Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Trình bày thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới ( 1986 nay ).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.38 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---  ---

BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN : KINH TẾ VIỆT NAM

ĐỀ TÀI : Trình bày thực trạng tăng trưởng và chất lượng
tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới ( 1986 - nay ).

Hà Nội – 11/2019


MỤC LỤC


Trình bày thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam
thời kỳ đổi mới ( 1986 - nay ).

1.1. Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế
Theo Tổng cục Thống kê, kinh tế Việt Nam những năm đầu giải phỏng tăng
trưởng thấp và thực chất không có phát triển. Nền kinh tế không có tích luỹ từ nội bộ vì
làm không đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ bằng 80 - 90% nhu cầu sử dụng.
Thời kỳ này siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong thời kỳ 1976-1985 chỉ số giá
bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con số và dao động ở mức 1992%. Năm 1986, lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7%. Đời sống nhân dân
hết sức khó khăn thiếu thốn.
Sau quyết định cải cách và mở cửa từ năm 1986, Nhà nước Việt Nam chính thức

khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986: chuyển đổi từ cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa


phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập quốc tế. Kinh tế dần phục hồi
và có những bước phát triển nhất định.
Nếu như giai đoạn 1976-1980, bình quân một năm tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng
1,4%, thu nhập quốc dân tăng 0,4% thì sau đổi mới, GDP Việt Nam luôn tăng trưởng
vượt bậc với 7-8%/năm.
Giai đoạn 1986-1990, GDP tăng trưởng trung bình 3,9%/năm. Giai đoạn 19911995 GDP bình quân của cả nước tăng 8,2%/năm. Giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng GDP
đạt 7%. Bình quân từ năm 1991-2000 GDP tăng 7,6%/năm. Giai đoạn từ 2001-2010 GDP
tăng bình quân 7,26%/năm. Giai đoạn 2011-2015 đạt khoảng 6%/năm.
Tính chung cho cả giai đoạn GDP tăng bình quân gần 7%, trong đó có tới 20 năm
liên tục GDP tăng bình quân 7,43%. Đến năm 2016, quy mô nền kinh tế đã đạt
khoảng 217 tỷ USD.


10 năm đầu (1986 - 1995) là giai đoạn chuẩn bị và đổi mới một cách từ từ
theo phương thức "vừa làm, vừa học hỏi, rút kinh nghiệm". Đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh,tạo tiền đề cho
giai đoạn phát triển mới. Giai đoạn 1986 – 1991: đây được xem là giai đoạn
phục hồi của nền kinh tế với mức tăng trưởng trung bình 4,7%/năm. Năm
1992 – 1995 giai đoạn tăng trưởng nhanh với mức tăng trưởng bình quân
8,7%/năm mà đỉnh cao là năm 1995 với GDP tăng 9,5%.
3


Theo Tổng cục Thống kê

Kế hoạch 5 năm 1986-1990 đã chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ
chế quản lý mới, thực hiện quá trình đổi mới đời sống kinh tế xã hội và giải phóng
sức sản xuất.
Trong 5 năm 1991-1995, nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương
đối cao liên tục và tương đối toàn diện,làm tiền đề chuẩn bị cho công cuộc công

nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.


10 năm tiếp theo (1996 - 2005) là giai đoạn đổi mới theo chiều sâu và tương
đối toàn diện.
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực (1997) và suy thoái kinh tế Mỹ
(năm 2001) đã tác động nhất định đến tăng trưởng kinh tế của nước ta, mặc
dù lúc đó độ mở của nền kinh tế Việt Nam chưa rộng.

Theo Tổng cục Thống kê

4


Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ 1992-1997 đạt 8,77%/năm .Thời kỳ
1998- 2001 chỉ tăng 6,05%/năm .
Việt Nam đứng vững trong cuộc khủng hoảng tài chính của khu vực Đông
Nam á và hồi phục lại trong giai đoạn 2001-2005 với mức bình quân 7,65%.


Giai đoạn 2006 – nay :
Tăng trưởng kinh tế đã vượt mục tiêu đề ra (8%). Đây là năm thứ 25 tăng
trưởng kinh tế Việt Nam đạt liên tục. Vượt qua mức kỷ luật 23 năm Hàn
quốc đã đạt được.

Theo Tổng cục Thống kê

Từ năm 2008- 2010, nền kinh tế bắt đầu một chu kỳ suy giảm tăng trưởng do
chịu tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng năm 2008
giảm còn 6,31% so với 8,46% năm 2007, năm 2009 chỉ đạt 5,32%. Năm 2010, nền

kinh tế đã từng bước vượt qua khó khan và có sự phục hồi, tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao hơn mức của năm 2008, đạt 6,78%.
Kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu
của nền kinh tế cùng song hành phát triển. Tăng trưởng kinh tế năm 2018 đạt
7,08% so với năm 2017 - mức tăng cao nhất 11 năm qua. Chất lượng tăng trưởng
và môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, doanh nghiệp thành lập mới tăng
mạnh. Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng giảm dần. An sinh xã hội
được quan tâm thực hiện.
5


1.2. Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong nền kinh tế

Tốc độ tăng trưởng GDP của các nhóm ngành
kinh tế Việt Nam, 1991-2010

Đơn vị: %
Năm

Nông, lâm nghiệp và thủy
sản

Công nghiệp và
xây dựng

Dịch vụ

1991
1992
1993

1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009

2,18
6,88
3,28
3,37
4,80
4,40
4,33
3,53
5,23
4,63
2,98
4,17
3,62

4,36
4,02
3,69
3,76
4,68
1,82

7,71
12,79
12,62
13,39
13,60
14,46
12,62
8,33
7,68
10,07
10,39
9,48
10,48
10,22
10,69
10,38
10,22
5,98
5,52

7,38
7,58
8,64

9,56
9,83
8,80
7,14
5,08
2,25
5,32
6,10
6,54
6,45
7,26
8,48
8,29
8,85
7,37
6,63

2010

2,78

7,70

7,52
Nguồn : Tổng cục Thống kê

6


a. Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp tại Việt Nam tăng trưởng liên tục trong cả
giai đoạn 1991 – 2008, với tốc độ bình quân 4%/ năm. Giá trị sản xuất của cả
ngành luôn tăng trưởng vượt mức đặt ra trong kế hoạch 5 năm 1991-1995 và 19962000. Trong thời kỳ 2001-2008, mặc dù nông nghiệp gặp khó khăn do hạn hán, sâu
bệnh, bão lụt,…nhưng nhờ thủy sản tăng khá ( trung bình 14,1%/năm ) nên tính
chung tăng trưởng của nhóm ngành vẫn đạt bình quân 4,0%/ năm. Năm 2009, sản
xuất của ngành gặp khó khăn nên tốc độ tăng trưởng của ngành có sụt giảm, chỉ
con 1,82%. Năm 2010, cả ba bộ phận của nhóm ngành này đã tăng trưởng 2,8% so
với năm 2009.
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là các ngành kinh tế quan trọng của
Việt Nam với sản lượng từ năm 2005 đến năm 2015 đều chiếm trên 1/6 tổng sản
phẩm quốc gia.

Nguồn : Tổng cục Thống kê

Theo công bố tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 của Tổng cục Thống kê,
năm 2018, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam tăng 7,08%, là mức
tăng cao nhất kể từ năm 2008 đến nay. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế,
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,76%, đóng góp 8,7% vào mức tăng
trưởng chung của nền kinh tế. Đây cũng là mức tăng trưởng cao nhất của khu vực
nông, lâm, thủy sản trong giai đoạn 2012-2018. Đây là kết quả khẳng định xu thế

7


chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp đã và đang phát huy hiệu quả, đặc biệt trong
lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
b. Ngành công nghiệp và xây dựng
Mục tiêu đề ra về công nghiệp-xây dựng cho thời kỳ 2011-2015 đều ở mức
khá cao so với kết quả thực hiện của thời kỳ 2006-2010, hoặc chủ yếu dựa vào kết
quả của năm xuất phát (năm 2010) với nhiều kết quả cao so với một số năm trước .

Năm 2010, GDP công nghiệp-xây dựng tăng 7,17%, cao nhất so với 2 năm
trước. Tỷ trọng trong GDP của công nghiệp-xây dựng đạt 41,64%, cũng là mức cao
nhất từ trước tới 2010. Tỷ trọng lao động đang làm việc trong nhóm ngành công
nghiệp-xây dựng và nhóm ngành dịch vụ (không có mục tiêu riêng, nên tác giả tính
bằng cách trừ đi mục tiêu cho nông, lâm nghiệp-thủy sản) năm 2010 đạt 50,5%,
cao nhất so với các năm trước.
Công nghiệp-xây dựng thời gian qua (2011 đến nay) đã đạt được một số kết
quả nhất định. Rõ nhất là tăng trưởng GDP do nhóm ngành công nghiệp-xây dựng
vẫn giữ được tốc độ cao hơn tốc độ tăng GDP của toàn bộ nền kinh tế (năm 2011
tăng 6,68% so với tăng 6,24%, năm 2012 tăng 5,75% so với tăng 5,25%, 6 tháng
2013 tăng 5,18% so với 4,9%, dự báo cả năm tăng 5,5% so với 5,4%, bình quân
trong 3 năm tăng 6% so với tăng 5,4%).
Trong ngành công nghiệp, tốc độ tăng của từng ngành công nghiệp có sự
khác nhau. Tăng trưởng của công nghiệp khai khoáng thấp nhất, chứng tỏ đó là kết
quả của chủ trương tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên và phù hợp với chủ
trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ số lượng sang chất lượng, từ chiều rộng
sang chiều sâu.
Công nghiệp chế biến - ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn ngành công
nghiệp, ngành đặc trưng nhất khi đạt được tỷ trọng lớn đến một mức nhất định mới
được gọi là nước công nghiệp - đã tăng cao hơn tốc độ chung của toàn ngành (năm
2011 tăng 9,51% so với 8,16%, 6 tháng 2013 tăng 5,83% so với 5,19%).
Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi đốt và điều hòa
không khí tăng khá cao (bình quân 3 năm tăng 10,2. Ngành cung cấp nước, hoạt
động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng khá (bình quân 3 năm tăng 8,97%).
Ngành xây dựng, ngành tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cho đất nước,
đã chuyển từ giảm (0,64% năm 2011) lên tăng (tăng 3,25% trong năm 2012 và tăng
5,09% trong 6 tháng đầu năm 2013).

8



Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành sản xuất và
lắp ráp ô tô, xe máy, thiết bị máy tính,.. đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng
của toàn ngành.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo tiếp tục là điểm sáng đóng góp chính cho tăng trưởng kinh tế năm 2018 với
mức tăng cao 12,98%, tuy thấp hơn mức tăng của năm 2017 nhưng cao hơn nhiều
so với mức tăng các năm 2012-2016, đóng góp 2,55 điểm phần trăm vào mức tăng
trưởng chung. Kết quả tăng trưởng cho thấy nền kinh tế đã thoát khỏi sự phụ thuộc
vào khai thác khoáng sản và tài nguyên khi năm 2018 là năm thứ ba liên tiếp công
nghiệp khai khoáng tăng trưởng âm (giảm 3,11%), làm giảm 0,23 điểm phần trăm
mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
c. Ngành dịch vụ
Ở Việt Nam, phát triển khu vực dịch vụ và xuất nhập khẩu về dịch vụ thời
gian qua đã đạt được một số kết quả tích cực. Tăng trưởng của khu vực dịch vụ từ
năm 2005 đến nay liên tục cao hơn mức tăng trưởng GDP. Trong thời kỳ 19911995, ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao ( tăng trưởng bình quân
8,6%/năm) nhưng giảm sút dần trong 5 năm 1996-2000 (5,7%/năm ), tuy nhiên lại
tăng trưởng từ 2001 đến nay. Trong 2 năm 2005-2006, GDP nhóm ngành dịch vụ
tăng trên mức 8% cao nhất tính từ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á, lần
đầu sau năm 1996 đã đạt cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế nên tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ có sự giảm
nhẹ, năm 2008 còn 7,37% và năm 2009 chỉ đạt 6,63%.

9


Theo Tổng cục Thống kê

Tăng trưởng dịch vụ còn cao hơn ngành công nghiệp- xây dựng. Bên cạnh
đó, tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực dịch vụ liên tục tăng lên: Năm 1990

là 15,8%, năm 1995 là 17,4%, năm 2000 là 21,8%, năm 2005 là 26,3%, năm 2010
là 29,6%, năm 2011 là 30,3%, năm 2012 là 31,4%.
Điểm đáng chú ý là xuất khẩu dịch vụ tăng liên tục, chỉ bị ngắt quãng vào
năm 2009 do khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Trong giai đoạn
2005- 2012, xuất khẩu dịch vụ đã tăng 2,2 lần, bình quân tăng trưởng 11,8%/năm.
Tốc độ này tương đối cao trong điều kiện Việt Nam mới hội nhập về lĩnh vực dịch
vụ.
Trong đó, xuất khẩu dịch vụ du lịch tăng với tốc độ cao nhất, năm 2012 đạt
18%, gần gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của khu vực dịch vụ. Tỷ
trọng xuất khẩu dịch vụ du lịch trong tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2012
tăng lên 70,2% so với mức 63,3% của năm 2011. Kết quả này là do lượng khách
quốc tế đến Việt Nam đạt kỷ lục mới và chi tiêu bình quân của khách du lịch tăng
khá.
Khu vực dịch vụ năm 2018 tăng 7,03%, cao hơn mức tăng các năm giai đoạn
2012-2016, trong đó các ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng đóng góp lớn vào
tăng trưởng GDP như bán buôn, bán lẻ; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo
hiểm; dịch vụ lưu trú và ăn uống; vận tải, kho bãi... đều đạt mức tăng trưởng khá.
Hoạt động thương mại dịch vụ năm 2018 có mức tăng trưởng khá, sức mua tiêu
dùng tăng cao, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm nay
đạt 4.416,6 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% so với năm 2017.

1.3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhìn từ yếu tố đầu vào
1.3.1. Đầu tư và tích lũy vốn
Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác, sự đóng góp của vốn sản
xuất vào tăng trưởng thường chiếm tỷ trọng cao nhất.
Từ năm 1998 – 2003 nền kinh tế có mức tăng trưởng bình quân năm là 6,3%
thì đóng góp của yếu tố vốn vật chất so với GDP là 57,5%, từ 2004 đến nay đều đã
vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt
41%, ước năm 2007 đạt 40,4%, kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%).
10



Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung
Quốc. Tuy nhiên, đóng góp từ vốn có giảm xuống (từ 69,3% xuống còn 52,7%),
song yếu tố vốn vẫn chiếm chủ yếu trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Xu
hướng phát triển chủ yếu dựa vào yếu tố vốn đầu tư, nhìn chung, trong giai đoạn
1993 - 2006, nguồn vốn ODA vào Việt Nam liên tục tăng, đạt mức cam kết trung
bình mỗi năm trên 2,4 tỷ USD và mức giải ngân trung bình mỗi năm trên 1,14 tỷ
USD (trong khi đó vốn FDI thực hiện trung bình mỗi năm khoảng 2 tỷ USD), trong
khi đó, vốn tự có thấp, chủ yếu phải đi vay từ nước ngoài, vay trong dân cư,… sẽ
khiến cho tăng trưởng thiếu tính bền vững, ổn định, dễ bị tác động từ các yếu tố
bên ngoài, đặc biệt từ sự biến động của thị trường vốn.

Qua biểu đồ trên, ta thấy tỷ lệ Đầu tư/GDP đã và đang tăng. Lượng vốn đầu tư
liên tục tăng trong những năm qua, năm 2000 vốn đầu tư thực hiện theo giá thực tế
là 151,2 nghìn tỷ đồng (bằng 34,2% GDP); năm 2005 tăng lên 324 nghìn tỷ đồng
(bằng 38,7% GDP). Chính phủ dự báo tỷ lệ này sẽ đạt 40% trong giai đoạn Kế
hoạch PTKTXH. Đây là mức cao nhất tại khu vực Châu Á và Thái Bình Dương
sau Trung Quốc. Tốc độ tăng về vốn đầu tư thực hiện cao hơn tốc độ tăng GDP,
tăng 22,3% (giai đoạn1991 – 1995); 12,2% (1996 – 2000) và 13% (2001 – 2005).
Trong khi tỷ lệ tiết kiệm của Việt Nam cũng cao, phải tăng hiệu quả vốn để duy trì
tăng trưởng cao.

11


Tuy nhiên, mặc dù có những tiến bộ nhỏ gần đây (Biểu đồ 1), song hiệu quả
đầu tư lại thấp và ngày càng giảm, thể hiện qua chỉ số ICOR còn khá cao và liên
tục tăng, cụ thể từ 2,7 (năm 1991) tăng dần lên 3,6 (năm 1997); tăng cao đột ngột
năm 1998 và 1999 tương ứng là 5,3 và 6,1; sau giai đoạn này, chỉ số ICOR có giảm

nhưng vẫn ở mức cao so với trước giai đoạn khủng hoảng, 4,9 (năm 2003) và lên
cao nhất vào năm 2005 (6,93). Có thể nói trong những năm đầu của công cuộc đổi
mới, nhờ đổi mới cơ chế, nền kinh tế đã huy động được tài sản cố định và khai thác
hiệu quả các công suất đã đầu tư trước đây, do vậy kết quả đầu tư tương đối có hiệu
quả, hệ số ICOR thấp. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á, cùng với chính sách
kích cầu, đầu tư vào kết cấu hạ tầng ở nông thôn tăng nhanh, hệ số ICOR đã tăng
nhanh. Hệ số ICOR tăng nhanh là một vấn đề đáng báo động đối với tình hình chất
lượng đầu tư ở nước ta. Các nhà kinh tế cho rằng, hệ số ICOR của nước ta hiện nay
đã vượt qua ngưỡng an toàn. Trong khi chỉ số ICOR của các nước trong khu vực
Đông Nam Á như Xingapo, Malaixia, Thái Lan… chỉ dao động trong khoảng 2,5
đến 3,5; trong giai đoạn 1991 - 1995 ICOR bình quân của Hàn Quốc là 5,27,
nhưng đến năm 1999 chỉ còn có 2,5. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới, nếu so
sánh với các nước ở giai đoạn tương đồng thì chỉ số ICOR của Việt Nam so với
Trung Quốc cao hơn khoảng 1,5 lần, với Thái Lan là 1,35 lần.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thể hiện qua chỉ số ICOR đang dần được cải
thiện, từ mức 6,42 năm 2016 giảm xuống còn 6,11 năm 2017 và ước tính năm 2018
là 5,97, bình quân giai đoạn 2016-2018 hệ số ICOR ở mức 6,17, thấp hơn mức
6,25 của giai đoạn 2011-2015.
Vì vậy, để đảm bảo mục tiêu đầu tư đề ra, sự cần thiết phải có những nỗ lực
lớn để tăng cường cơ chế tài chính giúp tạo ra các nguồn lực trong nước, cải thiện
qui trình ra quyết định đầu tư và tăng minh bạch để quản lý và ưu tiên sử dụng các
nguồn lực hạn hẹp.
1.3.2. Yếu tố lao động
Tỷ trọng của yếu tố lao động đóng góp vào GDP của Việt Nam trong giai
đoạn 1993 – 1997 là 15,9% ; giai đoạn 1998 – 2002 là 20%, và từ năm 2003 đến
nay là khoảng 19,1%. Qua đó có thể thấy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện
còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này
được xét trên hai mặt. Một mặt, do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng
2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và
tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao.

12


Ngoài ra, chất lượng lao động của nước ta còn rất yếu kém, xếp vào loại thấp
(3,79 điểm/thang 10 điểm). Tỷ lệ lao động trẻ cao so với nhiều nước trong khu vực
là một lợi thế của lao động Việt Nam. Bên cạnh những ưu thế về thể chất, lao động
trẻ thường là đội ngũ có học thức, năng động, sáng tạo, ham hiểu biết, tiếp thu
nhanh kỹ thuật và công nghệ mới. Mặt khác, trình độ học vấn của lao động Việt
Nam tương đối cao. Tỷ lệ người biết chữ trong trong số lực lượng lao động xã hội
là 94,3% (năm 2002), tỷ lệ người không biết chữ chỉ có 3,75%. Hạn chế cơ bản của
nguồn nhân lực Việt Nam là số người được đào tạo nghề và kỹ năng chuyên môn
quá ít, năm 2002 mới chiếm có 19,62%. Sự khác nhau về trình độ văn hóa, về đào
tạo nghề và kỹ năng chuyên môn cũng biểu hiện khá rõ giữa lao động ở khu vực
nông thôn và khu vực thành thị, cũng như giữa lao động nữ và lao động nam. Một
hạn chế nữa của lao động Việt Nam là ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công
nghiệp rất yếu thể hiện ở lối sống vô tổ chức, vô kỷ luật, làm việc tùy tiện, thiếu sự
hợp tác giữa các thành viên với nhau v.v... của nền kinh tế tiểu nông, tồn tại hàng
ngàn đời nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến đội ngũ lao động Việt Nam hiện tại.
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của Việt Nam hiện nay vẫn tập trung chủ
yếu vào nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản (56,8%), còn nhóm ngành dịch
vụ chiếm tỷ trọng thấp (25,3%) và nhóm ngành công nghiệp - xây dựng còn chiếm
tỷ trọng thấp hơn nữa (17,9%), các tỷ lệ này gần như ngược với các tỷ lệ tương ứng
của các nước trong khu vực. Trong khi đó, năng suất lao động của nhóm ngành
nông, lâm nghiệp - thuỷ sản chỉ đạt rất thấp (450 USD, riêng ngành nông, lâm
nghiệp đạt chưa được 400 USD), thấp xa so với năng suất lao động của nhóm
ngành dịch vụ (1.860 USD) và còn thấp hơn nữa so với năng suất lao động của
nhóm ngành công nghiệp - xây dựng (2.853 USD). Tính theo tỷ lệ năng suất lao
động trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp chỉ chiếm bằng 12,3% năng suất lao
động của ngành công nghiệp và bằng 18% năng suất lao động ở khu vực dịch vụ.
Như đã phân tích ở trên, các nguyên nhân liên quan đến cơ cấu lao động và

chất lượng lao động đã dẫn đến năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Năng
suất lao động của nước ta hiện đang kém từ 2 đến 15 lần so với các nước trong khu
vực ASEAN. Năm 2004, năng suất lao động của Việt Nam mới đạt 1.260 USD;
trong cả thời kỳ 2002 - 2005 đạt 1.243,4 USD, thấp xa so với nhiều nước trong khu
vực (Trung Quốc: 2.152,3 USD, Thái Lan 4.514,1 USD, Malaixia 11.276,2 USD,
Hàn Quốc 29.057,6 USD, Brunây 34.697,5 USD, Xingapo 48.563,9 USD, Nhật
Bản 73.014,4 USD…). Năm 2007 mới đạt 25.886 đồng/người, của nhóm ngành
nông, lâm nghiệp-thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607 nghìn đồng/người, ngay
cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072 đồng/người
13


và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159 nghìn đồng/người. Nếu quy ra
USD theo tỷ giá hối đoái, năng suất lao động của toàn nền kinh tế cũng mới đạt
khoảng 1,6 nghìn USD, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản chỉ đạt 0,6
nghìn USD, của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng đạt khoảng 3.438 USD, của
nhóm ngành dịch vụ đạt khoảng 2.385 USD. Các con số trên còn thấp xa so với
năng suất lao động chung của thế giới (khoảng trên 14,6 nghìn USD), còn thấp hơn
cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6,5 nghìn USD/người). Với năng
suất còn thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi. Hơn nữa, năng
suất lao động của nước ta tăng rất chậm, chỉ khoảng 4 - 5%/năm. Như vậy, rõ ràng
đóng góp năng suất của lao động trong thời gian vừa qua, chẳng những không tăng
lên nhiều, so với các nước khu vực chúng ta lại càng bị cách xa thêm nữa. Ngoài
ra, năng suất lao động xã hội thấp còn là do trình độ công nghệ của nước ta còn
thấp, hiệu quả quản lý kém, dẫn đến lãng phí các nguồn lực lao động, không phát
huy được tiềm năng. Theo chấm điểm và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới,
về sức cạnh tranh của lao động theo thang điểm 100 thì Việt Nam mới đạt 45 điểm
về khung pháp lý, 20 điểm về năng suất lao động, 40 điểm về thái độ lao động, 16
điểm về kỹ năng lao động và 32 điểm về chất lượng lao động. Các nhà kinh tế thế
giới cũng cảnh báo rằng các nền kinh tế có chất lượng nguồn nhân lực dưới 35

điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Theo ADB, tỷ lệ lao động có kỹ năng ở Việt Nam chỉ ở mức 27% so với
mức trung bình chung khu vực là 50%. Gia nhập WTO tạo ra nhiều cơ hội, nhưng
để tận dụng được nó, Việt Nam cần cải thiện hơn nữa năng lực cạnh tranh, để đảm
bảo nâng cao hiệu quả và tăng trưởng theo chiều sâu. Xếp hạng năng lực cạnh
tranh của nước ta rất thấp và liên tục tụt bậc trong bảng xếp hạng năng lực cạnh
tranh toàn cầu của WEF.
Xếp hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng
của Việt Nam
Năm

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

Xếp
hạng

48/53 49/59 64/75 60/80 60/10 77/10 81/11
2

4
7
Nguồn: WEF – Global Competitiveness Report.

14


Năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua có sự cải thiện đáng kể theo
hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao
trong khu vực ASEAN. NSLĐ toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước
tính đạt 102,2 triệu đồng/lao động (tương đương 4.521 USD), tăng 355 USD so với
năm 2017. Tính theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2018 tăng 6,0% so với
năm 2017, bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng 5,77%/năm, cao hơn mức tăng
4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015.
1.3.3. Đóng góp của TFP đối với tăng trưởng kinh tế
Hiện nay, ở nước ta, tăng trưởng kinh tế do yếu tố vốn và lao động còn chiếm
chủ yếu, vai trò của TFP có tăng, nhưng còn rất thấp, chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng
đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay nếu so với ngay các
nước đang phát triển ở châu Á.
Từ 1993 đến nay, đóng góp của TFP vào GDP có tăng lên nhưng tăng còn dè
dặt và chiếm tỷ trọng không lớn (từ 14,8% lên 28,2%); tỷ trọng đóng góp của lao
động tăng lên trong giai đoạn 1998 – 2002 nhưng lại có xu hướng giảm dần giai
đoạn sau đó; đóng góp từ vốn có giảm xuống (từ 69,3% xuống còn 52,7%), tuy
nhiên yếu tố vốn vẫn chiếm chủ yếu trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
So sánh với các nước trong khu vực, tỷ trọng TFP trong tăng trưởng của nước
ta thấp hơn rất nhiều. Giai đoạn 1980 – 1990 ở Hàn Quốc con số này đã lên tới
31,5%, giai đoạn 1990 – 1999 chỉ số này có sự suy giảm do tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á, tuy nhiên trung bình cho giai đoạn 1980 – 2000,
TFP vẫn chiếm 39,96% tăng trưởng của Hàn Quốc. Ở Ấn Độ là 40,78%. Điểm
phần trăm tăng trưởng của TFP của Trung Quốc chiếm từ 0,194% lên đến 4,09 %

trong tăng trưởng GDP 9,71 % giai đoạn 1979 -1998. Tính chung 1960 – 2000,
điểm phần trăm trung bình của TFP là 4,4 %, chiếm 46,8 % đóng góp vào tăng
trưởng GDP của Trung Quốc. Giá trị TFP của Trung Quốc là khá cao so với các
nước trong khu vực và có thể so sánh với các nước công nghiệp phát triển. Qua các
chỉ số này phản ánh tính chất của tăng trưởng nước ta còn nghiêng về chiều rộng
hơn là chiều sâu. Yếu tố lao động được coi là nguồn lực nội sinh, hiện đang có lợi
thế so sánh (như giá rẻ, dồi dào…) thì chỉ đóng vai trò thấp hơn nhiều so với yếu tố
vốn trong tăng trưởng.
Nguyên nhân của tình trạng này ở nước ta có thể được xem xét dựa trên các
yếu tố cơ bản trong năng suất nhân tố tổng hợp đó là hiệu quả đầu tư còn thấp, chất
15


lượng lao động được thể hiện qua năng suất lao động còn yếu kém và tiến bộ khoa
học công nghệ mới bước đầu chậm chững phát triển.
Đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản
xuất ở nước ta trong những năm qua mặc dù đã có những tiến triển khả quan, tác
động đến tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực, góp phần tạo ra nhiều sản phẩm mới,
có giá trị kinh tế cao, song vẫn chưa tạo nên bước đột phá trong tỷ lệ đóng góp của
tiến bộ khoa học công nghệ vào tăng trưởng. Theo tiêu chí đầu tư cho nghiên cứu
và triển khai (R&D) bình quân trên cán bộ nghiên cứu, Việt Nam thấp hơn Thái
Lan 4 lần, Trung Quốc 7 lần, 8 lần so với Malaixia và 26 lần so với Xingapo. Đáng
lưu ý là đầu tư R&D của khu vực ngoài Nhà nước đang còn quá thấp, mới đạt
khoảng 19% trong khi mức độ này ở Trung Quốc là 45%, Malaixia 60% và Nhật
Bản đạt trên 72%. Cuộc điều tra trên 7.850 doanh nghiệp công nghiệp của Tổng
cục Thống kê trong năm 2005 cũng cho thấy, chỉ có 3,86% trong số 293 doanh
nghiệp đầu tư vào nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ, tỷ lệ này sút giảm
gần 2 lần so với kỳ điều tra của năm 2002 (chiếm 6,14%). Mặc dù chế biến là
ngành được khuyến khích mạnh mẽ, nhưng chỉ có 38 doanh nghiệp sản xuất thực
phẩm và đồ uống (chiếm 3,4% số doanh nghiệp) đầu tư vào khoa học công nghệ.

Trình độ công nghệ trong nền kinh tế nước ta còn thấp, lạc hậu 3 - 4 thế hệ so với
những nước công nghiệp phát triển, đứng thứ 92 trong số 117 nước được điều tra
(WEF 2005 - 2006). Công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu nhiều thế hệ so với
khu vực. Chuyển giao công nghệ chưa có những tiến bộ cần thiết, đặc biệt trình độ
công nghệ thông tin còn rất thấp. Tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao mới đạt
20,6%, thấp xa so với các nước ASEAN; rất ít doanh nghiệp quan tâm đến thông
tin về khoa học và công nghệ, chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp đạt được trình độ
tiên tiến (phần lớn là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
Tăng trưởng kinh tế dần chuyển dịch theo chiều sâu, tỷ lệ đóng góp của năng
suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP năm 2018 đạt 45,2%, bình
quân giai đoạn 2016-2018 đạt 43,9%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,6%
của giai đoạn 2011-2015. Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện/GDP năm 2018
đạt 33,5%, đảm bảo mục tiêu Quốc hội đề ra từ 33-34%.

1.4. Tăng trưởng kinh tế nhìn từ yếu tố đầu ra
1.4.1 Tiêu dùng cuối cùng
Theo nghị định 94/2006/NĐ-CP và nghị định 03/2006/NĐ-CP về việc điều
chỉnh mức lương tối thiểu thì thu nhập của người dân cũng được nâng cao. Thu
16


nhập bình quân 1 tháng của 1 người lao động trong khu vực nhà nước đạt 2064,2
nghìn đồng; trong đó lao động do TW quản lý 2522,6 nghìn đồng; và lao động do
địa phương quản lý 176,0 nghìn đồng. Tuy nhiên mức thu nhập giữa các ngành, các
loại hình doanh nghiệp, các địa phương không đồng đều. Tỷ lệ hộ nghèo của cả
nước đã giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007 và vượt kế hoạch
đề ra 10%.
Đi cùng với việc tăng lương, thì vấn đề giá cả trong năm 2007 cũng là một
điều đáng bàn. Mặc dù nền kinh tế luôn phải chấp nhận 1 sự đánh đổi giữa lạm
phát và tăng trưởng kinh tế (ít nhất là trong ngắn hạn) thì chỉ số giá tiêu dùng năm

2007 là 1 điều đáng lo ngại.
Theo số liệu của tổng cục thống kê :
So với tháng 12 năm 2006, giá tiêu dùng năm 2007 tăng 13.63% trong đó
nhóm hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 18.92%; nhà ở và vật liệu xây dựng
tăng 17.12&; các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng từ 1.69 đến 7.27%. Giá
tiêu dùng bình quân năm 2007 so với năm 2006 tăng 8.3% trong đó nhóm hàng
ăn và dịch vụ ăn uống tăng 11,16% ; nhà ở vật liệu xây dựng tăng 11.01%; các
nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng 3,18 đến 6,15%.
Với tốc độ tăng nhanh của mức giá thì mức tăng thu nhập không đủ bù với
mức tăng lên của giá và sự tăng nhanh của tiêu dùng cũng không đủ cải thiện được
phần nào mức sống của dân cư. Theo Tổng cục thống kê, tiêu dùng cuối cùng
thông qua mua bán trên thị trường tăng nhanh, thể hiện bằng tỷ lệ giữa tổng mức
bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng so với tổng tiêu dùng cuối cùng nếu năm
2000 mới đạt 68,5% thì đến 2007 đã đạt 86,9%. Tuy nhiên chênh lệch tổng mức
bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng bình quân đầu người giữa các
vùng, các tỉnh còn khá lớn. Trong khi bình quân đầu người/ năm của cả nước là
6,9triệu đồng thì vùng Đông Nam Bộ đạt trên 14,6 triệu dồng, còn tất cả các vùng
còn lại đạt thấp hơn, trong đó thấp nhất là Tây Bắc (2,3 triệu đồng), tiếp đến là
Bắc Trung Bộ (3,4 triệu đồng)… vùng thấp nhất chỉ bằng 1/3 mức trung bình quân
chung của cả nước và chỉ bằng 15,9% vùng cao nhất.
Do vậy,mức giá tăng nhanh dường như là một thứ thuế lạm phát làm giảm
mức sống của đại bộ phận dân cư, đặc biệt là những người hưởng lương cố định và
có thu nhập thấp.
Về chi tiêu, tính chung cả nước, chi tiêu theo giá hiện hành bình quân 1 người
1 tháng năm 2018 đạt 2,55 triệu đồng, tăng 18% so với năm 2016, bình quân giai
17


đoạn 2016-2018 tăng 8,6%/năm, trong đó chi tiêu bình quân đầu người 1 tháng ở
khu vực nông thôn đạt 2,1 triệu đồng, tăng 19,3%; khu vực thành thị đạt 3,5 triệu

đồng, tăng 14,3%. Cơ cấu chi tiêu theo chi đời sống và chi khác không có sự thay
đổi đáng kể so với những năm trước. Tỷ trọng chi tiêu cho đời sống trong chi tiêu
bình quân đầu người một tháng năm 2018 chiếm 93%, chi tiêu khác chiếm 7%
(Hai tỷ trọng tương ứng của năm 2014 là 93,4% và 6,6%, 2016 là 93,5% và 6,5%).
1.4.2 Chi tiêu chính phủ
Chi tiêu của chính phủ đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh
tế. Việc cân đối chi tiêu, cơ cấu ngân sách nhà nước phù hợp là 1 chính sách tài
khoá hiệu quả thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Và ngược lại, một chính sách tài
khoá không hợp lý là yếu tố tác xấu tới tăng trưởng kinh tế.
Theo Tổng cục thống kê:
Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2007 ước tính tăng 16,4% so với năm
2006 , trong đó các các khoản thu nội địa bằng 107%, thu từ hoạt động xuất
nhập khẩu bằng 108,1%; thu viện trợ bằng 156,7%. riêng thu từ dàu thô ước
tính chỉ bằng 102,1% so với dự toám năm trước do sản lượng khai thác dầu thô
giảm.
Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2007 ước tính tăng 17,9% so với năm
2006 và bằng 106,5 dự toán cả năm; trong đó chi đầu tư tăng19,2% và bằng
103,2%; chi thường xuyên tăng15,1% và bằng 107,2%; chi trả nợ và ngân sách
nhà nước ước tính bằng 14,8% tổng số chi và bằng mức bội chi dự toán năm đã
được quốc hội thông qua đầu năm; trong đó 76,1% được bù đắp bằng nguồn vốn
vay trong nước và 23,9% nguồn vay từ nước ngoài.
Tuy nhiên có một số tiền không nhỏ đã bị lãng phí, thất thoát thông qua
việc đầu tư công, thông qua việc làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà
nước. Tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP hàng năm vẫn cao, chiếm trên dưới
5%. Việc xử lý số thu vượt dự toán cần dành cho việc trả nợ, dành chi việc
18


giảm bội chi ngân sách, tăng số dự phòng, quỹ dự trữ quốc gia; trong khi số chi
thường xuyên vượt dự toán cao hơn tạo sức ép lạm phát tác động tiêu cực tới

tăng trưởng kinh tế.
Như vậy việc không cân đối chi tiêu ngân sách hợp lý, bội chi ngân sách
nhà nước trong năm 2007 tạo sức ép lạm phát, điêù này gây tác động xấu tới tăng
trưởng kinh tế.Chính Phủ cần có chính sách chi tiêu hợp lý, thắt chặt tài khoá để
kìm hãm tốc độ leo thang của giá cả để ổn định và tăng trưởng kinh tế.
1.4.3 Xuất khẩu ròng
Mô hình phát triển hướng ngoại thành công của các nước Đông á trong
những thập kỷ qua là minh chứng hùng hồn cho vai trò của xuất khẩu như là một
động lực của tăng trưởng kinh tế ở khu vực này.
Nếu quan sát bằng mắt thường từ đồ thị ở dưới, miêu tả biến động của tăng
trưởng xuất khẩu và GDP trong thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 cho tới nay,sẽ thấy
quan hệ giữa tăng trưởng xuất khẩu và GDP tại Việt Nam nhiều khi không tỷ lệ
thuận, có những giai đoạn xuất khẩu và GDP biến động theo hướng ngược nhau,
hoặc với những giai đoạn mà xuất khẩu tăng trưởng cực kỳ mạnh mẽ nhưng tăng
trưởng GDP không có đột biến gì nhiều, hoặc ngược lại. Tuy nhiên, tăng trưởng
xuất khẩu luôn cao hơn hai lần so với tăng trưởng GDP.
Tuy nền kinh tế đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hết sức ấn tượng
7.62%/năm, tức cao gấp 2.41 lần nhịp độ tăng trưởng kinh tế và đặc biệt là nhập
khẩu phải tăng bình quân tới 19.22%/năm và cao gấp 2.52 lần nhịp độ tăng trưởng
kinh tế.
Vì thế, muốn đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì phải đẩy mạnh xuất nhập
khẩu một cách hợp lý.
Nền kinh tế Việt Nam từ kể từ khi mở cửa đến nay đã hội nhập gần như
hoàn toàn vào dòng chảy kinh tế toàn cầu. Độ mở của nền kinh tế (được đo bằng
phần trăm của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên GDP) ngày càng lớn, từ năm
2001 đến 2007 tương ứng là 97.9%, 103.4%, 114.7%, 129.4%, 131.8%, 138.9%,
và 153.8% (theo Tổng cục thống kê). Tỷ trọng của xuất nhập khẩu trên GDP tăng
từ 97.9% năm 2001 đến con số ấn tượng 153.8% năm 2007 tức bình quân tăng
9.32%/năm trong giai đoạn 2002-2007.
19



Tuy nhiên, bức tranh về kết quả hoạt động xuất nhập khẩu có phần bị mờ đi
bởi sự lấn át của nhập khẩu so với xuất khẩu.
Vào thời điểm năm 2006, đầu vào nhập khẩu đã lớn gấp 1.127 lần đầu ra
xuất khẩu(nhập siêu 12.7%).
Năm 2007 tình hình trở nên xấu hơn trên cán cân thương mại,nhập siêu
tăng 159% so với năm 2006 và chiếm 1/3 tổng nhập siêu trong 7 năm(2002-2007)
với tỷ trọng nhập siêu chiếm 25.2% so với xuất khẩu năm 2007.
Chỉ mới hai tháng đầu năm 2008 mà nhập siêu đã lên đến 1072 triệu USD
(trong khi cùng kỳ năm trước xuất siêu 102 triệu USD), nếu không có giải pháp
hữu hiệu nhập siêu cả năm có thể lên đến 6.5 tỷ USD, vượt xa mức 4.8 tỷ USD
năm trước. Với đà này , cả năm nay, kim ngạch xuất khẩu có thể đạt 50 tỷ USD
không những vượt mục tiêu tăng 17.4% do quốc hội đề ra, mà còn vượt chỉ tiêu
phấn đấu trên 20% của bộ Thương mại đề ra.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do USD mất giá so với tiền đồng Việt
nam, trực tiếp làm cho doanh nghiệp xuất khẩu bị thiệt hại do giảm lợi nhuận hoặc
rơi vào tình trạng thua lỗ. Chưa kể giá nguyên vật liệu thu mua trong nước để làm
hàng xuất khẩu cũng tăng cao và gần như hình thành một mặt bằng giá mới khiến
đầu vào tăng cao.Trong khi đó đồng USD mất giá còn khiến cho hàng nhập khẩu
có giá bán cạnh tranh, khuyến khích hoạt động nhập khẩu. Mặt khác, sau khi gia
nhập WTO, xuất khẩu tăng cao do hàng rào phi thuế quan và thuế quan vào các
nước thành viên WTO được giỡ bỏ hoặc cắt giảm. Tuy nhiên thuế suất thuế nhập
khẩu cũng được cắt giảm nên nhập khẩu vào nước ta tăng cao hơn xuất khẩu, làm
cho nhập siêu lớn và có xu hướng gia tăng.
Vấn đề trọng yếu của Việt Nam không phải tăng trưởng về lượng của xuất
khẩu mà thay vao đó phải đặt mục tiêu xuất khẩu cái gì, như thế nào, cũng như
xuất khẩu vào thị trường nào sao cho có lợi nhất cho nền kinh tế.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2018 ước tính đạt 243,7 tỷ USD, tăng
13,3% so với năm 2017 (vượt mục tiêu Quốc hội đề ra là tăng 7%-8% và Nghị

quyết 01 của Chính phủ là tăng 8%-10%), trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt
69,7 tỷ USD, tăng 15,8% so với năm 2017, chiếm 28,6% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 174 tỷ USD,
tăng 12,3%, chiếm 71,4% (giảm 0,6 điểm phần trăm so với năm 2017). Năm 2018,
khu vực kinh tế trong nước chuyển biến tích cực khi đạt tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu cao hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với tỷ trọng trong tổng
20


kim ngạch xuất khẩu tăng lên so với năm 20171 . Trong năm 2018 có 29 mặt hàng
đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm tới 91,7% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước, trong đó có 5 mặt hàng đạt trên 10 tỷ USD, chiếm 58,2%.
Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu năm 2018 ước tính đạt 237,2 tỷ USD,
tăng 11,2% so với năm trước, trong đó có 37 mặt hàng ước tính kim ngạch nhập
khẩu đạt trên 1 tỷ USD, chiếm 90,4% tổng kim ngạch, trong đó có 4 mặt hàng trên
10 tỷ USD, chiếm 44,2%.
Ước tính cả năm 2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa thiết lập
mức kỷ lục mới với 480,9 tỷ USD. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 6,5 tỷ
USD, là năm có giá trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay, cao hơn rất nhiều mức
xuất siêu 1,9 tỷ USD của năm 2017, vượt xa mục tiêu Quốc hội đề ra là tỷ lệ nhập
siêu dưới 3%.

1.5 Đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế thời kỳ đổi mới
1.5.1 Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.5.1.1 Cơ cấu nhóm ngành kinh tế
a. Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Trong suốt quá trình đổi mới, cơ cấu công-nông-dịch vụ cả nước chuyển đổi
đúng qui luật nhưng chưa lành mạnh. Nông nghiệp luôn làm tròn vai trò nền tảng
cho công nghiệp và dịch vụ phát triển, nhưng khi lĩnh vực nông nghiệp thu hẹp lại,
công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng nhanh hơn hẳn, thì các lĩnh vực này vẫn chưa

trở thành đầu tầu kéo nông nghiệp đi lên. Trước đổi mới, tăng trưởng nông nghiệp
rất thấp. Trong suốt thời kỳ đổi mới (1986-2003), nông nghiệp (cả nông, lâm, ngư
nghiệp) Việt Nam liên tục tăng trưởng giá trị sản lượng với tốc độ bình quân
5,55%/năm và tăng GDP là 3,63%/năm.
Trong nông-lâm-thủy sản, chuyển dịch cơ cấu diễn ra rõ rệt nhưng không
đồng đều. Trong 3 ngành, ngành thuỷ sản với chu kỳ kinh tế ngắn, tổ chức sản xuất
khép kín, thị trường phát triển thuận lợi, có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Gần 20
năm qua, tỷ trọng GDP thuỷ sản tăng từ 5,6% năm 1986 lên trên 18% năm 2003.
Sản xuất nông nghiệp có chu kỳ kinh tế dài hơn, địa bàn và tổ chức sản xuất phức
tạp hơn nên tăng trưởng đều nhưng chậm hơn thuỷ sản.
Lâm nghiệp có chu kỳ kinh tế rất dài, địa bàn sản xuất trải rộng, thị truờng
kém phát triển nên tốc độ tăng trưởng trong thời gian qua rất thấp. Ngoài ra, rừng
còn có những chức năng rất quan trọng về môi trường và xã hội, không thể tính
21


toán đơn thuần về mặt tăng trưởng kinh tế. Do tốc độ tăng trưởng không đều giữa 3
ngành nông lâm và thuỷ sản, tỷ trọng GDP ngành thuỷ sản tăng dần, nông nghiệp
giảm tỷ trọng từ 81% năm 1986 xuống 77% năm 2003, trong khi lâm nghiệp giảm
nhanh từ 13,5% năm 1986 xuống còn 5% năm 2003.

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp, giữa ba ngành chính là trồng trọt-chăn
nuôi-dịch vụ, chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng diễn ra chậm. Tỷ trọng giá trị sản
xuất trồng trọt trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp giảm từ 80% năm 1986
xuống 76% năm 2002. Trồng trọt vẫn là ngành sản xuất chính trong nông nghiệp.
Chăn nuôi, sau rất nhiều cố gắng, đã đạt mức tăng trưởng bình quân 6,7%/năm so
với 3% giai đoạn 1986-1990, chiếm 20% giá trị sản xuất nông nghiệp và 13% cơ
cấu GDP nông nghiệp, chưa đủ để trở thành một ngành chính. Khu vực dịch vụ

tăng trưởng rất chậm, tốc độ bình quân là 3,6%/năm, chưa đáp ứng nhu cầu phục
vụ sản xuất và đời sống và chưa trở thành nguồn thu nhập quan trọng cho cư dân
nông thôn.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng cao nhất trong
7 năm qua, khẳng định chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả, đặc biệt
trong lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Cơ cấu cây trồng được chuyển
dịch theo hướng tích cực, giống lúa mới chất lượng cao đang dần thay thế giống
lúa truyền thống, phát triển mô hình theo tiêu chuẩn VietGap cho giá trị kinh tế
cao. Mặc dù diện tích gieo trồng lúa trên cả nước năm nay giảm nhưng năng suất
tăng cao nên sản lượng lúa cả năm 2018 ước tính đạt 43,98 triệu tấn, tăng 1,2 triệu

22


tấn so với năm 2017. Nuôi trồng thủy sản tăng khá, sản lượng thủy sản nuôi trồng
ước tính cả năm đạt 4,2 triệu tấn, tăng 6,9%.
b. Ngành công nghiệp và xây dựng
Tỷ trọng ngành công nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân tăng từ
19,8% năm 1991 lên 21,9% năm 1995 và 36,6% năm 2000, năm 2005 ước đạt
42%. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khẳng định vai trò chủ đạo
của công nghiệp trong nền kinh tế. Bên cạnh đó công nghiệp còn góp phần giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động và còn thúc đẩy các ngành khác phát
triển như công nghiệp nông thôn, y tế giáo dục, các lĩnh vực dịch vụ… Tạo ra môi
trường thuận lợi cho việc Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp đã đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng chung của toàn nền kinh tế, góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hóa
chất tinh thần của nhân dân. Từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý. Đồng thời
chuyển dịch cơ cấu công nghiệp còn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tạo ra tiền đề cho quá trình hội nhập kinh tế.
Ngành công nghiệp khai thác: công nghiệp khai thác đã phát triển mạnh,

đặc biệt là ngành khai thác dầu khí, đây là ngành có vai trò quan trọng đóng góp
cho sự khởi động của quá trình công nghiệp hoá đất nước. Trong những năm tới
nguồn tài nguyên này đang gia tăng, đặc biệt là khá lợi thế này sẽ tạo điều kiện cho
việc phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu chế biết phát triển theo, tạo nguồn
nguyên liệu cho sản xuất trong nước và xuất khẩu.
Công nghiệp chế biến: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến và chế
tác đã chiếm trên 80% trong giá trị sản xuất công nghiệp; đã từng bước đổi mới
công nghiệp trong một số ngành nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, hướng mạnh
về xuất khẩu. Đã có xu hướng hình thành những ngành công nghiệp có công nghệ
cao, thực hiện chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo định hướng đi từ những ngành
công nghiệp thu hút nhiều lao động với công nghệ thấp đến các ngành công nghiệp
thu hút nhiều lao động với công nghệ tiên tiến và công nghệ cao, đó là các ngành
công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, ngành cơ khí chế tạo phát triển theo
hướng nội địa hoá.
Các ngành công nghiệp nhân công, thu hút nhiều lao động như ngành con
dệt, may, da giầy chiếm khoảng 32% trong giá trị sản xuất công nghiệp, đã đóng
góp giá trị kim ngạch xuất khẩu ngành công nghiệp USD nếu tính cả ngành da
giầy, giá trị kim ngạch xuất khẩu trên 6,9 tỷ USD, đứng đầu trong các hàng xuất
23


khẩu. Đây là những ngành công nghiệp mà ta đang có lợi thế về nguồn nhân công
nhiều với mức lương thấp và đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trực tiếp của nước
ngoài.
Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp đang đi đúng hướng, phù hợp với Đề
án Tái cơ cấu ngành công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cụ thể
là, tỷ trọng của công nghiệp chế biến, chế tạo tăng và tỷ trọng ngành khai khoáng
giảm. Tỷ trọng GDP của nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng dần theo
các năm (16,2% năm 2016; 17,4% năm 2017 và ước 18,3% năm 2018), trong khi
tỷ trọng của nhóm ngành khai khoáng giảm từ 8,8% bình quân giai đoạn 20112015 xuống 7,6% năm 2016, 6,6% năm 2017 và 6% cho năm 2018.

c. Ngành dịch vụ
Hoạt động dịch vụ nhờ chính sách đổi mới tự do hoá thương mại và phát
triển các thành phần kinh tế đã khởi sắc rõ rệt với mức tăng trung bình 6,66%.
Theo xu hướng chung, khi nền kinh tế phát triển cao, thu nhập bình quân đầu
người tăng từ 100 USD lên 25.000 USD thì tỷ lệ đóng góp của lĩnh vực dịch vụ
còn tăng cao: từ 25-30% đến 60-70%.
Hoạt động thương mại dịch vụ năm 2018 có mức tăng trưởng khá, sức
mua tiêu dùng tăng cao. Năm 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng ước tính đạt 4.416,6 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% so với năm trước. Xét
theo ngành kinh doanh, bán lẻ hàng hóa đạt 3.329 nghìn tỷ đồng, chiếm 75,4%
tổng mức và tăng 12,2% so với năm 2017; dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 534,2 nghìn
tỷ đồng, chiếm 12,1% và tăng 9,3%; dịch vụ và du lịch đạt 553,4 nghìn tỷ đồng,
chiếm 12,5% và tăng 10,6%. Đến thời điểm 31/12/2018, cả nước có 8.475 chợ,
giảm 1,2% so với năm 2017; có 1.009 siêu thị, tăng 5,3%; 210 trung tâm thương
mại, tăng 11,1%.
Năm 2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 480,9 tỷ USD, tăng 12,3%
so với cùng kỳ năm trước, mức xuất siêu đạt 6,5 tỷ USD, mức cao nhất từ trước
đến nay. Độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn, năm 2018 tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ so với GDP đạt 208,31%, điều này chứng tỏ Việt
Nam khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước đồng thời tranh thủ được thị
trường thế giới, vượt mục tiêu mà Quốc hội và Chính phủ đề ra. Năm 2018, kim
ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 243,7 tỷ USD, tăng 13,3% so với năm 2017, trong
đó: khu vực kinh tế trong nước đạt 69,7 tỷ USD, tăng 15,8%; khu vực có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 174 tỷ USD, tăng 12,3%.
24


Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn trong năm 2018: Điện thoại
và linh kiện đạt 49,2 tỷ USD, tăng 7,9% so với năm 2017; hàng dệt, may đạt 30,5
tỷ USD, tăng 16,7%; hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 29,6 tỷ USD, tăng

12,5%; giày, dép đạt 16,2 tỷ USD, tăng 10,6%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 8,9 tỷ USD,
tăng 15,6%; hàng thủy sản đạt 8,8 tỷ USD, tăng 5,2%.
Năm 2018, xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 14,8 tỷ USD, tăng 13% so với
năm 2017, trong đó xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt 10,1 tỷ USD, chiếm 68,2% tổng
kim ngạch và tăng 13,4%. Nhập khẩu dịch vụ năm 2018 ước tính đạt 18,6 tỷ USD,
tăng 8,8% so với năm trước, trong đó nhập khẩu dịch vụ vận tải đạt 8,8 tỷ USD,
chiếm 47,4% tổng kim ngạch và tăng 7,1%. Nhập siêu dịch vụ năm 2018 khoảng
3,8 tỷ USD, giảm 5,1% so với năm 2017.
1.5.1.2 Cơ cấu thành phần kinh tế
a. Kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản nhà nước:
Chúng ta đã xác định ngày càng rõ hơn nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước. Thể hiện ở việc tạo môi trường, tạo điều kịên thúc đẩy và là lực lượng
vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế; không nhất
thiết phải có tỷ trọng lớn trong mọi ngành, lĩnh vực kinh tế.
Để nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Đảng đã quan tâm lãnh
đạo đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghệp nhà nước. Luật doanh nghiệp
nhà nước năm 2003 tạo khung khổ pháp lý có tác dụng giải phóng lực lượng sản
xuất, phục vụ cho việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Cơ
chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng
xoá bỏ bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm
của doanh nghiệp trong kinh doanh, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của nhà nước
vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đã tập trung chỉ đạo sắp xếp, đổi
mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Qua sắp xếp,
đổi mới và cổ phần hoá, số doanh nghiệp nhà nước giảm đi (năm 1900 là 12.084
đến tháng 6 năm 2005 còn 2.980 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước), ngoài ra còn
có 670 công ty cổ phần do nhà nước chi phối trên 51% vốn Điều lệ. Nhưng, nhờ
đổi mới vậy mà các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Năm 2005
đóng góp 39% GDP, 50% tổng ngân sách nhà nước.
Các công ty liên doanh mọc lên ngày càng nhiều, hoạt động hiệu quả và đã
có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của đất nước .

25


×