vua trị vì bao nhiêu
năm, các thành bang bị ngài đánh bại, và bổ sung cả những chuyện khác, thường là
mang tính huyền thoại, được chia thành “trước đại hồng thủy” và “sau đại hồng thủy”.
 Liệt kê tên các năm: được tạo lập dưới thời vương triều III Ur, có thể được xem như

một tác phẩm sử ký hay biên niên sử sơ khai.
3. Châm ngôn:
 Châm ngôn của vua thành Heracleopolis: được viết cho con trai ông là Merikare, là
tập hợp những kinh nghiệm trị vì đất nước, những phương pháp đấu tranh chống lại
những kẻ mưu phản và nổi loạn.
 Châm ngôn của Ani, Amenepome: được các tác giả viết cho các con trai mình theo
truyền thống cổ đại, bao gồm những lời khuyên răn đủ loại hết sức khác nhau được
xếp không theo một trật tự nào. Đáng chú ý là trình độ triết lý đạo đức của những
châm ngôn thời Tân Vương quốc cao này hơn rõ rệt so với thời cổ đại.
 Châm ngôn của Ankhsheshonk, Châm ngôn Insinger: châm ngôn thời kì Demotic,
không có nhiều khác biệt so với châm ngôn truyền thống.
4. Bi ca một linh hồn tuyệt vọng:
“Cái chết đang nằm trong mắt tôi
Như mùi hương mật nhi lạp
Như ngồi thuyền theo gió mà trôi
6


Cái chết đang nằm trong mắt tôi
Như mùi hoa bách hợp
Như trên bờ nước, ta say rồi”
Phần cuối của tác phẩm, nhân vật “tôi” tin rằng các thần linh sẽ công bằng:
“Người, người ở cõi xa kia
Sẽ bắt lấy kẻ có tội
Mà trừng phạt chẳng tha
Người, người ở cõi xa kia
Sẽ đi trên chiếc thuyền trời
Sẽ chọn những gì cần chọn
Trong lễ dâng đền thánh.”
5. Anh nghèo thành Nippur: tác phẩm thời kì văn học Babylon. Truyện kể về một người

nghèo khổ bị tên quan thị trưởng xử tệ một cách bất công, và là một dị bản của loại
truyện phổ biến trong văn học dân gian thế giới kể về người nghèo khổ trả thù, ba lần
xuất hiện trong nhà của kẻ đã xúc phạm mình với những khuôn mặt khác nhau.
6. Tranh luận - Đối thoại:
 Tam thiên bi quan, trong mỗi cặp tranh luận của bộ ba đối thoại này, một người khẳng
định rằng mọi thứ đều tốt, còn người kia bảo mọi thứ đều tồi. Kết thúc các cuộc tranh
luận, phần thắng thường thuộc về người lạc quan.
 Truyện về người vô tội bị nạn: được xác định niên đại vào thời Kassit (thế kỷ XV XII TCN) chịu ảnh hưởng lớn của các bài tụng ca và đặc biệt của các bài thơ sám hối,
nội dung là khát vọng tìm ra nguyên nhân những tai ương, mong muốn hiểu được tại
sao con người trở nên bất hạnh, mô tả thần linh “xa lạ với con người, đỏng đảnh và
khó hiểu”.
7. Cuộc đối thoại bi quan:
Gần suốt văn bản, người hầu chỉ thuận ý chủ mà đáp:
“Nô bộc, hãy nghe đây
-Vâng, thưa ngài, tôi xin nghe
Ta muốn yêu một cô gái
-Vâng, yêu đi, thưa ngài hãy yêu đi
Khi yêu một cô gái, người ta quên mọi muộn phiền...
À không, nô bộc, ta không yêu một cô gái đâu
-Đừng yêu, thưa ngài, đừng yêu làm gì.
Đàn bà là một giếng sâu
Đàn bà là lưỡi dao thép sắc ngọn
Cắt cổ đàn ông như chơi.”
Nhưng bất ngờ, vào phần cuối của tác phẩm, lời của người hầu bỗng trở nên độc lập và
kiên định:
“Nô bộc, hãy nghe đây
-Vâng, thưa ngài tôi xin nghe
Vậy thì cái tốt đẹp là gì vậy?
-Là thế này, hãy đập gãy cổ tôi đi
7



Và đập gãy cả cổ của ngài nữa
Rồi đem vứt cả hai xuống sông
Đó chính là điều tốt đẹp
Có ai cao đủ để vươn tới trời?
Và ai lớn đủ để ôm choàng mặt đất?”
Có lẽ trước cả Hamlet, người hầu trong tác phẩm này đã đặt ra cho nhân loại câu hỏi:
Mục đích của đời sống là gì?
8. Văn xuôi Ai Cập:
 Người bị đắm tàu: câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất về những chuyến phiêu lưu
huyền thoại trên biển. Nhân vật chính lên đường để đi đến các mỏ của pharaoh trên
chiếc tàu với một đội thủy thủ dày dặn kinh nghiệm. Nhưng rồi khi bão nổi lên, con
tàu cùng cả đội thủy thủ đều chết. Chỉ mỗi người kể chuyện sống sót và bị trôi dạt tới
một hoàn đảo xa lạ, trên đảo này chàng đã có những cuộ phiêu lưu kì thú và sau đó là
cuộc hành trình hồi hương của chàng.
 Papyrus Westcar: bao gồm những câu chuyện kể trên một cốt truyện chung pharaoh
Khufu của vương triều IV, buồn chán và nói với các con trai rằng ngài muốn được
nghe họ kể những câu chuyện đời xưa.
 Truyện về Neferkar và viên tướng Sisin: chuyện kể về thời kỳ trị vì của pharaoh Peni
II vương triều VI, cuối thời Cổ Vương quốc, phê phán gay gắt sự bất công, bất bình
đẳng bao trùm trong triều đình.
 Huyền thoại về công chúa xứ Bakhtan: kể về những sự kiện xảy ra vào thời kỳ của
Ramses II (thế kỷ XIII TCN), bức tượng Honsu kì diệu đã chữa được căn bệnh nan y
của công chúa xứ Bakhtan và trở vể kinh thành Thebes trong vinh quanh.
 Cuộc phiêu lưu của Un-Amon: là tác phẩm văn học thời kỳ Tân Vương quốc, một câu
chuyện nổi tiếng của chàng trai Un-Amon về chuyến phiêu lưu của mình đến Bible,
chứa đựng nhiều thông tin thú vị về những xứ sở mà Un-Amon đã đến, về quan hệ
của họ đối với Ai Cập, về tình hình chính trị ở bản thân Ai Cập, và một số vấn đề
khác.

 Những truyền thuyết về Petubast: những huyền thoại được lịch sử hóa với nhiều tình
tiết có thực về Petubast, vị vua trong thời kỳ bị người Assyria xâm lược.
 Truyện về Haemuas (hay Truyện về những quan tư tế Memphis): Haemuas là một
nhân vật lịch sử, con trai trưởng của Ramses II. Trong tác phẩm, haemuas hiện diện
như một quan tư tế được tôn vinh nhờ học bác uyên thâm.
 Truyện về hoàng tử phải chết: câu chuyện về chàng hoàng tử đã bị các thần linh định
trước sẽ phải chết bởi cá sấu, rắn hay chó. Pharaoh cha chàng nuôi dưỡng con trai ở
một nơi riêng được bảo vệ đặc biệt. Nhưng cậu bé lớn lên và một lần trèo lên mái nhà
trông thấy một người có con chó. Chàng cũng muốn tậu được một con chó, và yêu cầu
của chàng được thực hiện. Sau đó chàng lên một cỗ xe cùng với con chó đi đến xứ
Nakharina. Vua xứ đó có con gái sống trong tòa tháp cao ba mươi sáu mét. Nhiều
người là con trai các quý tộc địa phương cầu hôn với nàng, và vị vua hứa gả con gái
cho ai có thể nhảy lên tới cửa sổ phòng nàng. Không ai làm được điều đó. Thế là xuất
8


hiện chàng hoàng tử Ai Cập, mặc dù còn rất mệt vì đi đường xa, nhưng chàng đã đạt
được điều mà những người khác không thể. Trở thành phò mã của vua xứ Nakharina,
chàng kể cho người vợ trẻ rằng chàng bị định trước phải chết vì cá sấu, rắn hoặc chó.
Sự cảnh giác của người vợ đã cứu chàng thoát khỏi rắn, và nàng thuyết phục chàng
giết chết con chó, nhưng chàng từ chối. Sau đó hoàng tử gặp cá sấu và trò chuyện với
nó, kết truyện bị thất truyền.
 Papyrus Rylands IX: bản papyrus có chiều dài 45 mét được viết trên cả hai mặt, trong
đó kể lại chuyện gia đình một viên quan tư tế ở thành phố Tayudji. Câu chuyện chứa
đầy những chi tiết đời sống chân thực, tương tự như truyện về Sinuhe hay truyện về
Un-Amon, và không hề mang bất kỳ yếu tố huyền thoại hay siêu nhiên nào.
 Ký lục Demotic: thuộc thế kỷ III TCN, nội dung của tác phẩm là những câu cách của
một nhà tiên tri, mỗi câu đều có kèm theo một lời giải thích.
9. Văn xuôi Lưỡng Hà:
 Truyện Adapa, Truyện Etana: cùng với Sử thi Gilgamesh tiêu biểu cho các tác phẩm

văn học về người trần trong văn học Babylon, trong đó con người được khắc họa như
những nhân vật sử thi anh hùng.
 Trường ca tự sự: mang nội dung lịch sử, kể về cuộc đời của các nhân vật lịch sử khác
nhau, trong đó có các vị vua Sumer. Tiêu biểu là tác phẩm Trường ca về Sargon kể về
sự ra đời của Sargon (có nhiều điểm tương đồng với câu chuyện về thánh Moses) và
sự lên ngôi của Sargon nhờ sự giúp đỡ của nữ thần Ishtar.
 Biên niên sử Babylon: bắt đầu từ năm 745 TCN và được viết đến thời Ashshurbanipal
(thế kỷ VII TCN), bao gồm nhiều tác phẩm nhỏ: Biên niên sử Gedda kể về sự sụp đổ
của Assyria (626 – 605 TCN), Biên niên sử Uaizman tiếp nối Biên niên sử Gedda và
được viết đến giữa thế kỷ VI TCN, Biên niên sử Nabonid-Kir mô tả cuộc chinh phục
Babylon của người Iran và một đoạn của Biên niên sử thời đại Selevkid.
10. Enuma Elish: Enuma Elish được tìm thấy trên các bản đất sét có niên đại từ TK VII TCN.
Trường ca có nhân vật trung tâm là Marduk, vị thần chủ của Babylon. Trích đoạn tác
phẩm khi các thần linh trẻ tuổi tôn xưng Marduk là thần chủ:
“Kể từ ngày hôm nay
Lệnh ngài không thể đổi
Lời nào ngài thốt ra
Cũng hóa thành sự thật
Bước ngài đi tới đâu
Không thần nào dám vượt
Ngài là vua vũ trụ
Chúng tôi cùng xưng hô…”
Enuma Elish có thể được xem như một huyền thoại về thiên nhiên, trong đó Marduk –
con trai thần mặt trời – là đấng sang tạo, đem lại trật tự và văn minh đánh bại các thế lực
hỗn mang nguyên thủy.
11. Tụng ca Ai Cập:
9


 Tụng ca dâng Hapi (thần sông Nile) : Một số dị bản của tụng ca này còn truyền đến

nay thuộc thời đại Tân Vương quốc, nhưng đó chỉ là các bản thời sau chép lại. Bài
tụng ca gây sự chú ý ở hai phương diện: thứ nhất, trong đó phản ánh rất sinh động thái
độ của người Ai Cập đối với con sông vĩ đại không chỉ đã sinh ra đất nước Ai Cập, mà
còn hàng ngàn năm nuôi dưỡng dân cư trên đất nước đó; thứ hai, những cảm xúc đó
được thể hiện trong tác phẩm dưới hình thức mang tính nghệ thuật rõ rệt. Tụng ca
không phải là bài cầu nguyện tập hợp các lời thỉnh cầu, mà là sự thể hiện niềm vui
sướng và biết ơn đối với thiên nhiên vĩ đại đã ban tặng sự sống cho đất nước và dân
chúng. Tụng ca mô tả một cách thi vị sức mạnh hồi sinh của nước và của lũ sông Nile,
niềm hân hoan của dân chúng trong thời gian nước lũ, những mối nguy hiểm đe dọa
đất nước nếu như nước lũ đến chậm, v.v...
 Tụng ca thần Osiris: dược khắc trên các bia mộ thời kì Trung Vương quốc, thời đại
thần Osiris bắt đầu được thờ cúng rộng rãi. Việc thờ cúng thần Osiris đã “bình đẳng
hóa” quyền được sống bất tử sau khi sang thế giới bên kia của người Ai Cập, chỉ cần
một tấm bia mộ được khắc những lời cầu nguyện tới thần Osiris có thể đảm bảo một
cuộc sống vĩnh hằng sau khi qua đời.
 Tụng ca Aton – Amon: Tụng ca thần Aton của pharaoh Akhnaton (khoảng giữa thế kỉ
XIV TCN, ông đã thực hiện một cuộc cải cách tôn giáo nổi tiếng trong lịch sử Ai Cập,
thay thế vị trí thần chủ của Amon bằng Aton) được xem như một tác phẩm thi ca tôn
giáo đích thực. Tụng ca không nhắc đến những thần linh khác, đề cao vị trí độc tôn
của Aton. Theo tụng ca, Aton là thần của người Ai Cập và của các dân tộc khác, một
vị thần ân nhân, cội nguồn của ánh sáng thể chất và ánh sáng tinh thần. Sau khi
Akhnaton và người kế vị của ông qua đời, việc thờ cúng Aton cũng bị bãi bỏ và Amon
trở lại với vai trò thần tối cao của Ai Cập, các tụng ca thần Amon thường có nhiều nét
tương đồng, có thể xem như kế thừa tụng ca về thần Aton.
12. Bài cầu nguyện vươn tay lên thần Ishtar:
“Cầu nguyện Người, sao cho Người dễ dàng nghe thấy!
Nhìn thấy Người là hạnh phúc, ý chí của Người là ánh sáng!
Hãy thương lấy con, hỡi Ishtar, chia phần cho con!
Hãy dịu dàng nhìn con và nhận lấy lời cầu nguyện!
Hãy chọn đường chỉ lối cho con!

Gương mặt Người con đã nhận ra – hãy ban tặng phước lành!
Gánh nặng của Người con đã kéo lê – đã xứng được nghỉ chăng?
Con đợi lệnh của Người – xin hãy gia ân!
Vẻ lộng lẫy của Người con gìn giữ –
hãy dịu dàng thương xót thân con!
Con kiếm tìm ánh sáng của Người – mong đời mình tươi sáng!!
Nguyện cầu sức mạnh toàn năng của Người – và con sẽ ở lại với thế gian!”
13. Ai ca Lưỡng Hà:

10


 Thành Lagash bị tàn phá: là bài ai ca cổ nhất được tìm thấy, tác phẩm kể ra những lần
thành Lagash bị tàn phá và nguyền rủa những người Ummu.
 Lời nguyền cho Akkad: kể chuyện nữ thần Ishtar đem lòng yêu một người bình
thường là Sargon và biến chàng thành một vị vua vĩ đại. Đất nước dưới sự trị vì của
Sargon trở nên thịnh vượng. Nhưng sau đó cháu của chàng là Naram-Suen đã làm ô
uế đền thờ Enlil và xúc phạm thần linh, vì vậy đất nước phải chịu một cuộc xâm lăng
tàn khốc của bộ lạc người miền núi.
 Người đàn ông và vị thần của riêng mình: kể về một người đàn ông hiền lành, tử tế
và thông minh, bỗng nhiên bị tai hoạ giáng xuống. Người này cầu xin và than thở với
vị thần hộ mệnh của mình. Đó là một trong những tác phẩm triết lý tôn giáo sớm nhất,
trong đó đặt ra những vấn đề về nguyên nhân của những đau khổ, về sự bất công trên
đời và về sự mù quáng của số phận khi bắt người có phẩm giá phải chịu thử thách.
14. Thơ tình yêu Ai Cập: Tình ca Ai Cập thường được hát theo tiếng đàn và một số nhạc khí
khác, trong các tác phẩm, tình nhân thường gọi nhau là “anh trai” và “em gái” vì họ
thường đúng là an hem ruột của nhau, bởi tình yêu và hôn nhân giữa họ được xã hội thời
đó công nhận. Nhiều bài thơ tình yêu bộc lộ tình cảm nồng nàn, mãnh liệt không khác thơ
tình hiện đại.
Lời của chàng trai:

“Tình yêu đưa tôi đến bên bờ nước
Con cá sấu nằm trong bóng lá
Tôi vẫn lao xuống dòng
Can trường vượt song
Nước dưới chân tôi như là mặt đất
Tình yêu hóa tôi phi thường
Nàng như cuốn sách thần chú
Cho tim tôi đầy hân hoan
Ôm nàng trong tay, tôi tưởng
Như mình lạc xứ trầm hương
Hôn nàng, bờ môi hé mở
Như say mà chẳng rượu nồng
Làm nữ nô lệ da đen hầu hạ bên nàng
Là điều tôi ước muốn
Mà ngắm nàng, màu sắc của đôi chân…”
Lời của cô gái:
“Tôi nghe giọng con chim én nói
Đất đang mọc nắng, nàng đi đâu?
Chim ơi, đừng trêu tôi chứ!
Tôi đi tìm người anh tôi yêu
Trái tim tôi như nghe chàng nói
Ta chẳng xa nàng được đâu
Ta nắm tay em và sẽ
Theo em bất cứ nơi nào
11


Tim tôi chàng chẳng làm đau
Chẳng hóa tôi thành bậc nhất
Trong hàng con gái hay sao?”

15. Thơ tình yêu Lưỡng Hà:
 Trích đoạn Cuộc đối thoại tình yêu:
“- Hãy thôi đi những lời trách móc!
Chẳng đã nhiều cãi cọ lắm rồi sao?
Lời nói là lời nói!
Ta không đổi thay quyết định của mình!
Người phục tòng phụ nữ
Sẽ gặt hái bão giông!
Kẻ nào không hung hợn,
Chẳng phải là đàn ông!
- Hãy đứng vững, hỡi sự thật của em,
Trước nữ thần Ishtar!
Hãy chiến thắng, hỡi lòng chung thủy của em,
Trước những lời đàm tiếu nhơ bẩn!
Dịu dàng và nhu mì
Phục vụ người mình yêu
Nanaya đã mãi ra lệnh thế!
Nơi nao chia uyên rẽ thúy?

- Ta trở về và ta trở về!
Lần thứ ba với nàng ta nhắc lại:
Đừng hy vọng ta đổi thay quyết định!
Hãy đứng bên cửa sổ
Mà bắt lấy sự ve vuốt của ta!
- Đôi mắt em sao mà mỏi mệt,
Sao em mỏi mệt ngóng trông chàng!
Em luôn tưởng như chàng đi ngang qua!
Ngày đã hết – đâu người em yêu quý?”
16. Tác phẩm chính luận Ai Cập: các tác phẩm này đặc biệt xuất hiện vào thời kỳ lịch sử
chuyển giao giữa hai thời đại Cổ Vương quốc và Trung Vương quốc, thời đại đầy những

cuộc biến động chính trị dẫn đến những biến động xã hội nghiêm trọng, làm uy tín của
chính quyền nhà vua bị giảm sút đáng kể. Để nắm lại được chính quyền, các vua của
vương triều XII phải dựa vào không chỉ sức mạnh vũ khí, mà còn sức mạnh lòng tin,
chứng tỏ cho dân chúng rằng họ không phải là những kẻ cướp đoạt ngai vàng, mà là
những người đã cứu đất nước khỏi tình trạng bạo loạn, tái lập trật tự, quan tâm đến phúc
lợi của nhân dân.

12


 Tiên tri của Nerferty: tác phẩm là tuyển tập những lời tiên tri của nhà thông thái
Nerferty theo yêu cầu của pharaoh Snofru vương triều IV, người kế vị Khufu.Theo đó,
Ai Cập sẽ bước vào thời kì khủng hoảng chưa từng thấy, sẽ có những năm khủng
khiếp khi nước sông Nile cạn và trở thành đất khô, sau đó đến nạn đói, bắt đầu thời kỳ
loạn lạc, mọi người trở nên thù hằn và sợ hãi nhau, từ phía đông bọn người du mục
châu Á xâm lược, chúng sẽ áp bức dân chúng, v.v.. Thế là ở miền nam xuất hiện một
người tên Ameni từ Thượng Ai Cập tới. Ông sẽ lên ngôi, sự mạnh mẽ và công minh
của ông sẽ tái lập trật tự trong nước, trừng trị kẻ nổi loạn, đuổi bọn xâm lược châu Á,
và đất nước sẽ bừng dậy. Ameni chính là tên rút gọn của Amenemkhat I, người lập ra
vương triều XII. Để củng cố uy tín của vương triều mới, người sáng lập vương triều
phải được xem không như một trong số nhiều kẻ tiếm đoạt ngai vàng trước đó, mà
như một vị ân nhân cứu tinh với sự xuất hiện đã được tiên tri từ thời xưa.
 Châm ngôn Amenemkhat I: là lời của pharaoh Amenemkhat I để lại cho con trai
Senusert - người đồng cai trị và kế vị. Tuy là mộ tác phẩm châ ngôn, nhưng nội dung
giáo huấn trong đó rất ít, và thực chất nó là tự truyện của nhà vua được nhà thông thái
nổi tiếng Ahtoy trình bày sau khi vua chết. Tác phẩm được viết ra nhằm hướng tới độc
giả quảng đại khi dựng lên hình tượng vị vua đầy nhân tính, quan tâm đến nhân dân
và bị rơi vào tay những triều thần phản bội. Hình tượng như vậy không thể không
làm người Ai Cập có thiện cảm với vị vua đã lập nên vương triều XII và truyền ngôi
cho con trai mình là Senusert I.

 Truyện Sinuhe:là một trong những kiệt tác của văn học Ai Cập cổ đại. Về hình thức,
tác phẩm là một văn bia tự truyện thông thường, nhưng khuôn khổ lớn hơn rất nhiều
và nổi bật những phẩm chất nghệ thuật cao. Những trang mô tả sống động, hồn nhiên
nhưng cũng không kém phần tinh tế. Truyện mang tính tâm lý sâu sắc ở nhiều đoạn,
đôi khi lại rất mộc mạc và trữ tình. Nội dung của tác phẩm là cuộc đời của nhân vật
Sinuhe – người vốn là một triều thần dưới thời pharaoh Amenemkhat I, từ khi Sinuhe
hộ tống con trai của Amenemkhat I, người đồng cai trị và là vua Senusert I tương lai,
trong cuộc chinh phạt chống lại bộ lạc người Libi Tjehenu, sau đó ông phải tha hương
do hàng loạt biến cố và hiểu lầm, đến tận khi ông hồi hương với tư cách là một người
giàu có và được trọng vọng.
 Hùng biện của Ipuwer: trong tác phẩm, nhà thông thái Ipuwer mô tả tình cảnh khốn
khổ của đất nước cho vị vua khuyết danh và triều thần của ông nghe, khắp nơi là tình
trạng vô chính phủ, lộng quyền của giới quý tộc, dân đen phá hoại lăng mộ của nhà
vua, chiếm lĩnh kinh đô, gây bạo loạn chống lại chính quyền nhà vua, người có của
trở nên trắng tay, kẻ cơ hàn thành ông chủ v.v.. Ipuer buộc tội nhà vua để xảy ra mọi
chuyện như vậy, trách vua yếu hèn, không cương quyết. Tác phẩm là một bức tranh
mô tả bạo lực đảo lộn xã hội từ quan điểm của giới quý tộc và phản ánh hiện thực lịch
sử.
17. Sử thi thần thoại và sử thi anh hùng Lưỡng Hà:

13


 Emmerkar và vị tư tế thành Arrata, Enmerker và Epsukhenshdanna: Cả hai tác phẩm
đều kể về cuộc tranh cãi giữa vua thành Uruk là Enmerkar và quan tư tế Aratta, trong
đó Enmerkar và vị tư tế thành Arrata là một trong những tác phẩm lớn nhất của văn
học Sumer còn lưu được đến nay, kể chuyện chúa tể của Uruk là Enmerkar muốn xây
đền thờ nữ thần Inanna bèn thu gom của dân thành Aratta xa xôi qua “bảy dãy núi” (có
lẽ là trên cao nguyên Iran) một lượng đồ cống nộp rất lớn, và theo lời khuyên của
Inanna đã cử người chạy tin đến Aratta yêu cầu Aratta phải quy phục Uruk.

 Loạt 8 tác phẩm Inanna và quái vật trên núi Ebekh, Ninpurta và quái vật Asag,
Gilgamesh và con bò của trời, Lugalbanda và núi Khurrum, Gilgamesh và cây
Khurupiu, Gilgamesh và núi Bất tử, Lugalbanda và đại bàng Anzud, Enkidu và âm
phủ: tất cả các tác phẩm đều có liên quan chặt chẽ với thần thoại. Trong tất cả các tác
phẩm đều hiện diện một lượng lớn các mô típ tiêu biểu cho truyện cổ tích thần kỳ trên
thế giới, chúng đều có chung kiểu mô hình cốt truyện, trong đó những yếu tố chủ yếu
nhất là cuộc phiêu lưu của nhân vật đến một xứ sở khác hay xuống âm phủ, những thử
thách đối với nhân vật, nhân vật thường phải chiến đấu với quái vật hay phải chặt một
cây thần. Trong đó nổi bật là Truyền thuyết về Lugalbanda và đại bàng Anzud.
Lugalbanda chính làngười cha huyền thoại của Gilgamesh, truyền thuyết thuật lại hành
trình Lugalbanda đi tìm đại bàng Anzud để sở hữu sức mạnh thần kỳ và sau đó trở về
chinh phục được thành Aratta.
18. Sử thi Gilgamesh: nội dung chính:
Gilgamesh xuất hiện trong tác phẩm với sự oai nghiêm, hùng dũng và khí thế hiên
ngang không kém Odyssey, Hercules hay bất cứ anh hùng nổi tiếng nào khác trong văn
chương nhân loại. Chàng là chủ nhân của thành Uruk, là hình mẫu con người vượt lên
trên giống loài mình để sánh ngang hàng với các vị thần linh, với vóc dáng hoàn hào,
sức khỏe hơn người, trí tuệ phi phàm.
“Chư thần cho chàng một vóc thân hoàn hào
Mặt trời ban vẻ đẹp tuyệt vời
Bão tố tặng thêm lòng dũng cảm
Một phần thần linh, hai phần người.”
Chính vì thế mà chàng trở nên kiêu ngạo và tự phụ, cai trị bằng sức mạnh uy quyền.
Chàng biến các chàng trai thành nô lệ của mình và chiếm đoạt bất cứ cô gái nào chàng
muốn. Dân chúng thành Uruk khiếp sợ trước sự tàn bạo của chàng đã kêu cứu các vị
thần linh. Nữ thần sáng tạo Ururu bèn lấy đất sét tạo ra anh hùng Ekindu, nửa phần thú
và nửa phần người, biến chàng thành đối trọng với Gilgamesh.
“Anh chính là niềm thơ dại
Từng có trong con người
Vẫn còn xa lạ lắm

Với những khu vườn đời
Anh vẫn ra bờ nước
Cùng dã thú đùa chơi
Và vẫn cùng ăn cỏ
14


Với hươu nai trên đồi.”
Gilgamesh xem Ekindu như một mối đe dọa, đã lập mưu đưa Shamhat, một kĩ nữ đền
thờ, đến thu phục Ekindu.
“Nàng không thẹn thùng tìm đến
Mình trần dân hiến cho anh
Nghệ thuật ái ân nàng biết
Đem truyền giữa chốn rừng xanh
Bảy sáu đêm ngày mê mải
Nằm bên cô gái kinh thành
Anh quên nhà mình trên núi
Và muôn thú bạn thân quen”
Sau đó Eknidu theo nàng kì nữ về kinh thành Uruk, tiếp xúc với con người, anh dần dần
được thuần hóa và mất đi bản năng hoang dã trước đây của mình. Một lần anh đã ngăn
cản Gilgamesh chiếm đoạt một cô dâu trong đêm tân hôn của cô, họ chiến đấu dự dội,
ghì lấy nhau như những con bò tót. Tuy Gilgamesh chiến thắng sau đó nhưng chàng
cũng không khỏi khâm phục sức mạnh và tài năng của Enkidu. Họ trở thành đôi bạn
thân và cùng vào rừng Bách Hương tiêu diệt quái vật Humbaba, giải cứu nữ thần Ishtar,
họ đã chiến thắng trở về trong tột đỉnh vinh quang. Nhưng tai họa lại ấp đến đầ hai
người anh hùng, nữ thần Ishtar đã động lòng trước Gilgamesh và ngỏ lời kết duyên với
chàng, nhưng Gilgamesh từ chối vì biết rõ nữ thần là một kẻ bạc ác, lẳng lơ.
“Mở đôi mắt đẹp, Ishtar đắm đuối
Đi theo em chàng hỡi làm chồng
Cho em nếm ngọt ngào hạnh phúc

Hai ta cùng kết mối tơ hồng
Giáp trụ, xa mã là vàng ngọc
Giàu sang, quyền thế hưởng chung.”
Nữ thần căm giận đã xin cha mình là chúa tể chư thần Anu trừng phạt bằng cách phái
một con bò tót từ thiên đàng xuống tấn công Gilgamesh, nhưng Enkidu đã xé xác nó,
khiến bản thân mình phải gánh tai họa. Sau một cơn ác mộng, một cơn bệnh đã tấn công
Enkidu trong mười hai ngày đêm và cuối cùng chết đi trong vòng tay của người bạn
Gilgamesh. Gilgamesh – con người luôn tự cho bản thân mình là vô địch lần đầu tiên
phải đối mặt với cái chết – một kẻ thù không thể bị đánh bại. Chàng khóc thương cho
người bạn thân thiết:
“Sáu ngày sáu đêm, tôi khóc
Người bạn tôi yêu đã hóa bùn
Tôi sẽ như anh nằm xuống đất
Không bao giờ đứng nữa trên chân?
Ôi Enkidu, chiếc rìu bên tôi
Là sức mạnh của bàn tay tôi
Là chiếc khiên và thanh kiếm
Là áo bào vinh hiển
Là báu vật huy hoàng của tôi
Ngọn núi ta cùng lên
Đang run rẩy khóc anh
Bờ sông ta cùng dạo
15


Đang cuồn cuộn khóc anh.”
Chính niềm cay đắng do cái chết của bạn đã khiến Gilgamesh quyết tâm lên đường tìm
kiếm cuộc sống vĩnh cửu. Nhờ sự giúp đỡ của nữ thần Siduri, Gilgamesh tìm gặp được
người trần duy nhất được thần linh ban cho sự bất tử - Utnapishtin, nhưng ông cũng
không giúp gì được cho chàng vì sự bất tử của ông cũng là do ý muốn của các vị thần.

“Có ngôi nhà nào xây cho vĩnh viễn?
Con dấu nào mãi mãi chẳng mờ phai?
Gia tài nào vô tận?
Và cả nỗi căm thù
Muôn đời không dứt hận?
Có dòng sông nào nổi sóng
Có dòng sông nào dâng nước đến thiên thu?
Anunnaki, thần định mệnh
Đã bày ra sinh tử tự lâu rồi
Và cái chết thần không tiết lộ
Dành cho con người.”
Nhưng ông đã tiết lộ cho chàng một bí mật về một loài cây thần có thể giúp con người
lấy lại tuổi thanh xuân đã qua.
“Có một cành cây lạ
Mọc dưới đáy nước sâu
Như cây hồng gai nhọn
Sẽ làm tay ta đau
Nếu mà ai hái được
Sẽ đổi ngay tuổi già
Lấy lại ngày trẻ tuổi
Trở lại thời gian qua.”
Mững rỡ, Gilgamesh liền lặn xuống đáy đại dương để tìm loài cây thần, chẳng may
chàng lại sơ ý để một con rắn cướp mất. Chàng trở về quê hương trong tuyệt vọng
nhưng dù không có được sự bất tử, chàng vẫn không đánh mất sự tôn kính và ngưỡng
mộ của dân chúng. Cuối cùng, người anh hùng cũng không tránh khỏi số phận nghiệt
ngã của người phàm, cái chết đến với chàng theo mệnh lệnh của Enlil.
“Anh hùng với hiền nhân,
Cũng như vầng trăng mới
Đêm đêm lại khuyết dần
Ôi Gilgamesh

Đây là ý nghĩa
Từ giấc mộng của ngươi
Ngươi bẫn là vua chúa
Quyền uy một cõi đời
Nhưng cuộc sống vĩnh cửu
Chẳng thể dành cho ngươi
Đây chính là định mệnh
Quên đau buồn đi thôi.”
Nhưng Gilgamesh vẫn trở thành bất tử với tư cách một con người, chàng mất đi nhưng
câu chuyện về chàng vẫn trường tồn cũng nhân loại. Gilgamesh đến nay vẫn được xem
16


là sử thi đầu tiên của con người, đã năm ngàn năm trôi qua, những tư tưởng và băn
khoăn của Gilgamesh về sự sống và cái chết, về vĩnh hằng và phù du, về được và mất đã
trở thành những băn khoăn vĩnh cửu của nhân loại.
“Cuộc sống vốn ngắn ngủi
Khoảnh khắc đã vụt trôi
Thần linh đã sáng tạo
Con người phải chết thôi
Không cưỡng được số mệnh
Thì cứ vui yêu đời
Rượu nồng ta nhấp cạn
Đến khi nào mềm môi
Áo đẹp ta cứ mặc
Vợ hiền con ngoan cười
Đó chính là những việc
Duy nhất trong cuộc đời.”
Về mặt giá trị văn học, Sử thi Gilgamesh có ảnh hưởng lớn đến rất nhiều tác phẩm văn
học sau này, nhiều mô típ quen thuộc chúng ta dễ dàng bắt gặp trong văn học thế giới

đều khởi nguồn từ Sử thi Gilgamesh: nhân vật nửa thần nửa người hoặc nửa thú nửa
người, quái vật làm hại dân chúng và bắt cóc người đẹp, nạn đại hồng thủy, cuộc hành
trình tìm kiếm sự bất tử, v.v...

17



×