Tải bản đầy đủ (.doc) (161 trang)

Truyện ngắn nữ việt nam 2000 – 2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.01 KB, 161 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LÊ THỊ THANH XUÂN

TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000 - 2015
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

Huế, 2020


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LÊ THỊ THANH XUÂN

TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000 - 2015
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN

Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Hồ Thế Hà

Huế, 2020



LỜI CAM ĐOAN

Luận án được thực hiện tại Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS Hồ Thế Hà.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tư liệu trong
luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu khoa học nào.
Tác giả luận án

Lê Thị Thanh Xuân


Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành luận án này, tôi xin gửi lời cảm
ơn chân thành và sâu sắc đến:
- PGS.TS Hồ Thế Hà, người thầy đã tận tình hướng
dẫn cho tôi trong quá trình viết và hoàn thiện luận án.

- Khoa Ngữ văn, Tổ bộ môn Văn học Việt Nam; Phòng
Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Khoa học Huế và
các thầy cô đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận án.
- Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp vì đã tạo mọi điều về vật chất và
tinh thần, giúp tôi hoàn thành khóa học và luận án đúng thời gian.

Huế, tháng 03 năm 2020
Nghiên cứu sinh
Lê Thị Thanh Xuân



MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................... 1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................................ 2
3. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu....................................................... 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................... 4
5. Đóng góp của luận án........................................................................................................... 5
6. Bố cục luận án.......................................................................................................................... 5
NỘI DUNG........................................................................................................................................... 7
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU........................................... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền............................................................ 7

1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền trên thế giới........................... 7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền ở Việt Nam.........................13
1.2. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam từ góc nhìn phê bình
văn học nữ quyền...................................................................................................................... 19

1.2.1. Giai đoạn từ trước năm 2000............................................................................. 20
1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 2000................................................................................. 23
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hƣớng triển khai đề tài.....................28

1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu.......................................................................... 28
1.3.2. Hướng triển khai của đề tài................................................................................. 30
Tiểu kết........................................................................................................................................... 32
Chƣơng 2. LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN

VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM............................... 33
2.1. Vấn đề nữ quyền và sự xuất hiện chủ nghĩa nữ quyền...............................33

2.1.1. Vấn đề nữ quyền - nguồn gốc và khái niệm............................................... 33
2.1.2. Sự xuất hiện chủ nghĩa nữ quyền và sự phát triển của quyền phụ nữ .. 36


2.2. Lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền..................................... 39

2.2.1. Lý thuyết nữ quyền................................................................................................. 39
2.2.2. Phê bình văn học nữ quyền................................................................................. 43
2.3. Ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam......................................................... 48

2.3.1. Ý thức nữ quyền trong văn học truyền thống............................................ 48
2.3.2. Ý thức nữ quyền trong văn học hiện đại...................................................... 55
Tiểu kết........................................................................................................................................... 62
Chƣơng 3. CÁC KIỂU NHÂN VẬT NỮ MANG ĐẶC TRƢNG GIỚI
TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000 - 2015 TỪ GÓC NHÌN
PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN................................................................................... 63
3.1. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do.............63

3.1.1. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống.......................................... 64
3.1.2. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền tự do......................................... 67
3.2. Nhân vật nữ với thiên tính làm mẹ và khát vọng tình yêu....................... 71

3.2.1. Nhân vật nữ với thiên tính làm mẹ................................................................. 71
3.2.2. Nhân vật nữ với khát vọng tình yêu............................................................... 74
3.3. Nhân vật nữ với bản năng tính dục và nhu cầu giải phóng tính dục . 79

3.3.1. Nhân vật nữ với bản năng tính dục................................................................. 79

3.3.2. Nhân vật nữ với nhu cầu giải phóng tính dục........................................... 84
3.4. Nhân vật nữ với cảm quan sinh thái và ý thức giải phóng bản thân..90

3.4.1. Nhân vật nữ với cảm quan sinh thái............................................................... 90
3.4.2. Nhân vật nữ với ý thức giải phóng bản thân.............................................. 94
Tiểu kết......................................................................................................................................... 103
Chƣơng 4. PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT

NAM 2000 - 2015 TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN .. 104

4.1. Điểm nhìn trần thuật................................................................................................... 104

4.1.1. Điểm nhìn bên trong............................................................................................ 104
4.1.2. Điểm nhìn bên ngoài............................................................................................ 109


4.2. Giọng điệu nghệ thuật................................................................................................ 113

4.2.1. Giọng xót xa, thương cảm................................................................................ 113
4.2.2. Giọng triết luận, chiêm nghiệm..................................................................... 117
4.2.3. Giọng hài hước, châm biếm............................................................................. 122
4.3. Diễn ngôn mang ý thức giới..................................................................................... 126

4.3.1. Diễn ngôn tự thuật................................................................................................ 126
4.3.2. Diễn ngôn thân phận............................................................................................ 129
4.3.3. Diễn ngôn thân thể................................................................................................ 133
Tiểu kết......................................................................................................................................... 135
KẾT LUẬN..................................................................................................................................... 137
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ............................... 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 142

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phong trào đấu tranh nữ quyền đã xuất hiện từ lâu trong đời sống xã hội và
trong văn học. Cuộc đấu tranh giành lại vị thế đã mất để tạo dựng lại sự bình
đẳng và vị thế mới của nữ giới, dần về sau được các nhà nữ quyền luận đúc kết
lại thành lý thuyết nữ quyền và cuối cùng người ta gọi là nữ quyền luận hay chủ
nghĩa nữ quyền (feminism). Phong trào này xuất phát từ ý thức về bản thân của
giới nữ, được manh nha vào thời kỳ Khai sáng và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ
thế kỷ XIX đến nay. Gắn liền với những đổi thay to lớn ấy, âm hưởng nữ quyền
đã ngấm sâu vào văn học, tạo thành thế giới hình tượng và diễn ngôn giới mới
mẻ trong văn chương hiện đại và hậu hiện đại. Về sau, để đi sâu nghiên cứu văn
học, các nhà lý luận hình thành phương pháp riêng, gọi là phê bình văn học nữ
quyền với hệ thống lý thuyết cụ thể riêng.
Sự thay đổi liên tục của truyện ngắn nói riêng và trong văn học nói chung góp
phần dẫn đến tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam diễn ra một cách mạnh mẽ,
nhất là giai đoạn từ sau đổi mới 1986 đến nay. Đây là thời điểm quan trọng, có tính
chất tiền đề để các thể loại văn học phát triển vững chắc. Cùng với tiểu thuyết,
truyện ngắn cũng bắt đầu được “ươm mầm” để tạo thành những mảnh đất màu mỡ
cho mùa vụ bội thu về sau, trong đó, có thành tựu của các nhà văn nữ với những
phong cách, cá tính sáng tạo riêng như: Lê Minh Khuê, Đoàn Lê, Dạ Ngân, Võ Thị
Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Xuân
Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Bùi Như Lan, Trần Thùy Mai, Thùy Dương… Họ đã đem
đến cho văn đàn sự cách tân mới mẻ, được độc giả ái mộ. Nhiều nhà văn nam giới
cũng lên tiếng ủng hộ và thừa nhận nhà văn nữ là chủ thể tư duy, chủ thể trải
nghiệm và chủ thể thẩm mỹ có địa vị quan trọng thông qua những tác phẩm xuất sắc
của họ. Như vậy, văn học Việt Nam hiện đại ngày càng phát triển và đạt thành quả
mạnh mẽ một phần nhờ vào vai trò của các nhà văn nữ với tiếng nói dân chủ, đấu

tranh cho quyền bình đẳng giới một cách hiệu quả. Có thể nói rằng, truyện ngắn nữ
đã có bước tiến “chậm mà chắc” trong quá trình cùng phát triển của nhiều thể loại
văn học đương đại hiện nay ở nước ta.

1


Nếu như giai đoạn 1986 trở về trước, các nhà văn nam đóng vai trò chủ yếu
về thể loại truyện ngắn thì sau đổi mới, truyện ngắn nữ đã dần chiếm địa vị đáng
kể trên văn đàn, tạo nên tiếng vang với những tác phẩm giàu thiên tính nữ, xuất
phát từ bản thân nữ giới, đặc biệt là có sự cộng hưởng thành tựu từ phê bình văn
học nữ quyền.
Phê bình văn học nữ quyền có xuất phát điểm từ phương Tây. Các nhà văn
Việt Nam, ít nhiều đều có chịu ảnh hưởng từ lý thuyết nữ quyền và phê bình văn
học nữ quyền nên đã để lại dấu ấn “quyền lực giới” trong những tác phẩm của
mình ngày càng sâu sắc.
Nghiên cứu về lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền đã được
nhiều người chọn làm đề tài nghiên cứu của mình ở từng tác giả, tác phẩm, nhưng
để vận dụng phê bình văn học nữ quyền trong truyện ngắn nữ hiện đại Việt Nam thì
vẫn còn ít và chưa có những đề tài tính chuyên sâu. Để hoàn thành luận án, chúng
tôi chú trọng phân tích các tác phẩm về nữ quyền dựa trên nền tảng lý thuyết phê
bình văn học nữ quyền của phương Tây khi áp dụng vào truyện ngắn nữ Việt Nam
để tìm hiểu những đặc thù riêng về tâm lý, văn hóa dân tộc thông qua hình tượng và
diễn ngôn tác phẩm. Đặc biệt, chúng tôi nhấn mạnh mốc thời gian 2000 – 2015 như
là một điểm nhấn trong luận án, bởi mốc 15 năm đầu thế kỷ, truyện ngắn có nhiều
thành tựu nổi bật. Truyện ngắn nữ góp phần thúc đẩy nền văn học Việt Nam trong
quá trình “đổi mới”, trong đó, có sự đổi mới về hình tượng nhân vật nữ từ góc nhìn
hiện đại, đương đại và từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền. Chính vì vậy, chúng
tôi chọn Truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ
quyền làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.


2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những tác phẩm truyện ngắn nữ giai đoạn
2000 - 2015 thể hiện nhu cầu và sự tự nhận thức về giới và nữ quyền sâu sắc, đa
dạng với vẻ đẹp và lối viết nữ mang bản sắc riêng. Cụ thể là những tác phẩm tiêu
biểu của các tác giả như: Lê Minh Khuê, Nguyễn Ngọc Tư, Y Ban, Võ Thị

2


Xuân Hà, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu, Mai Thy, Lê
Thị Hoài Nam, Ngân Hoa, Quế Hương, Đỗ Bích Thúy, Hà Thị Cẩm Anh, Bùi
Như Lan, Nguyễn Thị Anh Thư...
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện Luận án, chúng tôi tập trung nghiên cứu, phân tích những bình
diện nổi bật thuộc nội dung và hình thức truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt
Nam tiêu biểu giai đoạn 2000 - 2015 để chỉ ra những đặc điểm nổi bật mang yếu
tố phái tính và âm hưởng nữ quyền ở từng tác phẩm. Để có cái nhìn liền mạch và
tiếp nối, chúng tôi có mở rộng so sánh trong chừng mực với các truyện ngắn nữ
Việt Nam trước năm 2000 và sau năm 2015 để thấy sự cách tân và vị thế của
truyện ngắn nữ trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Vì điều kiện giới
hạn về tư liệu, nên những truyện ngắn nữ Việt Nam hải ngoại giai đoạn này
không được chúng tôi chọn để nghiên cứu trong luận án.
3. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Hướng tiếp cận
Hướng tiếp cận của luận án là vận dụng lý thuyết phê bình văn học nữ
quyền, soi rọi vào truyện ngắn nữ Việt Nam tiêu biểu giai đoạn 2000 - 2015 để
tìm ra giá trị nhân văn và giá trị thẩm mỹ ẩn chứa bên trong ngôn từ, hình tượng
tạo thành tư tưởng nhân văn sâu sắc của tác phẩm.

Từ đó, luận án hướng tới giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất: Từ việc nắm vững lý thuyết cơ bản của phê bình văn học nữ
quyền, luận án chỉ ra được những hiệu quả về mặt nội dung và nghệ thuật biểu
hiện của truyện ngắn nữ hiện đại Việt Nam 2000 - 2015.
Thứ hai: Luận án đi sâu nghiên cứu đề tài trong sự liên hệ đa dạng với các
hình thái ý thức xã hội, đặc biệt là chính trị, lịch sử, xã hội học, mỹ học... để làm rõ
đặc trưng và bản chất của chủ nghĩa nữ quyền được thể hiện trong văn học. Từ đó,
có thể thấy được nét đẹp thẩm mỹ và nhân văn trong đời sống thông qua hình tượng
nhân vật nữ trong tác phẩm với những đặc điểm giới tính đa dạng: dịu dàng,

3


lãng mạn nhưng cũng đầy cá tính, phóng khoáng. Đó là nét đẹp hồn hậu của
người phụ nữ Việt Nam: chân thành, sâu sắc, thủy chung với thiên chức làm vợ,
làm mẹ; và thể hiện quyền được sống, quyền được yêu và được hạnh phúc.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
Từ hướng tiếp cận Phê bình văn học nữ quyền, để triển khai đề tài, chúng
tôi vận dụng các lý thuyết nghiên cứu hỗ trợ như phân tâm học, tự sự học, phê
bình nữ quyền sinh thái để cộng hưởng giải mã truyện ngắn nữ Việt Nam giai
đoạn 2000 - 2015. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp chuyên
ngành sau:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: đây là phương pháp có tính xuyên suốt
trong toàn bộ luận án để phân tích và so sánh, chỉ ra tinh thần và âm hưởng nữ
quyền trong ý thức nghệ thuật của từng tác giả và tác phẩm tiêu biểu.
- Phương pháp cấu trúc, hệ thống: đây là phương pháp đặc biệt có ý nghĩa
trong việc mô hình hóa và hệ thống hóa các quan điểm về nữ quyền trong truyện
ngắn nữ Việt Nam từ trung đại cho đến hiện đại.
- Phương pháp loại hình: đây là phương pháp cơ bản để xác định được đặc
trưng của lối viết nữ, cá tính sáng tạo của một số cây bút nữ tiêu biểu thông qua

đặc trưng truyện ngắn - thể loại có nhiều yếu tố tích hợp nghệ thuật mới mẻ của
thời hiện đại.
- Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng lý thuyết Thi pháp học làm phương
pháp hỗ trợ để nghiên cứu các yếu tố nổi trội của nội dung và hình thức, hai bình
diện tạo nên chỉnh thể tự trị của truyện ngắn nữ Việt Nam giai đoạn này.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm bản chất về nội dung và hình thức tác phẩm phản ánh
ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền mạnh mẽ nhất mà các nhà văn nữ đã ý
thức thể hiện qua từng quan hệ và bước ngoặt chuyển mình của đời sống xã hội.
- Nghiên cứu đặc điểm của lối viết nữ khi thể hiện các chủ đề giới và nội
dung giới trong nhiều mối quan hệ bản chất và tương tác để làm thành đặc sắc và
thi pháp riêng của truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015.

4


4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Kế thừa nền tảng lý thuyết nữ quyền/ phê bình văn học nữ quyền, luận án
đi sâu nghiên cứu về lối viết nữ thông qua đặc trưng thể loại. Từ đó, xác lập vị
thế, đóng góp nổi bật của từng nhà văn nữ trong việc thể hiện ý thức phái tính và
âm hưởng nữ quyền hiện đại của truyện ngắn nữ giai đoạn 2000 – 2015.
- Bên cạnh đó, luận án còn so sánh, đối chiếu, phân tích âm hưởng nữ quyền,
làm rõ sự khác biệt cũng như những đóng góp của truyện ngắn nữ đương đại

2000 – 2015 so với truyện ngắn nữ giai đoạn trước năm 2000 và sau năm 2015.
5. Đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp mới sau đây:
- Hệ thống và lý giải một cách có cơ sở những vấn đề về nữ quyền trong
văn hóa và văn học, đặc biệt là trong truyện ngắn nữ Việt Nam giai đoạn 2000 –

2015. Từ đó, luận án khẳng định ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong
văn học đương đại là một bước tiến/ hệ quả tất yếu của xu hướng bình đẳng hóa,
dân chủ hóa trong xã hội và trong văn học mà các nhà văn nữ đã ý thức sâu sắc
và thể hiện rất có hiệu quả trong sáng tạo.
- Đề tài nghiên cứu thực tiễn sáng tác truyện ngắn của các nhà văn nữ, đặc
biệt là trong giai đoạn từ 2000 - 2015 để thấy được sự cách tân trong việc thể
hiện nội dung và hình thức tác phẩm. Qua đó, chỉ ra những đóng góp nổi bật của
các nhà văn nữ Việt Nam trong việc phát huy và phát triển dòng văn học nữ
quyền đã hiện diện từ trước đến nay.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án được
chia thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ở chương này, chúng tôi sẽ đi sâu vào tình hình nghiên cứ lý thuyết nữ
quyền ở thế giới và ở Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi còn tổng thuật, làm sáng rõ
về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ
quyền từ trước đến nay qua các giai đoạn, qua đó, khẳng định những thành tựu

5


và hạn chế của các công trình đi trước. Từ đó, đề xuất những hướng nghiên cứu
mới và hướng nghiên cứu bổ sung cho luận án của chúng tôi, chủ yếu ở hướng
tiếp cận phê bình văn học nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền sinh thái.
Chương 2: Lý thuyết nữ quyền, Phê bình văn học nữ quyền và ý thức nữ
quyền trong văn học Việt Nam
Ở chương này, chúng tôi quan tâm và đi sâu tìm hiểu lý thuyết nữ quyền và

phê bình văn học nữ quyền, đặc biệt là sự gắn bó mật thiết của phê bình văn học
nữ quyền với truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Trong đó, cần làm rõ vấn đề nữ

quyền, nguồn gốc và khái niệm; sự xuất hiện của chủ nghĩa nữ quyền và sự phát
triển của quyền lực nữ quyền; lịch sử phát triển của chủ nghĩa nữ quyền đồng
thời, làm rõ bản chất của lý thuyết giới, lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học
nữ quyền. Sau cùng là tìm hiểu khái quát sự thể hiện ý thức nữ quyền trong văn
học Việt Nam từ truyền thống cho đến hiện đại.
Chương 3: Các kiểu nhân vật nữ mang đặc trưng giới trong truyện ngắn nữ
Việt Nam 2000 - 2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền
Trong chương này, chúng tôi trình bày hệ thống thế giới nhân vật đa dạng,
phong phú đầy “thiên tính nữ” đóng vai trò quan trọng trong việc làm rõ ý thức
phái tính trong văn học hiện đại Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ
quyền. Đó là nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do; thiên
tính làm mẹ và khát vọng tình yêu; bản năng tính dục và nhu cầu giải phóng tính
dục; khát vọng giải phóng bản thân cùng mối liên hệ với môi trường sinh thái.
Chương 4: Phương thức nghệ thuật của truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền
Ở chương này, chúng tôi đi sâu phân tích về giọng điệu nghệ thuật; điểm nhìn
trần thuật; diễn ngôn nghệ thuật có liên quan đến nữ quyền trong các truyện ngắn
tiêu biểu của các tác giả nữ Việt Nam 2000 - 2015. Từ đó, khẳng định lối viết nữ
cùng phương thức nghệ thuật trần thuật đã và đang chiếm một vị trí đặc biệt quan
trọng trong việc cách tân thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại và đương đại.

6


NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền
1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền trên thế giới
Nghiên cứu về lý thuyết nữ quyền là nghiên cứu về sự đấu tranh để đạt
được quyền bình đẳng giới trên tất cả mọi phương diện của đời sống xã hội và

tinh thần. Nói một cách khác: “Lý thuyết nữ quyền tập trung phân tích sự bất
bình đẳng giới. Chủ đề khám phá trong phong trào nữ quyền bao gồm phân biệt
đối xử, áp bức, chế độ phụ hệ, rập khuôn, lịch sử nghệ thuật và nghệ thuật đương
đại, và thẩm mỹ” [115].
Ở phương Tây, ngoài những tác phẩm viết về nữ quyền nổi tiếng như Giới
thứ hai (1949) của Simone de Beauvoir, Một căn phòng riêng của Virginia
Woolf (1929), Sự xác minh về các quyền của phụ nữ (A Vindication of the Right
of Women, 1792) của Marie Wollstonerast, Cuốn sổ tay vàng (The Golden
Notebook, 1979) của Doris Lesing, thì còn phải kể đến học thuyết Phân tâm học
của Sigmund Freud và Phân tâm học cấu trúc của Jacques Lacan. Freud với
“mặc cảm Oedipus” đã phân định ra đặc trưng trong tính cách nam và nữ: nam
giới chủ động và chiếm hữu còn nữ giới thì bị động, lệ thuộc.
Có thể nói, Marie Wollstonerast đã mở ra một chương mới với lý thuyết nữ
quyền trong cuốn Sự xác minh về các quyền phụ nữ năm 1972 bao gồm các
nghiên cứu sau: “Phụ nữ đang thay đổi”, “Không phải tôi là một phụ nữ”,
“Speech sau khi bắt giữ bất hợp pháp cho quyền biểu quyết”. Còn Nancy Cott
thì tuyên truyền cho quyền bầu cử của phụ nữ vào năm 1920. Và như vậy, người
phụ nữ trong xã hội đã được tôn trọng và đóng vai trò như một thực thể với các
quyền lợi về chính trị như nam giới. Tác giả Jean Baker Miller thì nổi tiếng với
tâm lý học nữ quyền. Bà xem lý thuyết nữ quyền luôn gắn với tâm lý người phụ
nữ, nó quyết định mọi hành động sau này.

7


Ở Mỹ, cuốn A handbook of Critical Approaches to Literature (1979) (Sổ
tay về các phương pháp phê bình văn học) của tác giả Wilfried L. Guerin, Earle
Larbor, Morgan do nhà xuất bản Oxford ấn hành giúp người đọc hiểu về các
khuynh hướng phê bình nữ quyền cụ thể và sâu sắc.
Tác phẩm The New Feminist Criticism (1985) (Lý thuyết phê bình nữ quyền mới)

của Elaine Showalter với hơn 300 bài tiểu luận và nghiên cứu có giá trị về phê bình nữ
quyền ở Mỹ được đánh giá cao. Theo tác giả, nghiên cứu lý thuyết nữ quyền bao gồm
nhiều giai đoạn khác nhau như “phê bình nữ quyền”, “lý thuyết giới”...

Nhà nghiên cứu Robert Con Davis với Contemporary Literary Criticism (Phê
bình văn học đương đại) với phần “Biện chứng giới” về nữ quyền được phân tích một
cách sâu sắc. Cuốn Feminism and Autobiography (Nữ quyền và tự truyện) do Tess
Cosslett, Celia Lury và Penny Summerfield biên soạn, được xuất bản năm 2000 tại
Anh, Mỹ và Canada là công trình nghiên cứu về nữ quyền sâu sắc, có giá trị.

Đối với phê bình nữ quyền thì chủ nghĩa nữ quyền (Feminism) ra đời là hệ
quả tất yếu của phong trào cách mạng tư sản cận đại, có bề dày phát triển hơn hai
trăm năm. Một số phong trào về nữ quyền có sức ảnh hưởng lan tỏa rộng lớn đến
khắp thế giới. Tiêu biểu, khi Đại cách mạng tư sản Pháp bùng nổ, vào tháng 10
năm 1789, một nhóm phụ nữ xông thẳng vào trụ sở Quốc dân đại hội, đòi quyền
nam nữ bình đẳng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, đa số các nước đều xác
nhận nam nữ bình quyền trong Hiến pháp. Chủ nghĩa nữ quyền giai đoạn này có
ảnh hưởng to lớn đến văn học. Tiêu biểu, năm 1964, nữ tác gia người Anh Mary
Astell với tác phẩm Một đề nghị nghiêm túc cho quý bà. Năm 1970, nữ tác gia
Pháp Olympe de Gouges đã phát biểu Tuyên ngôn quyền lợi phụ nữ bao gồm 17
điều yêu cầu của giới phụ nữ. Đến năm 1792, nữ kịch tác gia người Anh Mary
Wollstonecraft viết công trình Biện hộ cho nữ quyền. Năm 1872, nhà văn Pháp
Alexandre Dumas công bố luận văn Bàn về phụ nữ với những nội dung mới mẻ,
cập nhật. Bên cạnh đó là những công trình có giá trị khác: Judith Sargent Murray
với tiểu luận Bàn về sự bình đẳng giới năm 1790; Virginia Woolf với Căn phòng
riêng (1929), Ba đồng ghi nê (1938)...

8



Chủ nghĩa nữ quyền chỉ thực sự trở nên có sức lan tỏa mạnh mẽ thông qua
tác phẩm “kiệt xuất” của nữ văn sĩ người Pháp Simone de Beauvoir: Giới thứ
hai (1949). Trong tác phẩm của mình, Beauvoir chỉ trích gay gắt nền văn hóa
phụ hệ đã đẩy người phụ nữ ra ngoài lề của xã hội cũng như của văn học nghệ
thuật. Và trong tư tưởng của nền văn hóa ấy, nam giới luôn gắn liền với nhân
loại, lịch sử, còn phụ nữ thì bị nhìn nhận như một “kẻ khác” (the Other), luôn ở
thế bị động, phụ thuộc, phải dựa hoàn toàn vào nam giới. Với nội dung phân tích
sự áp bức và yêu cầu cao hơn nữa để giải phóng phụ nữ trong đời sống xã hội,
Giới thứ hai đóng vai trò quan trọng thúc đẩy phong trào phụ nữ chuyển sang
một bước tiến mới. Nhờ vậy, Liên hiệp quốc đã tuyên bố năm 1975 là Năm quốc
tế phụ nữ. Với tiêu đề công trình của mình, bà không dùng Giới nữ mà lại dùng
Giới thứ hai. Theo bà, Giới nữ gắn liền với những quan niệm tất yếu của xã hội:
đó là mềm yếu, dễ thuyết phục... và đó là sản phẩm của xã hội và văn hóa, của
thế giới đàn ông cố tạo nên quy chuẩn ngầm cho phụ nữ. Simone de Beauvoir
phải dùng Giới thứ hai để giảm nhẹ thiên kiến của xã hội gán ghép cho giới nữ.
Do đó, bà kêu gọi các văn sĩ hãy dùng sức mạnh ngôn từ đấu tranh chống lại sự
khống chế của nam giới, của định kiến xã hội, chứ không chịu an phận trong
những ngôn từ quy thuận của mình.
Giới thứ hai được xem là một “bản tuyên ngôn nữ quyền” của giới nữ, vốn
không được xem trọng trong xã hội thời bấy giờ. Nội dung của tác phẩm nói về
những vấn đề mà phụ nữ bị áp bức, kìm hãm lâu dài dẫn đến trở thành giới ít
quan trọng hơn (giới thứ hai) so với nam giới (giới thứ nhất). Đối với Beauvoir,
trong Giới thứ hai, bà xem phụ nữ như là tha nhân và giới đóng vai trò quan
trọng trong xã hội. Bên cạnh đó, bà đã khám phá ra được thân phận phụ nữ,
người phụ nữ có một vai trò bất di bất dịch trong xã hội chính là “tha nhân” của
đàn ông. Từ đó, tạo nên một quan hệ bất bình đẳng (phụ nữ bị áp bức một cách
phổ biến) và cần phải giải quyết sự bất công trong quan hệ đó.
Cái hay của Beauvoir trong Giới thứ hai là bà vận dụng nhiều kiến thức về
triết học, sinh học, thần thoại học, nhân loại học, lịch sử, phân tâm học để chứng


9


minh cho luận điểm của mình. Ví như, khi bàn luận về sinh học và lịch sử, bà chỉ
ra phụ nữ phải trải qua một số hiện tượng đặc thù như kinh nguyệt, thai nghén,
cho con bú. Điều này khiến cho phụ nữ khác biệt so với nam giới.
Nói tóm lại, Simone de Beauvoir được xem là người đi tiên phong, đặt nền
móng đầu tiên cho phong trào nữ quyền mới, mở ra một hướng đi tiến bộ cho
công cuộc giải phóng phụ nữ mà không hề lặp lại các phương pháp đấu tranh
truyền thống đã có trong quá khứ.
Hưởng ứng tinh thần của Beauvoir, hàng loạt bài viết về đấu tranh giành
quyền bình đẳng cho nữ giới ra đời, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của phong
trào phê bình nữ quyền. Các nhà văn nữ kêu gọi, thúc đẩy chủ trương “lấy thân
phận của phụ nữ để đọc”, khi đó tác phẩm văn học mới hạn chế được những
thiên kiến về nam quyền.
Tác giả Elaine Showalter, nhà phê bình văn học nữ quyền người Mỹ là
người đưa ra khái niệm “phê bình phụ nữ” vào những năm cuối thập niên 70.
Theo bà, khái niệm phê bình nữ quyền bao gồm nhiều yếu tố như lịch sử, thể
loại, phong cách, cấu trúc, tư tưởng… có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lối viết nữ. Bà
đã phân chia lịch sử lối viết nữ thành 3 giai đoạn cơ bản ứng với 3 thời kỳ phát
triển ý thức hệ đặc trưng của nữ giới. Đó là:
1. Giai đoạn tính nữ: đây là giai đoạn các tác giả nữ bị ảnh hưởng bởi văn
học truyền thống của nền sáng tác nam quyền từ năm 1840 đến năm 1880.
2. Giai đoạn nữ quyền: là giai đoạn các nhà văn nữ đứng lên đấu tranh
mạnh mẽ cho giới của mình, đồng thời thể hiện tiếng nói phản kháng những giá
trị truyền thống văn chương của nam giới từ năm 1880 đến năm 1920.
3. Giai đoạn văn học nữ: là giai đoạn giới nữ thể hiện những đặc trưng riêng
về lối viết, chống lại sự phụ thuộc nam giới và hình thành nên nền văn học nữ. Đây
là thời kỳ văn học quan tâm đến cuộc đời và số phận của nhân vật nữ để thấy rõ vai
trò của giới nữ từ lâu đã bị xem thường và lãng quên. Giai đoạn này kéo dài từ năm

1920 trở về sau. Như vậy, phê bình văn học nữ quyền chính là sự công nhận và bảo
vệ các quyền lợi hợp pháp của người phụ nữ đáng được hưởng.

Ở phương Đông, tiêu biểu là Nhật Bản, những nghiên cứu về nữ quyền vẫn
còn hạn chế dưới thời Minh Trị Duy Tân. Người phụ nữ Nhật rất chiều chuộng,

10


nhường nhịn phái nam. Tiêu biểu người vợ khi đón chồng về thường bắt đầu
bằng câu: “Anh muốn ăn tối ngay hay đi tắm trước?”. Như vậy, ngay cả trong
quan hệ gia đình, người phụ nữ cũng phải dùng kính ngữ, luôn hạ thấp mình
xuống một bậc so với đàn ông, người trụ cột trong gia đình. Người phụ nữ Nhật
Bản được xem là cam chịu, luôn ứng xử theo “tam tòng, tứ đức”, họ phải luôn
phục tùng đàn ông dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Theo Nguyễn Nam Trân, nhà nghiên cứu và dịch giả văn học Nhật Bản,
trong bản thảo biên khảo Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, chương "Khi văn
học Nhật Bản nhìn ra thế giới" thì: "Từ năm Showa 50 (1975) trở đi, trong bầu
không khí của phong trào tìm cách nới rộng quyền sống phụ nữ, các nhà văn phái
nữ đã có những hoạt động đáng kể. Đó là dòng văn học tranh đấu cho nữ quyền
(women rights), hay mạnh mẽ hơn nữa, thiên trọng phụ nữ (feminism)." [92, tr.
318]. Tiêu biểu là các nhà văn như Kono Taeko: "từ chối mẫu tính", đào sâu chủ
đề "thế giới của những dục vọng thầm kín và lệch lạc của con người", hay
Tsushima Yuko: "hình ảnh người đàn bà đơn độc nuôi con"...
Tuy vậy, có vẻ những tiếng nói ấy cũng chỉ là những lời ta thán về thân
phận người phụ nữ, kiểu "Đau đớn thay phận đàn bà / Lời rằng bạc mệnh cũng
là lời chung" (Truyện Kiều - Nguyễn Du), hay táo tợn lắm cũng chỉ là những lời
phản kháng đối với xã hội còn dung dưỡng duy trì những bất công về phái tính,
tạo ra những bi kịch, thảm kịch của phụ nữ. Những ta thán, phản kháng như thế
vẫn tiếp tục xuất hiện bàng bạc, không nhiều thì ít, trong tác phẩm của các nhà

văn phái nữ Nhật Bản thời nay.
Văn học Nhật Bản từng có dòng văn học nữ tính từ thời trung đại (thế kỉ
XI, thời Heian/ Bình an) cho đến thế kỉ XIII thì lắng xuống, mãi đến thế kỉ XIX
dưới thời đại Minh Trị mới trỗi dậy. Nhiều nhà văn nữ đóng góp đáng kể thành
tựu của mình cho nền văn học hiện đại và đương đại Nhật. Sono Avako, nữ tác
giả nổi tiếng với tác phẩm Người khách từ phương xa (1954). Trong đó, Sono
miêu tả nhân vật thiếu nữ 19 tuổi tỏ thái độ khinh thường những tên lính Mỹ
ngang tàng v.v..

11


Ở Trung Quốc, do ảnh hưởng Nho giáo nên người phụ nữ cũng bị áp chế
bởi những chế độ, định kiến xã hội rất hà khắc. Hiểu rõ hoàn cảnh ấy, những nhà
văn nữ trước Cách mạng Văn hóa như Đinh Linh, Băng Tâm… đã viết những tác
phẩm về nữ quyền, tạo ra được tiếng vang mạnh mẽ trong lịch sử văn học Trung
Quốc nhưng mới chỉ phát triển thành những xu hướng nhỏ lẻ. Theo nhà nghiên
cứu văn học Trung Quốc Tưu Tư Khiêm thì khái niệm “văn học nữ tính” là trào
lưu văn học ra đời từ sau phong trào văn hóa mới Ngũ Tứ, lấy nữ tính làm chủ
thể ngôn từ, chủ thể trải nghiệm, chủ thể tư duy, chủ thể thẩm mỹ. Hiện nay, văn
học nữ Trung Quốc đương đại với nhiều trào lưu như “Tiểu thuyết nữ tính chủ
nghĩa” (các nhà văn nữ ở lứa tuổi trung niên) và dòng văn học “linglei” (dòng
văn học nữ đầy phá cách, khác biệt so với dòng văn học chính thống) với những
nhà văn trẻ “bảo chứng” cho sự thành công của tác phẩm như: Xuân Thụ,
Trương Duyệt Nhiên, Trịnh Tiểu Quỳnh, Lý Sỏa Sỏa, nhà văn mạng Tào Đình…
Hầu hết các nhà văn đã thể hiện sự đa dạng, cách tân về thể loại như lồng vào tác
phẩm yếu tố tự truyện, đề tài tính dục, hình tượng người phụ nữ ở thành thị và
nông thôn với bút pháp tự do, phóng khoáng giúp cho các tác phẩm của họ mang
“hơi thở thời đại”, tạo cảm giác gần gũi với người đọc.
Cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc cũng là nơi bị ảnh hưởng nặng nề bởi Nho

giáo, nam giới vẫn đóng vai trò trụ cột và nắm giữ các vị trí quyền lực trong xã
hội, còn phụ nữ thì luôn bị xem thường, đối xử bất công. Cuối năm 1990 là thời
kỳ khủng hoảng kinh tế châu Á, nhiều người đàn ông bị mất việc. Người phụ nữ
đã dần độc lập, tự chủ về kinh tế, không còn lệ thuộc vào đàn ông. Đây cũng
chính là giai đoạn mà quyền bình đẳng giữa hai giới được nhấn mạnh, không
phân biệt giới tính, có quyền cống hiến và làm việc như nhau. Làn sóng nữ
quyền có thể nói đã trỗi dậy và tạo được tiếng vang, hiệu ứng mạnh mẽ nhất ở
Hàn Quốc là thông qua phim ảnh, băng hình, quảng cáo... Giới showbiz Hàn đã
có nhiều bộ phim tuyên truyền, ủng hộ cho bình đẳng giới. Những nhân vật nữ
không còn quá yếu đuối, nhu mì mà thay vào đó là những cô gái nghèo khó
nhưng mạnh mẽ, cá tính, luôn mang trong mình ước mơ, hoài bão vượt lên số

12


phận, thành công trong cuộc sống. Ở Hàn Quốc, tư tưởng trọng nam khinh nữ
vẫn còn tồn tại rất lớn, hầu như mọi công việc từ lớn đến nhỏ như dọn dẹp nhà
cửa, nội trợ, đưa đón, chăm sóc con cái, chăm sóc gia đình… đều do một tay
người phụ nữ quán xuyến, lo liệu. Người đàn ông về đến nhà chỉ việc đọc báo,
xem tivi hoặc chơi với con. Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng về giới, trong khi
cả hai giới đều làm việc, nhưng xem ra người phụ nữ xứ sở kim chi phải chịu vất
vả và nhiều thiệt thòi hơn đàn ông.
Tóm lại, tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền trên thế giới đã có những
bước phát triển đáng ghi nhận cùng nhiều tác phẩm viết về phê bình nữ quyền có
giá trị, làm nền tảng cho những công trình nghiên cứu về lý thuyết cũng như
công tác lý luận, phê bình về giới sau này ở Việt Nam.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu nữ quyền cũng diễn ra khá sớm, nhất là từ những
năm đầu thế kỷ XX.
Năm 1907 trên Đăng cổ tùng báo đã có mục “Nhời đàn bà” xuất hiện như

một diễn đàn của phụ nữ. Bà Đào Thị Loan, trong chuyên mục này, đã lên tiếng
về sự bất công trong hành xử của nam giới đối với phụ nữ. Cụ thể, bà cho rằng:
“Làm đàn ông phải ăn ở thế nào, cho đàn bà biết suy hơn quản thiệt, mà trọng
mình thì mới xướng (sướng), chớ cứ dốt (nhốt) vợ một só (xó) nhà, hơi lạc con
mắt đã lo nghĩ, là người hèn, chỉ muốn dùng sự trói buộc, mà thủ lấy tình riêng
một mình” [101].
Năm 1916, trên Trung Bắc Tân Văn trong mục “Nhời đàn bà”, Nguyễn Văn
Vĩnh cho rằng việc coi thường phụ nữ của người đàn ông Việt Nam là tự làm thiệt
mình bởi người phụ nữ được sinh ra để làm bạn, cùng chia sẻ công việc chứ không
phải làm “thân trâu ngựa”. Cũng trong năm 1916, Phạm Quỳnh cũng đánh giá cao
người phụ nữ trong gia đình với bài “Sự giáo dục đàn bà con gái” trên Đông
Dương tạp chí. Ông cho rằng phụ nữ bị đánh giá thấp bởi không có học thức, đó
chính là sự thiệt thòi của nữ giới, từ đó sinh ra các hệ quả khác trong xã hội.

13


Người quan tâm và thường xuyên viết về các vấn đề giải phóng phụ nữ, đó
chính là nhà báo Phan Khôi (1887 - 1959). Ông ủng hộ tinh thần giải phóng phụ
nữ thông qua một loạt bài như “Về văn học của phụ nữ Việt Nam” (Phụ nữ Tân
Văn số 1, ngày 2/5/1929), “Văn học với nữ tánh” (Phụ nữ Tân Văn số 2,
9/5/1929), “Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thạnh” (Phụ nữ Tân
Văn số 3, 16/5/1929)... Trong bài “Tống Nho với phụ nữ” in trên Phụ nữ tân văn
(1931), ông kêu gọi sự bình đẳng cho giới nữ trong hôn nhân, gia đình: “Cái luật
cấm cải giá là bất công, vô đạo, cướp mất quyền lợi đàn bà mà không bổ ích gì
cho phong hóa, nên phế trừ đi là phải” [57].
Bên cạnh đó, đấu tranh vì những bình đẳng về giới đã được các danh sĩ, các
nhà trí thức yêu nước thời đó đặc biệt quan tâm, trong đó có Phan Bội Châu với
Vấn đề phụ nữ được in ở Nxb Duy Tân thư xã, Huế (1929) đã chỉ ra những bất
bình đẳng của phụ nữ suy cho cùng là do nguyên nhân lịch sử - xã hội. Cũng

trong thời điểm đó, những vấn đề về phụ nữ của một số tác giả tiếp thu lý thuyết
tiên tiến từ phương Tây được quan tâm như: Trần Thiện Ty và Bùi Thế Phúc với
khuynh hướng phê bình nữ quyền “Âu hóa” trong Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam
(1932); Vấn đề phụ nữ của Nguyễn Thị Kim Anh (Nguyễn Thị Minh Khai), Nhà
xuất bản Tân Dân (1938); Bộ sách Đời chị em và Chị em gái làm gì của Cựu
Kim Sơn và Văn Huệ, Nxb Dân chúng (1938)... Nhìn chung, những bài viết trên
đều lên tiếng bảo vệ quyền phụ nữ, chỉ ra nguyên nhân của sự bất bình đẳng giới,
tuy rằng quan niệm của họ còn nằm trong phạm trù cũ, chưa thật sự mang tinh
thần nữ quyền hiện đại như sau này của các nhà nữ quyền hiện đại, cấp tiến.
Giai đoạn 1945 - 1975, cả nước bước vào hai cuộc chiến tranh thần thánh
của dân tộc: kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đã định hình rõ hai miền
Nam Bắc. Chính vì thế, công tác nghiên cứu lý thuyết và phê bình nữ quyền đã
có sự khác nhau ở hai miền: miền Bắc thường gắn liền đời sống hiện thực và
cách mạng còn đối với miền Nam thì đó chính là phê bình về văn xuôi đô thị,
gắn với đời sống thực dụng của xã hội tiêu dùng lúc bấy giờ.

14


Sau năm 1986, văn học giai đoạn Đổi mới đã chứng kiến những bước phát
triển “nhảy vọt” trong công tác nghiên cứu, phê bình về lý thuyết nữ quyền được
tiếp thu có chọn lọc từ phương Tây và vận dụng linh hoạt vào công tác phê bình
ở Việt Nam. Có thể thấy rằng, số lượng các tác giả với những công trình nghiên
cứu chuyên sâu và có chất lượng được “trẻ hóa”, không ngừng gia tăng về số
lượng và chất lượng từ sau năm 2000. Có thể kể đến một số tác giả đã thể hiện
những góc nhìn tham chiếu khác nhau trên nhiều lĩnh vực như về vấn đề nữ
quyền trong hôn nhân, gia đình. Tiêu biểu là tác giả Lê Ngọc Văn với “Nghiên
cứu gia đình - Lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới” (2005) được in bởi Viện
Khoa học xã hội nhân văn đã giới thiệu lịch sử hình thành tư tưởng nữ quyền,
một số quan điểm cơ bản, ứng dụng lý thuyết mới, lý thuyết nữ quyền... Tác giả

Hoàng Bá Thịnh trong tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới số 4 (2008) với bài
viết “Về các làn sóng nữ quyền và ảnh hưởng của nữ quyền đến địa vị của phụ
nữ Việt Nam” đã đi sâu phân tích về các làn sóng nữ quyền và địa vị của phụ nữ
Việt Nam hiện nay trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Tác giả khẳng
định: “Địa vị của người phụ nữ - dù trong xã hội truyền thống hay trong xã hội
hiện đại - đều chịu tác động của các yếu tố cơ bản như: chính trị, kinh tế, văn
hóa, tôn giáo. Tùy thuộc những yếu tố này phát triển như thế nào mà người phụ
nữ ở các nước khác nhau có được địa vị cao hay thấp trong đời sống gia đình và
xã hội” [119]. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các phong trào nữ quyền chính là
một phần, chứ không phải duy nhất quyết định mọi vấn đề về bình đẳng giới và
giải phóng phụ nữ ở Việt Nam. Yếu tố cốt lõi quyết định bình đẳng giới đó là các
chính sách, đường lối của Đảng về giới.
Tác giả Nguyễn Đăng Điệp với bài nghiên cứu nổi tiếng: “Vấn đề phái tính
và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại” (2006) đi sâu vào
một vấn đề phức tạp: vấn đề giới tính bởi nó có liên quan đến ý thức, chính trị,
tôn giáo trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Những yếu tố theo tác giả có ảnh
hưởng trực tiếp đến âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại:
ngôn ngữ có yếu tố nữ tính với những câu chuyện đời thường gần gũi, góc nhìn

15


cá nhân, đề tài tính dục và “lối viết bản năng”, “lối viết thân thể” thể hiện sự
“xông pha” của nữ giới trước những đề tài “nóng”, “cấm kỵ” nhất…
Ngoài ra, một cây bút phê bình văn học nữ quyền với tuổi đời còn trẻ đã đi sâu
phân tích ý thức nữ quyền trong đầu thế kỷ XX, một giai đoạn quan trọng trong tiến
trình phê bình về giới: tác giả Hồ Khánh Vân với bài nghiên cứu đáng chú ý như:
“Ý thức nữ quyền và sự phát triển của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại
hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ XX” (Tạp chí Nghiên cứu văn học, tháng 7/2010).
Theo tác giả, ý thức nữ quyền đã có sự manh nha từ đầu thế kỷ XX, phụ nữ chính là

đối tượng trung tâm và trọng yếu mà văn học hướng đến bởi phụ nữ chính là đối
tượng và phương thức sáng tác. Nữ tính và văn chương có mối quan hệ gắn bó chặt
chẽ với nhau trên nhiều phương diện, đặc biệt được thể hiện rõ trong văn học. Đáng
chú ý, bài viết đã thể hiện rõ những đặc trưn, diện mạo văn học nữ Nam Bộ giai
đoạn đầu thế kỷ XX đầy sôi nổi với các cây bút nữ trên nhiều mặt trận văn học lẫn
thi ca như Phan Thị Bạch Vân, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Nguyễn Thị Manh Manh…
Các tác giả nữ đã tạo nên một trào lưu văn học đầy mới mẻ, thúc đẩy sự phát triển
của các thể loại văn học mới, góp thêm tiếng nói về giới trong quá trình hiện đại hóa
ngôn ngữ văn học. Ngoài ra, tác giả Hồ Khánh Vân còn có những bài nghiên cứu
đáng chú ý khác như: “Từ quan niệm lối viết nữ (L’ecriture féminine) đến việc xác
lập một phương pháp nghiên cứu trong phê bình nữ quyền” - Niên giám Bình luận
văn học 2011 - Tạp chí Đại học Sài Gòn; “Một vài lý giải về hiện tượng tự thuật
trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nay” - Niên
giám Bình luận văn học 2012 - Tạp chí Đại học Sài Gòn… Cả hai bài viết này đều
đề cập đến sức hấp dẫn của lối viết nữ và hiện tượng tự thuật, đã dần trở nên phổ
biến trong những sáng tác của nữ giới.

Đối với trào lưu văn học hậu hiện đại, văn học Việt Nam hiện nay đã có sự
cách tân, chọn lọc trong việc tiếp thu nền tảng lý thuyết hậu hiện đại từ phương
Tây, đặc biệt là về phê bình nữ quyền. Tác giả Phương Lựu với công trình Lý
thuyết văn học hậu hiện đại xuất bản năm 2011, đã chỉ ra những tiền đề, sự phát
triển của lý thuyết và phê bình nữ quyền, đặc biệt là phê bình nữ quyền da đen.

16


Tác giả Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Việt Phương với bài viết “Lý thuyết đạo
đức về sự quan tâm - một điển hình của cách tiếp cận nữ quyền trong đạo đức học”,
Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, 2011 cho rằng hướng tiếp cận nghiên cứu nữ quyền
thông qua lý thuyết đạo đức là một hướng đi mới ở phương Tây nửa sau thế kỷ XX.

Đó chính là lý thuyết đạo đức của sự quan tâm (ethics of care) mà các tác giả đã đưa
vào trong công trình nghiên cứu của mình. Từ sự nghiên cứu các công trình nữ
quyền về đạo đức, người viết đã chỉ ra được sự khác biệt trong việc tiếp nhận lý
thuyết đạo đức có sự khác biệt giữa hai phái. Vấn đề đạo đức được nữ giới quan
tâm và chú trọng hơn trong khi xu hướng bạo lực gia đình, cưỡng bức tình dục, hôn
nhân bất bình đẳng lại nghiêng về nam giới nhiều hơn. Khái niệm về “sự quan tâm”
bao gồm cả những vấn đề về tình cảm và nhận thức, nữ giới vẫn có những đặc tính
và những giá trị vượt trội riêng biệt. Nghiên cứu về lý thuyết đạo đức là một hướng
đi đúng đắn và phù hợp bởi “Lý thuyết này không chỉ đòi hỏi sự bình đẳng cho nữ
giới trong cấu trúc xã hội, mà xa hơn đòi hỏi một sự nhìn nhận đúng đắn hơn, công
bằng hơn và nhân văn hơn từ phía nam giới về những trải nghiệm đặc trưng của nữ
giới, để từ đó có thể khám phá những giá trị phong phú, tầm quan trọng và ý nghĩa
đạo đức của sự quan tâm” [44].

Tác giả Nguyễn Thị Bình với “Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương
đại”, tạp chí Nghiên cứu văn học, 2011; tác giả Phan Tuấn Anh với Quá trình
giải phóng thiên tính nữ trong văn học nghệ thuật từ góc nhìn mỹ học tính dục.
Cả hai bài viết của Nguyễn Thị Bình và Phan Tuấn Anh đều nghiên cứu chuyên
sâu về yếu tố thiên tính nữ và yếu tố tính dục trong văn học.
Tác giả Đặng Thị Vân Chi với “Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ
XX”, được in trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam lần thứ nhất (2012). Bài
viết đã chỉ ra được những vấn đề cốt yếu, trọng tâm làm nền tảng của sự xuất
hiện tư tưởng nữ quyền ở Việt Nam cùng sự phát triển nhận thức của người phụ
nữ Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thông qua bài viết, tác giả đã đúc kết được những
kết luận có giá trị. Thứ nhất, vấn đề phụ nữ ở Việt Nam là một vấn đề được lưu
tâm từ những năm đầu thế kỷ XX chứng tỏ vai trò quan trọng của người phụ nữ
trong gia đình và xã hội. Thứ hai, vấn đề phụ nữ ở Việt Nam, vấn đề nữ quyền

17



luôn gắn với vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp. Thứ ba, nữ giới đã sớm nhận thức
được vai trò của mình thông qua sự xuất hiện của những tờ báo dành riêng cho
giới của mình. Thứ tư, quá trình tự nhận thức của người phụ nữ đã dẫn đến
những biến chuyển tích cực về các phong trào đòi quyền bình đẳng, giải phóng
phụ nữ, giải phóng dân tộc lúc bấy giờ.
Tác giả Bùi Thị Tỉnh với sách tham khảo Phụ nữ và giới đã đi sâu phân tích
về chủ nghĩa hiện sinh, đi tìm ngọn nguồn về giới trong lịch sử, những sự khác
biệt mang tính huyền thoại về giới. Trong hầu hết các trang viết trong sách tham
khảo của mình, tác giả Bùi Thị Tỉnh đều nhắc đến vai trò của giới, các cuộc cách
mạng về giới và chủ nghĩa giới chính là luân lý của chủ nghĩa hiện sinh, sự gắn
bó mật thiết của chủ nghĩa hiện sinh đối với những mục tiêu của sự giải phóng
phụ nữ. Simone de Beauvoir chính là đại diện tiêu biểu của luân lý hiện sinh, là
người mở đầu cho luân lý hiện đại về giới và nữ quyền. Chính luân lý về sự lo âu
đã làm nền tảng hướng tới tự do và con người phải được tự do. Ngoài ra, các vấn
đề về tự do, tính độc đáo của “Cái tôi” nhân vị (“cái tôi” độc đáo, độc lập, không
lặp lại bất kỳ ai) cũng chính là những yếu tố cơ bản để giải phóng phụ nữ. Như
vậy, Phụ nữ và giới chính là một tài liệu tham khảo về giới, bình đẳng giới và
giải phóng phụ nữ đầy tính trọn vẹn và hiệu quả. Một công trình nghiên cứu xuất
hiện trong thời gian gần đây cũng đã tạo tiếng vang: Nữ quyền luận ở Pháp và
tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại (2016) của Trần Huyền Sâm. Đây là một công
trình nghiên cứu về nữ quyền luận tương đối chi tiết, công phu từ tiểu thuyết một thể loại được thể hiện tương đối toàn diện, đa dạng các sắc thái nữ quyền
nhìn từ phương diện diễn ngôn và các dạng thức trần thuật. Tính chất tự thuật
được nghiên cứu sâu trong công trình như là một hình thức giải phóng cái tôi nữ
giới. Trong đó, có thể thấy được rằng diễn ngôn thân thể là một phạm trù thuộc
về nữ quyền, cần có hướng nghiên cứu chuyên sâu hơn từ sự gợi mở của công
trình này.
Ngoài những công trình nghiên cứu về phê bình lý thuyết nữ quyền còn có
một số luận án, luận văn văn học có liên quan đến vấn đề ý thức về giới như:


18


×