Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 165 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT

CON NG¦êI Vµ Tù NHI£N TRONG V¡N XU¤I VIÖT
NAM
SAU N¡M 1975 Tõ GãC NH×N PH£ B×NH SINH
TH¸I
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 62.22.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lê Lưu Oanh


HÀ NỘI - 2015


LI CM N

Luận ỏn đ-ợc hoàn thành d-ới sự h-ớng dẫn khoa học của PGS - TS Lê
L-u Oanh. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn PGS cùng tập thể các nhà khoa
học thuộc chuyên ngành Lí luận văn học, Tr-ờng Đại học S- phạm Hà Nội đã
giúp đỡ chúng tôi trong quá trình nghiên cứu.
Ng-ời viết cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ, chia sẻ của bạn bè, đồng môn
và những ng-ời thân trong thời gian thực hiện luận ỏn.
Luận ỏn đ-ợc viết bằng niềm yêu thích đặc biệt với vấn đề nghiên cứu,
tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi mong nhận đ-ợc những
nhận xét, góp ý từ bạn đọc.



Tác giả

Trn Th nh Nguyt


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, đƣợc
hoàn thành với sự hƣớng dẫn và giúp đỡ tận tình của nhiều nhà khoa học. Các
số liệu, kết quả đƣợc trình bày trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.

Tác giả luận án

Trần Thị Ánh Nguyệt


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 2
3. Nhiệm vụ của luận án .................................................................................... 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 3
5. Những đóng góp mới của luận án ................................................................. 3
6. Cấu trúc của luận án ...................................................................................... 4
Chương 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ..................................... 5
1.1. Phê bình sinh thái – Một khuynh hướng mới trong phê bình văn học....... 5

1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái .............................................................. 5
1.1.2. Lịch sử phê bình sinh thái ................................................................... 7
1.1.3. Phê bình sinh thái - một khuynh hướng nghiên cứu văn học ........... 15
1.2. Lịch sử phê bình mối quan hệ con người với tự nhiên trong văn
học Việt Nam.................................................................................................. 22
1.2.1.Các công trình nghiên cứu ................................................................. 22
1.2.2. Phê bình sinh thái – những khởi đầu mới mẻ ................................... 23
Chương 2: KHUYNH HƯỚNG VĂN XUÔI SINH THÁI VIỆT NAM .. 31
SAU NĂM 1975 ............................................................................................. 31
2.1. Những tiền đề lịch sử xã hội của văn học sinh thái Việt Nam ........... 31
2.2. Sự hình thành của văn xuôi sinh thái sau năm 1975 .......................... 32
2.2.1. Giai đoạn manh nha .......................................................................... 32
2.2.2. Giai đoạn hình thành ý thức sinh thái .............................................. 34
2.3. Những thay đổi trong cách thể hiện mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên...................................................................................................... 39
2.3.1. Thay đổi điểm nhìn ............................................................................ 40
2.3.2. Thay đổi motif cốt truyện .................................................................. 45
2.3.3. Thay đổi tính chất của nhân vật ........................................................ 48
2.3.4. Thay đổi giọng điệu........................................................................... 49


Chương 3: CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TỪ ĐIỂM NHÌN PHÊ BÌNH
SINH THÁI .................................................................................................... 55
3.1. Ý thức về con người "tội đồ" trong mối quan hệ với tự nhiên .......... 55
3.1.1. Thống trị tự nhiên.............................................................................. 55
3.1.2. Chiếm đoạt không gian hoang dã ..................................................... 61
3.2. Ý thức về con người nạn nhân trong mối quan hệ với tự nhiên ........ 68
3.2.1. Số phận con người trong những thảm họa tự nhiên ......................... 68
3.2.2. Niềm kính sợ với sinh mệnh tự nhiên ................................................ 74
3.3. Ý thức về con người tha hóa.................................................................. 77

3.3.1. Ý thức sinh thái giai cấp ................................................................... 78
3.3.2.Ý thức sinh thái nữ quyền ................................................................... 82
3.4. Ý thức về nỗi bất an sinh thái ............................................................... 89
3.4.1. Cái nhìn phản lãng mạn về nông thôn .............................................. 89
3.4.2. Nỗi bất an đô thị................................................................................ 94
Chương 4: KIẾN LẬP CẢM QUAN ĐẠO ĐỨC SINH THÁI ............... 101
4.1. Sự trở lại và nối dài diễn ngôn lãng mạn về tự nhiên ....................... 101
4.1.1. Tiền đề từ các diễn ngôn phương Đông .......................................... 101
4.1.2. Mĩ hóa, lí tưởng hóa cái tự nhiên ................................................... 104
4.1.3. Nhận thức về quê hương như là môi trường sinh thái .................... 112
4.1.4. Văn học đồng quê về những người nghèo khổ ................................ 116
4.2. Nhận diện mẫu hình nhân cách cho chủ nghĩa nhân văn sinh thái 125
4.2.1. Lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên ...................................................... 125
4.2.2. Đồng cảm với thế giới tự nhiên bị thương tổn ................................ 132
4.2.3. Tiếng nói của những thân phận bé nhỏ .......................................... 136
KẾT LUẬN .................................................................................................. 143
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu văn học sau khi “trở về chính mình” với những lí thuyết nhƣ chủ
nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hình thức, phê bình mới… chủ yếu quan tâm đến những
phƣơng diện nội tại của tác phẩm dƣờng nhƣ nhiều khi trở nên tự thu hẹp, khó tiếp
cận với những vấn đề đƣơng đại rộng lớn. Mặt khác, các trƣờng phái nghiên cứu
văn học hiện nay với những mối bận tâm về con ngƣời: phê bình phân tâm học, phê
bình Marxism , lí thuyết tiếp nhận… trên thực tế đã đạt đƣợc nhiều thành tựu nhƣng

có lẽ “đang trong giai đoạn thác ghềnh và thỉnh thoảng mất phƣơng hƣớng” [150,
xvii]. Cần phải tìm một hƣớng đi khác cho nghiên cứu văn học. Do vậy hiện nay,
bên cạnh những hƣớng nghiên cứu văn học trƣớc đó vẫn đang có những tìm tòi mới
mẻ và đạt đƣợc nhiều thành tựu thì cũng xuất hiện sự chuyển hƣớng văn hóa trong
nghiên cứu văn học, xuyên qua văn học để quan sát sự đổi thay văn hóa, nghiên cứu
ý thức văn hóa đƣợc thể hiện nhƣ thế nào trong văn học, nghiên cứu ý thức về xã
hội, ý thức về môi trƣờng thể hiện trong văn học.
Thế kỉ XXI là thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con ngƣời phải đối
mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất. Trong xã hội hiện đại, cùng với tốc độ đô thị
hóa và sự ỷ lại vào khoa học kĩ thuật con ngƣời đang ngày càng quay lƣng với tự
nhiên, khai thác quá mức, khiến cho tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Thiên nhiên trả
thù con ngƣời không phải chỉ bằng các thảm họa, thiên tai, mà đáng sợ hơn, trả thù
bằng sự biến mất của chính nó. Cái “dây chuyền sống” huyền diệu của tạo hóa đang
ngày càng bị phá hủy. Phê bình sinh thái (ecocritisim) nổi lên khi vấn đề biến đổi
khí hậu, sự xuống cấp về môi trƣờng không còn là vấn đề của mỗi quốc gia dân tộc
nữa, nó ảnh hƣởng đến sự sống. Văn học quan tâm đến sự sống cho nên khúc ngoặt
của phê bình sinh thái xét đến cùng lại liên quan đến bản thể của văn học.
Trên thế giới, khởi phát từ Anh – Mĩ, phê bình sinh thái đang là một trào lƣu
năng động hiện nay, thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều hơn các nƣớc ngoài phƣơng
Tây. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ của tình trạng biến đổi khí hậu,
nƣớc biển dâng, mƣa bão, lũ lụt... Sống ở vùng đất nhạy cảm với những đổi thay của
môi trƣờng, hẳn nhiên điều đó sẽ ánh xạ vào tác phẩm, nhất là với nhà văn đa cảm, trắc
ẩn. Ý thức sinh thái này đã đƣợc nhiều tác giả văn xuôi sau năm 1975 đề cập đến: sự
hủy hoại môi sinh dẫn tới việc mất cân bằng tự nhiên; quá trình đô thị hóa, nền kinh tế
thị trƣờng khiến con ngƣời rời xa môi trƣờng sinh thái, con ngƣời trở thành nạn nhân,
công cụ của thƣơng mại… Do vậy văn học có khuynh hƣớng tìm về biểu hiện mối


2
quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên, có một tƣ duy sinh thái trong việc nhận diện, phân

tích và thể hiện những nỗi đau môi trƣờng, số phận con ngƣời trong cuộc khủng hoảng
môi sinh cũng nhƣ hƣớng con ngƣời sống có trách nhiệm với thiên nhiên, biết hòa
mình vào tự nhiên để đƣợc thanh thản, cân bằng trong cuộc sống…Từ hƣớng nghiên
cứu này, có một cách tiếp cận riêng trên con đƣờng khám phá một trong những hấp dẫn
của văn học Việt Nam sau 1975 và qua đó kết nối văn học với những vấn đề thiết cốt
của nhân loại về trách nhiệm của con ngƣời trong khủng hoảng môi sinh.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài luận án là Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm
1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái. Mối quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên
chúng tôi hiểu nhƣ sau:
Thứ nhất, từ cái nhìn sinh thái, chúng tôi xem xét mối quan hệ giữa con
ngƣời và những yếu tố tự nhiên. Phê bình sinh thái cảnh tỉnh về nguy cơ của khủng
hoảng sinh thái. Do vậy, đề tài xem xét quan hệ con ngƣời với thực thể tự nhiên để
phân tích số phận con ngƣời trong cuộc khủng hoảng môi sinh, đồng thời chỉ ra
những căn nguyên của những thảm họa môi trƣờng. Mặt khác, vấn đề tự nhiên bao
giờ cũng có mối liên hệ với xã hội. Do vậy, luận án cũng xem xét sự kết nối tính
sinh thái với các vấn đề xã hội để thấy hành trình bóc lột tự nhiên có mối liên hệ với
hành trình bất công xã hội. Từ đó, phê bình sinh thái đặt ra nhiều vấn đề về sự bất
công môi trƣờng, về nông thôn và thành thị, những vấn đề áp bức phụ nữ, vấn đề
giai cấp... Từ thực trạng suy thoái môi trƣờng cần thức tỉnh ý thức sinh thái và tạo
ra những góc nhìn khác về sự sống mà có thể cung cấp nền tảng đạo đức và kiến
thức cho cách hiểu đúng đắn về tƣơng quan giữa các tồn tại trên trái đất.
Thứ hai, từ cái nhìn sinh thái dƣới góc độ văn học, chúng tôi "đọc" các mã
văn học thể hiện ý thức sinh thái trên các phƣơng diện chủ đề, motif cốt truyện,
nhân vật, cảm hứng, ngôn ngữ và giọng điệu. Từ đó chỉ ra những đặc điểm của văn
học sinh thái nhƣ là một xu hƣớng văn học có tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và
chứa đựng bên trong những nhân tố cách tân văn học.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Dựa trên phê bình sinh thái Anh-Mĩ, hƣớng tiếp cận nảy sinh trong thời đại

khủng hoảng môi trƣờng, đề tài chỉ ra những điểm có thể vận dụng lí thuyết phê
bình sinh thái để nghiên cứu dựa trên văn xuôi hƣ cấu sau năm 1975, chủ yếu là
truyện ngắn và tiểu thuyết làm đối tƣợng khảo sát chính. Từ đó để thấy sự phản ứng
của văn học trƣớc những khủng hoảng sinh thái đang diễn ra.


3
3. Nhiệm vụ của luận án
- Khảo sát các tác phẩm văn xuôi sinh thái sau năm 1975; phân tích các tác
phẩm dƣới góc nhìn của phê bình sinh thái
- Đƣa ra một cái nhìn toàn cảnh về văn học sinh thái Việt Nam sau năm 1975
- Khảo sát những bình diện khác nhau của khuynh hƣớng văn xuôi sinh thái
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phƣơng pháp đƣợc sử dụng nhƣ những thao tác thƣờng xuyên
trong nghiên cứu văn học nhƣ thống kê – phân loại, phân tích, tổng hợp, so sánh
(đồng đại, lịch đại), chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp sau:
4.1. Phương pháp luận
- Vận dụng "cảm quan nhìn lại" của phê bình sinh thái làm tiền đề để nhận
thức mối quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên xung quanh nhƣ một thực thể của
chỉnh thể sinh thái. Sự nhận thức lại này sẽ giúp chúng ta nhận diện rõ hơn mối
quan hệ giữa tự nhiên và văn hóa.
- Phương pháp liên ngành: Phê bình sinh thái là một hƣớng nghiên cứu liên
ngành, kết hợp văn học với khoa học, phân tích tác phẩm văn chƣơng để rút ra những
cảnh báo môi trƣờng. Luận án vận dụng những kiến thức của các ngành khoa học (sinh
thái học, dân tộc học, sử học, triết học, chính trị, đạo đức...), một số loại hình nghệ thuật
khác (điện ảnh, âm nhạc…) để hiểu và lý giải một số quan điểm của các tác phẩm.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu khác
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại đã đƣợc vận
dụng để nhận diện khuynh hƣớng văn xuôi sinh thái qua điểm nhìn, motif cốt
truyện, nhân vật, giọng điệu.

- Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Phƣơng pháp này giúp xem xét mối
quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên hệ thống mà cụ thể là những dấu hiệu lặp lại
có tính quy luật của những yếu tố ấy. Trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố, tính chỉnh
thể sẽ đƣợc bộc lộ rõ.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Tổng thuật các nghiên cứu trên thế giới (chủ yếu là Anh-Mỹ) và Việt Nam
về phê bình sinh thái.
- Chứng minh có một khuynh hƣớng văn xuôi sinh thái sau năm 1975, đặc
biệt là sau năm 1986. Chỉ ra những đặc điểm của văn xuôi sinh thái nhƣ là một xu
hƣớng văn học có tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và chứa đựng những nhân tố cách
tân nghệ thuật.


4
- Khảo sát 2 bình diện của khuynh hƣớng văn xuôi sinh thái xác lập cho văn
chƣơng đƣơng đại, là 1) cảm hứng phê phán trên tinh thần sinh thái và 2) xác lập
đạo đức sinh thái.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chƣơng
Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Khuynh hƣớng văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975
Chương 3: Cảm hứng phê phán từ điểm nhìn phê bình sinh thái
Chương 4: Kiến lập cảm quan đạo đức sinh thái


5
Chương 1
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Phê bình sinh thái – Một khuynh hướng mới trong phê bình văn học
1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái

Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latin là nhà ở, nơi cƣ trú, bất kì một
sinh vật sống nào cũng cần nơi cƣ trú của mình.
Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, bao gồm
oikos (chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết, khoa học). Thuật ngữ “sinh thái học”
chỉ thật sự ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật học ngƣời Đức Ernst Haecker đƣa ra.
Ông là ngƣời đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học sinh thái về mối tƣơng quan
về động vật với các thành phần môi trƣờng vô sinh. Trải qua hàng trăm năm phát
triển, sinh thái học đã có rất nhiều định nghĩa nhƣng chung nhất vẫn là học thuyết
nghiên cứu về nơi sinh sống của sinh vật, mối tƣơng tác giữa cơ thể sinh vật sống và
môi trƣờng xung quanh. Ngày nay, sinh thái học không chỉ tồn tại trong sinh học mà
nó còn là khoa học của nhiều ngành khác, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn.
Với tƣ cách là một khuynh hƣớng phê bình văn hóa và văn học, phê bình
sinh thái (ecocriticism), đƣợc hình thành ở Mĩ vào giữa những năm 90 của thế kỉ
XX, đã hấp thu tƣ tƣởng cơ bản của sinh thái học vào nghiên cứu văn học “dẫn
nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học” [89].
Trong các định nghĩa về phê bình sinh thái, định nghĩa của Glotfelty đƣợc xem là
ngắn gọn và dễ hiểu hơn cả:
Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ
giữa văn học và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê bình nữ
quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxit
mang lại ý thức của phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc
văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là
trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu văn học [150, xviii].
Để hiểu rõ hơn định nghĩa này, chúng ta cần hiểu quan niệm của phê bình
sinh thái về con ngƣời/ tự nhiên, tự nhiên/ văn hóa, những vấn đề làm nên tƣ tƣởng
đặc thù của phê bình sinh thái. Về mặt từ nguyên, tự nhiên (nature) mà gốc Latin
của nó là natura, nghĩa là “đặc điểm thuộc về tự nhiên, vũ trụ” hay natus (sự sinh ra,
đƣợc sinh ra)… để phân biệt với thế giới đƣợc chế tạo, nhƣ các đồ vật đƣợc làm bởi
con ngƣời. Dẫu vậy, “tự nhiên” đã trở thành một diễn ngôn mơ hồ, luôn biến đổi, nó
là cái tồn tại mặc nhiên từ buổi hoang sơ, nhƣng cũng là cái đã bị con ngƣời sở hữu

và chiếm hữu theo nhiều cách. “Tự nhiên” do đó đã không còn là nó một cách


6
nguyên thủy, mà các yếu tố cấu thành nó ít nhiều đều bị quy định bởi con ngƣời.
Theo sự biến thiên này, cặp từ tự nhiên (nature)/ văn hóa (culture) không còn là sự
đối lập đơn giản mà có sự xuyên thấm lẫn nhau. Thật khó có một thứ gì đó có thể
phân loại rành mạch rõ ràng, nhất là cặp đôi “phiền phức” văn hóa/ tự nhiên. Peter
Barry đã chứng minh bằng cách lấy thí dụ, cái chúng ta gọi là „môi trƣờng bên
ngoài‟ là một chuỗi các khu vực xâm nhập, sấn chéo lên nhau và dịch chuyển dần
dần từ khu vực tự nhiên sang khu vực văn hóa, theo trật tự nhƣ sau:
Khu vực một: cái hoang dã (the wilderness). Thí dụ sa mạc, đại dƣơng,
những lục địa không có ngƣời sinh sống.
Khu vực hai: Cảnh trí hiểm trở (the scenic sublime). Thí dụ rừng, hồ, núi,
thác nƣớc…
Khu vực ba: vùng nông thôn (the countryside). Thí dụ đồi, cánh đồng, rừng cây..
Khu vực bốn: cảnh trí nhân tạo quanh nhà (the domestic picturesque). Thí dụ
công viên, vƣờn, đƣờng…
Khi chúng ta di chuyển (trong suy nghĩ) giữa các khu vực này, rõ ràng chúng ta
đã di chuyển từ khu vực thứ nhất – “thuần túy” tự nhiên sang khu vực thứ tƣ – phần lớn
là “văn hóa”. Dĩ nhiên, cái hoang dã bị ảnh hƣởng bởi hiệu ứng nhà kính – vốn là do văn
hóa tạo ra, và các khu vƣờn thì tồn tại phụ thuộc vào ánh nắng – vốn thuộc lực lƣợng tự
nhiên [140, 252]. Do vậy, các nhà phê bình sinh thái sử dụng thuật ngữ human/
nonhuman khi chỉ mối quan hệ giữa con ngƣời và môi trƣờng tự nhiên. Karen Thornber
giải thích “sử dụng thuật ngữ "nonhuman" (thế giới phi nhân loại) để chỉ sinh học (nghĩa
là, các sinh vật không phải con ngƣời) và vô sinh (có nghĩa là để nói, yếu tố vật chất
không sống nhƣ không khí, nƣớc và đất). Tôi sử dụng thuật ngữ " human" (nhân loại) để
chỉ con ngƣời và công trình xây dựng của con ngƣời cả về vật chất và trí tuệ, bao gồm cả
công nghệ” [158]. Phê bình sinh thái khẳng định tầm quan trọng của việc nhấn mạnh đến
mối quan hệ giữa nhân loại (human) và phi-nhân-loại (nonhuman) trong các diễn ngôn

văn hóa. Phê bình sinh thái trở thành một giải pháp khôi phục ý nghĩa và tầm quan trọng
của tự nhiên với con ngƣời cũng nhƣ khẳng định vai trò của ngôn ngữ trong việc định
hình và thay đổi các quan niệm về tự nhiên nhƣ lời khẳng định của Glotfelty
Toàn bộ phê bình sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản mà văn
hóa con người kết nối với tự nhiên, ảnh hưởng tới nó và chịu ảnh hưởng của
nó. Phê bình sinh thái đặt vấn đề quan hệ nối kết giữa tự nhiên và văn hóa,
đặc biệt là sự tạo tác văn hóa của ngôn ngữ và văn học. Như một quan điểm
phê bình, phê bình sinh thái đặt một chân ở văn học và chân kia trên mặt đất,
như là một diễn ngôn lí thuyết, phê bình sinh thái dàn xếp giữa con người
(human) và (thế giới) phi nhân loại (nonhuman) [151, xix].


7
1.1.2. Lịch sử phê bình sinh thái
1.1.2.1. Cội nguồn triết học của phê bình sinh thái
Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu sinh thái cho rằng phê bình sinh thái không có
lịch sử của nó, nghĩa là phong trào này mới phát xuất từ những năm 70 của thế kỉ
XX khi những cảnh báo về sự khủng hoảng môi trƣờng ngày càng trầm trọng và
con ngƣời ta bắt đầu nhận thấy mặt trái của văn minh kĩ trị đã ảnh hƣởng đến môi
trƣờng nhƣ thế nào. Tuy nhiên, hành trình đó cũng bắt đầu bằng cách tìm cách trở
về với trái đất nguyên thủy vì sự thực bất kì lí thuyết nào cũng có cội nguồn của nó.
Triết học phƣơng Tây đã manh nha các tƣ tƣởng sau này trở thành tiền đề cho
phê bình sinh thái: tƣ tƣởng sinh thái của Rousseau, Darwin, Heidegger... Nghiên
cứu về phƣơng diện tiến hóa của Darwin đã chứng minh một cách thuyết phục bằng
khoa học, giáng một đòn mạnh mẽ vào tƣ tƣởng "con ngƣời kiểu mẫu muôn loài" có
thể đứng cao hơn tất thảy. Sự thực, nhân loại và các sinh vật khác có cùng nguồn
gốc trên ý nghĩa sinh vật học, do vậy, con ngƣời phải ý thức rằng tất cả các sinh vật
đều có quan hệ huyết thống, cần đem sự quan tâm của con ngƣời mở rộng đến tất cả
các sinh mệnh khác. Rousseau, một nhà triết học Ánh Sáng cũng đề cao việc tôn
trọng tự nhiên. Ông khẳng định rằng bản chất con ngƣời là lƣơng thiện nhƣng xã hội

làm cho hƣ hỏng và bất hạnh vì vậy cần giáo dục con ngƣời quay trở về tự nhiên.
Các nhà triết học hiện tƣợng luận (Hussel, R. Ingarden, Heidegger, Merleau
Ponty…) đi vào thế giới nhân sinh bên trong của con ngƣời, quan tâm nhiều đến tri
giác. Họ cho rằng con ngƣời cảm nhận thế giới bằng chính cảm giác trực giác của
mình, tất cả các chức năng cao hơn của ý thức nhƣ sự hiểu biết, ý chí đều có nguồn
gốc và phụ thuộc vào sự phản ánh của chủ thể, rằng tồn tại thể xác chính là tri giác.
Đặc biệt, phê bình sinh thái ảnh hƣởng trực tiếp nhất từ tƣ tƣởng triết học các
trƣờng phái của luân lí học môi trƣờng phƣơng Tây hiện đại: Đại địa luân lí học
(Land Ethics), Tự nhiên giá trị luận (Theory of nature value), Động vật giải phóng
(Animal liberation), Sinh thái học bề sâu (Deep ecology)… - triết lí sinh thái và môi
trƣờng hiện đại tôn trọng sự tồn tại bình đẳng của tạo vật, coi mọi sinh vật trong hệ
thống không có loài nào ở thế ƣu trội. Arne Naes, ngƣời Na Uy trong tham luận Bề
mặt và bề sâu, khoảng cách của phong trào sinh thái (The Shallow and the Deep,
Long-range Ecology Movement, Inquiry 16, Spring, 1973) phát biểu tại Budapest
bàn về bản chất của triết học và sinh thái, đề ra thuật ngữ Deep Ecology (Sinh thái
học bề sâu) coi tự nhiên và chúng ta cùng một thể. Nguyên tắc cốt lõi của sinh thái
học bề sâu là niềm tin rằng môi trƣờng sống nhƣ một chỉnh thể cần đƣợc đƣợc tôn
trọng. Môi trƣờng sống có những quyền bất khả xâm phạm để sinh sống và phát
triển, độc lập với lợi ích thực dụng của con ngƣời. Sinh thái bề sâu cho rằng thế giới


8
tự nhiên là một sự cân bằng tinh tế của mối quan hệ phức tạp, trong đó sự tồn tại
của sinh vật phụ thuộc vào sự tồn tại của những sinh vật khác trong hệ sinh thái.
Can thiệp của con ngƣời hoặc phá hủy thế giới tự nhiên đặt ra một mối đe dọa do đó
không chỉ đối với con ngƣời mà cho tất cả các sinh vật tạo thành trật tự tự nhiên .
Aldo Leopold (1887 - 1948) đƣợc coi là ngƣời đầu tiên đề xƣớng sự bảo vệ sinh
thái của phƣơng Tây cận đại. Niên giám về đất nước sa mạc (A sand country almanac,
1949, Oxford University press, 1966) của Aldo Leopold đƣợc coi là tác phẩm kinh
điển, cuốn sách chuẩn mực cho các khóa học văn học Mỹ. Trong đó chƣơng Đại địa

luân lí học (Land Ethics) biểu đạt tƣ tƣởng cốt lõi của ông: con ngƣời và đất đai, nƣớc,
thực vật và động vật tồn tại mối quan hệ luân lí. Xét trên lập trƣờng nhân loại, động thực vật khác trên trái đất chỉ là tài sản. Mối quan hệ giữa ngƣời và đất đai vẫn thuần là
kinh tế, con ngƣời chỉ có quyền lợi mà không có nghĩa vụ đối với đất đai. Thuật ngữ
quan trọng nhất để Aldo Leopold giải thích là “cộng đồng” (Community), ông cho rằng
mỗi cá nhân đều sống trong một môi trƣờng xã hội, trở thành một bộ phận cùng nƣơng
tựa nhau để tồn tại trong cộng đồng này. Phạm vi đạo đức trƣớc đây giới hạn trong
“cộng đồng nhân loại” (Humman Community), mối quan hệ này chỉ coi trọng quan hệ
con ngƣời và con ngƣời, con ngƣời với xã hội, còn “luân lí môi trƣờng” mở rộng ra
Cộng đồng sinh vật (Biotic Community) bao gồm cả cỏ cây, sông nƣớc, động vật… thế giới của muôn loài. Quan niệm Đại địa luân lí học làm thay đổi vai trò nhân loại
trong văn minh truyền thống phƣơng Tây. Con ngƣời, từ kẻ chinh phục, kẻ thao túng tự
nhiên trở thành một thành viên trong đó. Con ngƣời phải có sự tôn trọng thích đáng đối
với tất cả các thành viên thuộc giới hữu tình và vô tình, và cùng sinh tồn với các loài
khác hợp thành một cộng đồng rộng lớn, con ngƣời có nghĩa vụ trách nhiệm bảo vệ
“cộng đồng sinh vật” đƣợc hài hòa, ổn định, và đẹp đẽ “Hành vi mà có thể bảo hộ tính
chỉnh thể, tính ổn định, và vẻ đẹp của Cộng đồng sinh vật là đúng, trái ngƣợc lại với
điều đó là hành vi sai trái” [153, 26].
Những tƣ tƣởng của sinh thái học nhƣ: Cộng đồng sinh vật (Biotic Community),
Ý thức sinh thái (Ecological conscience), Đại địa mĩ học (Land aesthetic) mà Aldo
Leopold đề xuất chủ yếu để thay đổi thế giới quan nhân loại trung tâm (humancentred) trong văn minh truyền thống Kitô giáo phƣơng Tây, phá bỏ sự cách biệt giữa
con ngƣời và thiên nhiên để nhận thức Vạn vật bình đẳng. Lƣơng tâm sinh thái xuất
phát từ thái độ con ngƣời thay đổi thế giới quan, từ mối quan tâm con ngƣời với con
ngƣời kéo dài ra đến con ngƣời và vạn vật trên trái đất. Chỉ khi con ngƣời nhận thức
đƣợc loài vô tình hay giới hữu tình trong Đại địa đều là một phần tử của Cộng đồng
sinh vật thì nhân loại mới có thể tôn trọng và bảo vệ chúng đƣợc.
Nhƣ vậy, đạo đức môi trƣờng đã mở rộng ra từ quyền con ngƣời sang quyền


9
của thiên nhiên. Cuối thế kỉ XX là thời kì khởi phát phong trào bảo vệ sinh thái. Ngoài
những phong trào bảo vệ môi trƣờng thực tế, các phong trào xuất phát từ nền tảng tƣ

tƣởng lí luận triết học trong việc chăm sóc sinh thái rất đáng lƣu tâm vì thực chất vấn
đề sinh thái mà chúng ta đang đối mặt còn nằm ở văn hóa của chúng ta – cách hành xử
của chúng ta đối với tự nhiên. Bảo vệ sinh mệnh tự nhiên là sự tiến bộ của nhân loại.
Tôn trọng sinh mệnh, yêu quý sinh mệnh không phải là con ngƣời ban tặng một cách
khẳng khái cho vật có sinh mệnh khác mà là nhu cầu của sự tiến bộ tự thân nhân loại
“Mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn cho chúng ta, về lâu về dài, nếu chúng ta biết tự nhận diện
chính mình nhƣ là những sinh vật tự nhiên mà chúng ta đang dần dần phá hủy – những
cái cây, những dòng sông, đất đai, và ngay cả không khí của chúng ta… Chúng ta chỉ
là một phần nhỏ bé trong toàn bộ hệ sinh thái ấy” [147, 160].
Trở về với tƣ tƣởng văn hóa phƣơng Đông cổ đại là một khuynh hƣớng quan
trọng của của phê bình sinh thái hiện nay. Nếu nhƣ phê bình sinh thái cứ mãi là “lí
thuyết về sự sụp đổ” (Theories of breakdown) [159] thì sẽ dẫn đến bế tắc, nhiều nhà
tƣ tƣởng và triết gia sinh thái đều nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của trí tuệ sinh thái
phƣơng Đông cổ đại để giải quyết đƣợc những khó khăn về lý luận. Nhà xuất bản
Đại học Harvard liên tục xuất bản nhiều chuyên luận bàn về giá trị to lớn của tƣ
tƣởng sinh thái phƣơng Đông cổ đại đối với trào lƣu văn hóa sinh thái [theo 139].
Rõ ràng, mối quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên đƣợc triết học, văn chƣơng
và mĩ thuật bàn đến cách đây hàng nghìn năm. Các nhà tƣ tƣởng Trung Hoa xem con
ngƣời mang bản chất của tự nhiên nên con ngƣời cần sống hòa hợp với tự nhiên,
sống thuận theo tự nhiên. “Thiên nhân hợp nhất” - tƣ tƣởng Chu Dịch đã trở thành
tiền đề cơ bản trong cách ứng xử, nguồn cảm hứng vô tận của văn chƣơng phƣơng
Đông. Điều đó khẳng định sự thống nhất giữa con ngƣời và tự nhiên, con ngƣời là
một phần của tự nhiên, giữa con ngƣời và tự nhiên có mối liên quan, dung hòa
nhau. Khổng Tử yêu cầu tôn trọng, gìn giữ môi trƣờng, mùa xuân vào rừng không
đƣợc đốn cây lớn, bắt cá phải dùng mắt lƣới to. Lão Tử cho rằng con ngƣời gắn với
tự nhiên, là một bộ phận không tách rời tự nhiên: “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai,
hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật”, cho nên mọi vật đều sinh ra từ Đạo, là biểu hiện
của Đạo do vậy “trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là một”. Tự nhiên có
trƣớc con ngƣời, tồn tại và vận động theo quy luật khách quan, con ngƣời theo quy
luật của tự nhiên để hành động cho hợp lẽ “Thiên nhiên và hoạt động tự nhiên, sự

âm thầm diễn ra của các biến cố đời đời kiếp kiếp, sự tuần hoàn của bốn mùa, sự
vận chuyển uy nghi của tinh tú, đó là cái đạo mà ta thấy trong mỗi dòng suối, mỗi
phiến đá, mỗi ngôi sao, đó là cái luật của vũ trụ, vô tƣ, vô ngã, mà lại hợp lí, và loài
ngƣời phải hành động theo luật ấy nếu muốn sống khôn ngoan và yên ổn” [25, 53].


10
Bởi vậy, ngƣời phƣơng Đông thƣờng lựa chọn cách sống hài hòa với tự nhiên để
đƣợc thanh thản, đủ đầy. Vì con ngƣời xa rời Đạo, đánh mất đi sự hồn nhiên chất
phác của mình nên sinh ra loạn lạc, vì vậy con ngƣời cần giữ gìn bản chất tự nhiên,
nhu thuận cũng chính là gìn giữ và nuôi dƣỡng bản tính trẻ thơ của mình. Thuyết
Đồng tâm cho rằng những áng văn chƣơng hay nhất trong thiên hạ chƣa bao giờ lại
không nảy sinh từ trái tim trẻ thơ (Lí Chất).
Trong các sử thi phƣơng Đông, còn có những bài học về sự hòa hợp tự
nhiên. Các anh hùng của ngƣời Ấn trong Ramayana, Mahabrahata trƣớc khi lên
ngai vàng trị vì đất nƣớc đều vào sâu trong núi hành hƣơng, học bài học triết lí về
nhân sinh bằng cách tĩnh tâm, hòa mình sống với thiên nhiên. Trƣớc khi trở thành
đấng Giác Ngộ, Đức Phật đã trải qua kiếp sống không chỉ là con ngƣời, thần linh mà
cả là chim chóc, muông thú để có thể hiểu về cuộc đời của muôn loài bình thƣờng,
với đủ mọi quan hệ thế tục. Đức vua Trần Nhân Tông sau khi thực hiện xong việc
thế sự, xuất gia vào núi sâu để đƣợc trong sạch, giác ngộ tràn đầy. Thiên nhiên, do
đó là ngƣời thầy minh triết vĩnh cửu trong tâm thức của ngƣời phƣơng Đông.
1.1.2.2. Sự phát triển của phê bình sinh thái
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã tạo ra số của cải vật chất khổng lồ, đƣa
đến cho con ngƣời nhiều tiện nghi, nhƣng nó cũng khiến cho con ngƣời “đang đi
trên con đƣờng dẫn đến sự đối đầu trực tiếp với thiên nhiên” [49, 42]. Hiện tại, con
ngƣời bắt đầu hiểu ra là cần phải thƣơng yêu và che chở thiên nhiên, nếu không sẽ
phải gánh chịu sự thua thiệt, tuy nhiên, vì lòng tham, vì sự không biết lo xa chúng ta
chƣa thực sự có những hành động thiết thực. Trƣớc bối cảnh khủng hoảng môi
trƣờng đó, để thể hiện sự quan tâm đến các vấn đề sinh thái nhằm thức tỉnh nhân

loại trƣớc những nguy cơ đe dọa của khủng hoảng môi trƣờng, những ngành khoa
học nhân văn khác nhƣ lịch sử, triết học, luật pháp, xã hội học và tôn giáo đã
“nghiên cứu xanh” (green study) từ những năm 1970. Các nhà sử học kêu gọi “đừng
coi tự nhiên nhƣ là sân khấu cho vở diễn của con ngƣời, mà là một diễn viên ngang
hàng trong tấn kịch ấy. Họ tìm thấy nguồn gốc của các mối quan hệ giữa hoàn cảnh
môi trƣờng với các phƣơng thức sản xuất kinh tế và các ý tƣởng văn hóa xuyên thời
gian” [151, xxi]; các nhà nhân loại học chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và địa
lí; các nhà tâm lí học thừa nhận sự bất hòa giữa con ngƣời và thiên nhiên là nguồn
gốc của các căn bệnh xã hội, bệnh tâm lí “khám phá ra sự nối kết giữa hoàn cảnh
môi trƣờng và sức khỏe tinh thần, một số liên quan đến sự xa rời hiện tại đối với tự
nhiên nhƣ căn bệnh cơ bản của tâm lí và xã hội chúng ta” [151, xxi]; thậm chí, các
nhà thần học xác quyết môi trƣờng là một vấn đề của tôn giáo “cố gắng tìm kiếm
các cứ liệu trong kinh thánh chứng minh con ngƣời đã từng làm chủ trái đất một


11
cách khôn ngoan, hợp lý” [151, xxi], họ cũng tìm đến những tôn giáo của ngƣời Mỹ
bản địa hay các tôn giáo Phƣơng Đông đƣợc coi là “hệ thống tôn giáo chứa đầy các
tín điều sáng suốt về tự nhiên và thế giới tinh thần” [151, xxi].
Trong khi đó văn học đƣợc đánh giá là “phản ứng chậm” vì hình nhƣ vẫn bỏ
ngỏ mối quan tâm đến môi trƣờng. Những nghiên cứu của văn học thế kỉ XX vẫn là
những mối bận tâm đến con ngƣời: phê bình nữ quyền, phê bình phân tâm học, phê
bình Macxit, lí thuyết tiếp nhận… mà bỏ ra ngoài một sự thực: trái đất đang lâm nguy.
Dù vậy, từ những năm bảy mƣơi của thế kỉ XX có một số nhà nghiên cứu văn học và
văn hóa đã phát triển lí thuyết và phê bình về phƣơng diện sinh thái. Tuy nhiên các
nghiên cứu của họ đƣợc coi là những “nghiên cứu trƣớc tác về tự nhiên” (the study of
nature writing) tản mát dƣới những tên gọi khác nhau nhƣ chủ nghĩa đồng quê, sinh
thái học con người, chủ nghĩa địa phương, khoa học và văn học, tự nhiên trong văn
học, phong cảnh trong văn học... Ngay từ khi xuất hiện, phê bình sinh thái đã không
thuần nhất, bởi vậy, định danh khái niệm cũng là một vấn đề. Nếu nhƣ ở Anh ngƣời ta

thƣờng sử dụng thuật ngữ “nghiên cứu xanh” (green study) thì ở Mỹ lại thích sử dụng
thuật ngữ “phê bình sinh thái” (ecocritism). Nhiều thuật ngữ khác cũng thƣờng đƣợc sử
dụng nhƣ “thi pháp sinh thái” (ecopoetics), “phê bình văn học môi trƣờng”
(environmental literary criticism), hay “nghiên cứu (văn hóa) xanh”
(green(cultural)studies), sáng tác tự nhiên (nature writing), sinh thái học lãng mạn
(Romantic Ecology)… Chúng tôi đồng ý với Cheryll Glotfelty và nhiều học giả khác
về việc thống nhất thuật ngữ ecocritism (phê bình sinh thái) vì nó ngắn gọn và có thể dễ
dàng tạo thành dạng thức khác là ecocritical (tính chất phê bình sinh thái) và ecocritic
(nhà phê bình sinh thái). Hơn nữa, tiền tố “eco-” (sinh thái) hay hơn tiền tố “enviro-”
(môi trƣờng) bởi vì tƣơng tự khoa học sinh thái học, phê bình sinh thái nghiên cứu mối
quan hệ giữa các sự vật, trong trƣờng hợp này, giữa văn hóa và thế giới tự nhiên. Mặt
khác, tiền tố “enviro-” (môi trƣờng) ngụ ý rằng, con ngƣời chúng ta là trung tâm, tất cả
mọi thứ xung quanh chúng ta là môi trƣờng. Ngƣợc lại, tiền tố “eco-” (sinh thái) ám chỉ
các cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, những hệ thống hòa hợp và sự kết nối mạnh mẽ
giữa các bộ phận cấu thành [xem thêm 151, xx].
Khởi nguyên của thuật ngữ ecocritism xuất phát từ cuốn Hài kịch của sự sinh
tồn: nghiên cứu trong sinh thái học văn học (The Comedy of Survival: Studies in
Literary Ecology, 1972), Joseph Meeker giới thiệu thuật ngữ: sinh thái học văn học
(literary ecology) ám chỉ “sự nghiên cứu chủ đề sinh thái và những mối liên hệ xuất
hiện trong tác phẩm văn học. Đồng thời, nó cũng là một sự thử nghiệm để khám phá
ra vai trò của nó là gì với văn học trong sinh thái học của loài ngƣời” [151, xx]. Thuật
ngữ ecocriticism có lẽ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1987 bởi William Rueckert


12
trong một khảo luận tên là Văn học và sinh thái học: Một thử nghiệm mới trong phê
bình sinh thái (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism). Phê bình
sinh thái (ecocriticism) theo Rueckert có nghĩa là “việc ứng dụng sinh thái học và các
thuật ngữ sinh thái học vào nghiên cứu văn học” [151, 105]. Định nghĩa của Rueckert
có liên quan đặc biệt với khoa học sinh thái học và theo đó đã giới hạn lại thành một

thuật ngữ để chỉ tất cả mối quan hệ giữa văn học và thế giới tự nhiên. Do vậy, phê
bình sinh thái không đƣợc thừa nhận nhƣ một phong trào phê bình rõ rệt.
Tuy nhiên, trong những năm này đã xuất hiện một số tác phẩm quan trọng đối
với lịch sử của phong trào phê bình sinh thái. Công trình của Joseph Mecker là Hài
kịch của sự sinh tồn (The Comedy of Survial, 1974) đã đƣa ra vấn đề tranh luận cơ bản:
chính văn hóa phƣơng Tây với nền tảng tƣ tƣởng của thuyết con ngƣời là trung tâm đã
khiến cho môi sinh trở nên khủng hoảng. Năm 1985, Frederick Owaage biên tập cuốn
sách mang tên Giảng dạy văn học môi trường: tài liệu, phương pháp và Tiềm năng
phát triển (Teaching Environmental Literature: Materials, methods, Resources) bao
gồm nhiều chiều hƣớng của mƣời chín nhà nghiên cứu khác nhau. Năm 1989, Alicia
Nitecki viết Bản tin văn học Mĩ về đề tài tự nhiên (The American Nature Writing
Newsletter) mục đích của bà là để công bố các bài luận vắn tắt, điểm sách và những
thông tin liên quan đến nghiên cứu cách viết về tự nhiên và môi trƣờng.
Mãi đến những năm 1990, phê bình sinh thái mới thực sự phát triển. Các hội
nghị khoa học về vấn đề môi trƣờng và văn học đƣợc tổ chức hằng năm. Phiên họp
đặc biệt nổi tiếng nhất của Hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại (MLA) vào năm
1991 đƣợc thành lập bởi Harold Fromm có chủ đề “Phê bình sinh thái: Xanh hóa
nghiên cứu văn học” đã thực sự tạo đƣợc tiếng vang và thúc đẩy hƣớng nghiên cứu
này phát triển mạnh mẽ. Năm 1994, Kroeber cho xuất bản chuyên luận Phê bình
văn học sinh thái: tưởng tượng lãng mạn và sinh thái học tinh thần (Ecological
literary criticism; romantic imagining and the Biology of mind, Columbia
University Press, 1994), đề xƣớng "phê bình văn học sinh thái" (ecological literary
criticism), "Phê bình mang khuynh hƣớng sinh thái" (ecological oriented criticism).
Năm 1995, Lawrence Buell khoa Anh văn đại học Harvard cho xuất bản chuyên
luận Tưởng tượng môi trường: Thoreau, văn viết về tự nhiên và sự cấu thành của
văn hóa Mĩ (The Enviromental Ima gination: Thoreau, Nature Writing, and the
Formation of American Culture, Harvard University Press, 1995). Khi nghiên cứu
về Thoreau từ góc độ sinh thái cung cấp cho "văn học xanh" một số chỉ đạo có tính
tổng thể về phƣơng pháp luận và lí luận. Nghiên cứu của ông là một dấu mốc cho
phê bình sinh thái. Một tác phẩm rất quan trọng và có ảnh hƣởng trong lĩnh vực này

- đây là cuốn sách phổ biến về phê bình sinh thái.


13
Tuy nhiên, để nhận thức rõ ràng về phê bình sinh thái phải kể đến ngƣời có công
phát triển phong trào phê bình sinh thái là Cheryll Glotfelty, đã đồng biên tập với Harold
Fromm một tuyển tập cốt yếu các bài viết có tính định hƣớng quan trọng là Tuyển tập
Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học (The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia Press, 1996). Năm 1992
bà cũng là nhà sáng lập ra Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trƣờng - ASLE (the
Association for the Study of Literature and Environment) . Hiệp hội này trở thành tổ
chức có hàng nghìn thành viên ở Mỹ, sau đó các chi nhánh mới thành lập ở Anh và tiếp
theo là nhiều nƣớc châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada… Năm 1993 Patrick
Murphy đã xuất bản tạp chí mới, là Nghiên cứu Liên ngành Văn học và Môi trường ISLE (Interdisciplinary Studies in Literature and Environment) để cung cấp một diễn
đàn nghiên cứu phê bình văn học quan tâm tới lí do môi trƣờng.
Phong trào phê bình sinh thái ở Anh và Mĩ có đôi chút khác biệt. Phê bình
sinh thái, hay phê bình xanh của Anh quốc lại đƣợc sinh thành từ phong trào Lãng
mạn Anh của thập kỷ chín mƣơi thế kỷ 18 (1790) hơn là từ phong trào Tiên nghiệm
Mỹ trong thập kỷ bốn mƣơi thế kỷ 19 (1840). Ngƣời tiên phong của phong trào này
là nhà phê bình Jonathan Bate, tác giả cuốn Sinh thái học Lãng mạn: Wordsworth
và Truyền thống (văn học) Môi trường ( Romantic Ecology: Wordsworth and the
Environmental Tradition, Routledge, 1991).Tuyển tập các công trình phê bình sinh
thái đáng chú ý nhất tại Anh là cuốn Tuyển tập nghiên cứu xanh: Từ chủ nghĩa lãng
mạn tới phê bình sinh thái (The Green Studies Reader: From Romanticism to
Ecocriticism, Routledge, 2000) do Laurence Coupe biên tập. Nếu nhƣ phê bình sinh
thái Mỹ thiên về ca tụng tự nhiên thì phê bình sinh thái Anh lại thiên về cảnh báo về
môi trƣờng,Thành phố và Nông thôn (The Country and the City (Chatto & Windus,
1973) của Raymond William đã thể hiện rõ điều đó
Nhƣ vậy, phê bình sinh thái từ những nghiên cứu riêng lẻ, khó nhận diện đã
có một tổ chức riêng thu hút giới nghiên cứu trên trên toàn thế giới, có một tạp chí

riêng của Hội. Đồng thời phong trào này cũng lan ra các trƣờng đại học, một vài
trƣờng đã bắt đầu đƣa vào trong các khóa văn học của họ chƣơng trình giảng dạy về
nghiên cứu môi trƣờng; một số học viện về tự nhiên và văn hóa đƣợc thành lập; một
số khoa tiếng Anh yêu cầu những chƣơng trình nhỏ về văn học môi trƣờng. Nhờ đó,
phê bình sinh thái đã chính thức trở thành một phong trào nghiên cứu hàn lâm.
Nhiều nghiên cứu của các tác giả đƣợc công bố.
Một trong những dấu mốc chứng tỏ sự phát triển của phê bình sinh thái là sự xuất
hiện trong các cuốn giáo trình giới thiệu các trƣờng phái lí thuyết văn học. Giáo trình
Nhập môn lí thuyết: dẫn luận lí luận văn học và lí luận văn hóa (Beginning Theory: An


14
Introduction to Literary and Cultural Theory, Manchester University press) tái bản năm
2002 do Peter Barry soạn thêm một chƣơng mới là "Phê bình sinh thái" (bản xuất bản
năm 1995 chƣa có chƣơng này). Chƣơng sách giới thiệu một khái quát sự ra đời, cách
hiểu hàm nghĩa tự nhiên/văn hóa, thành tựu chủ yếu, nhiệm vụ của phê bình sinh thái, và
thực tiễn phê bình sinh thái. Giới thiệu Phê bình đầu thế kỉ XXI (Introducing Criticism at
the Twenty-First Century, 2002) do Julian Wolfreys biên tập, Chƣơng 7 của tuyển tập
"Phê bình sinh thái" do Kate Rigby viết đã giới thiệu một cách rõ ràng về phê bình sinh
thái: từ việc phê phán những tƣ tƣởng khiến cho tình trạng sinh thái lâm vào khủng
hoảng hiện nay, tìm về các văn bản về tự nhiên để tái cấu trúc lại văn bản, nhìn lại về văn
học lãng mạn; tái cấu trúc tính xã hội và tính sinh thái, khẳng định có một mối liên hệ
giữa các vấn đề tự nhiên và xã hội, gắn với các vấn đề giai cấp, chủng tộc, giới tính; Phê
bình sinh thái cần phải đặt lại nền tảng ngôn ngữ.
Một trong những hƣớng quan trọng của phê bình sinh thái là nhìn lại những
diễn ngôn lãng mạn về tự nhiên. Gifford Terry phát triển mô hình 3 lớp của kịch:
đồng quê, phản đồng quê và hậu đồng quê để viết về thể loại Đồng quê
(Pastoral (Routledge, the Critical Idiom series, 1999) đả phá vào thể loại đồng quê.
Năm 2000, Bài ca trái đất (The Song of the Earth, Massachusetts, Harvard
University Press) là công trình của nhà phê bình văn học sinh thái nổi tiếng

Jonathan Bate đã ứng dụng nguyên lý phê bình hiện tƣợng học, chủ nghĩa sinh thái
học lãng mạn của Heidegger, lý thuyết về trạng thái tự nhiên của Jean Jacques
Rousseau để so sánh thơ ca và tiểu thuyết lãng mạn của Jane Austen và Thomas
Hardy, Mary Shelley, William.H.Hudson và Elizabeth Bisho.
Năm 2004, Grey Garrard (đại học Bath Spa, Anh) xuất bản chuyên luận Phê
bình sinh thái (thuật ngữ phê bình mới) (Ecocriticism (The New Critical Idiom) bàn về
diễn ngôn chủ yếu của phê bình sinh thái từ 8 phƣơng diện nhƣ ô nhiễm, nơi chốn, điền
viên, hoang dã, tận thế (thảo luận về Kitô giáo), cƣ trú, động vật, trái đất. Từ cái nhìn
của phê bình sinh thái, tác giả đã chất vấn và khéo léo đƣa ngƣời đọc qua những cạm
bẫy của lí thuyết, đào sâu vào những tranh luận chính của phê bình sinh thái hôm nay.
Chuyên luận phê bình sinh thái thứ 3 của Lawrence Buell mang tên Tương
lai của phê bình môi trường: khủng hoảng môi trường và tưởng tượng văn học (The
Future of Environmental Criticism: Environmental Crisis and Literary Imagination,
2005). Buell đặt phê bình sinh thái vào lĩnh vực nghiên cứu văn hóa và văn học để
khảo sát, chỉ ra một cách rõ ràng "sự chuyển hƣớng của sinh thái môi trƣờng trong
những nghiên cứu về văn học và văn hóa" (the environment turn in literary and
cultural studies), "diễn ngôn sinh thái của văn học" (literary ecodiscourse) đƣợc sử


15
dụng rộng rãi hơn, hình thành hệ thống toàn cầu hóa hơn, đƣợc thảo luận liên ngành
nhiều hơn, đƣợc cấu thành từ nhiều phƣơng diện hơn.
Một cuốn sách cũng cần đƣợc nhắc đến ở đây là Sự mơ hồ sinh thái: Khủng
hoảng môi trường và văn học các nước Đông Á (Ecoambiguity: Environmental
Crises and East Asian Literatures, 2012) của Karen Thronber. Mở rộng diện quan
tâm của phê bình sinh thái ra khỏi các nƣớc ngoài phƣơng Tây: Trung Hoa, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, bà đã đƣa ra một khái niệm quan trọng "mơ hồ sinh thái"
khi nhận định rằng tình yêu thiên nhiên trong các văn bản văn chƣơng Đông Á ẩn
dấu những ngộ nhận không nhỏ dẫn đến những bất công môi trƣờng.
Phê bình sinh thái đã mở rộng phạm vi tới Shakespear học. Etock (trong

công trình Shakespear ecocritisim) cho rằng phê bình sinh thái không chỉ nghiên
cứu tự nhiên hay hiện hữu tự nhiên trong văn học, mà hơn thế nó là bất cứ nào liên
hệ chặt chẽ đến biến đổi môi trƣờng. Từ đó, mở ra một cách tiếp cận chức năng của
sinh thái học văn hóa (culture ecology).
1.1.3. Phê bình sinh thái - một khuynh hướng nghiên cứu văn học
Phê bình sinh thái với tƣ cách là một kiểu tiếp cận văn chƣơng mới, khuynh
hƣớng phê bình văn học ra đời trong bối cảnh giới học thuật phản ứng trƣớc nguy
cơ môi sinh bị hủy hoại do chính con ngƣời. Thông qua văn học để thẩm định lại
toàn bộ văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán tƣ tƣởng, chính sách, mô hình xã
hội... đã ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến thái độ đối với tự nhiên, khiến cho môi trƣờng
lâm vào tình trạng suy thoái hiện nay.
1.1.3.1. Phê bình sinh thái trong thời đại khủng hoảng môi trường
Cheryll Glotfelty trong bài giới thiệu “Nghiên cứu văn học trong thời kì khủng
hoảng môi trƣờng” của Tuyển tập Phê bình sinh thái, các mốc quan trọng trong sinh
thái học đã tỏ ra hết sức sốt ruột vì văn học dƣờng nhƣ vẫn thờ ơ với những mối bận
tâm về môi trƣờng trong khi hành tinh duy nhất của chúng ta đang lâm nguy:
Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra rằng chủng tộc, giai cấp, và giới tính trở
thành những vấn đề nóng bỏng vào những năm cuối thế kỉ XX. Thế nhưng, bạn
cũng sẽ không bao giờ biết được rằng sự sống của Trái đất - cái nền tảng đang
làm nhiệm vụ chống đỡ tất cả những hệ thống ấy - là cái đang nằm sâu bên dưới
tất cả những giao tranh căng thẳng đó. Thật vậy, có thể bạn sẽ không bao giờ biết
được rằng, dù thế nào, trên tất cả những điều ấy, là chúng ta chỉ có duy nhất một
Trái đất mà thôi [151, xviii].
Nhiệm vụ trọng tâm của phê bình sinh thái là qua văn học thể hiện thái độ
của mình về văn hóa ứng xử của con ngƣời đối với tự nhiên, các nhà sinh thái đi tìm
câu trả lời và giải pháp về mặt tƣ tƣởng: văn hóa xã hội quyết định thái độ, hành vi
của của con ngƣời đối với tự nhiên. Nhiệm vụ đó đƣợc Donald Worster chỉ ra:


16

Nguy cơ sinh thái mang tính toàn cầu mà ngày nay chúng ta phải đối mặt
có nguồn gốc không phải ở bản thân hệ thống sinh thái mà ở hệ thống văn hóa
của chúng ta. Muốn vượt qua nguy cơ này, tất yếu phải ra sức lí giải minh bạch
ảnh hưởng của văn hóa của chúng ta đối với tự nhiên. Nhà sử học, nhà phê bình
văn học, nhà nhân loại học, nhà triết học nghiên cứu quan hệ giữa văn hóa và
sinh thái, tuy không thể trực tiếp thúc đẩy cách mạng văn hóa, nhưng lại có thể
giúp chúng ta lí giải, mà sự lí giải này chính là tiền đề của cách mạng văn hóa [
theo 151, xxi].
Phê bình sinh thái phê phán thuyết con người là trung tâm (Anthropocentrism)
tồn tại trong tƣ tƣởng nhân loại, nhất là từ sau phong trào Khai sáng, cùng với sự hƣng
khởi của tƣ tƣởng nhân bản thì nhân sinh quan đã có một sự thay đổi rất lớn. Địa vị con
ngƣời trong thế giới cũng đƣợc xác lập lại. Mối quan hệ giữa con ngƣời và thiên nhiên
nghiêng về sự đối lập nhị nguyên. Từ ngƣời con của thiên nhiên trở thành chủ nhân của
trái đất. Con ngƣời không phải phục tùng, kính sợ tự nhiên nữa mà ngƣợc lại, vạn vật trở
thành sản phẩm tiêu dùng của nhân loại. Do vậy, việc con ngƣời chinh phục tự nhiên là
một quyền lợi hiển nhiên. Trong các loài, con ngƣời là kiểu mẫu, là sinh vật cao cấp,
bằng trí tuệ và khả năng của mình, con ngƣời có thể làm chủ và cải tạo đƣợc thế giới.
Văn học từ xƣa đến nay ngợi ca bao hình tƣợng đều là những ngƣời khẳng định vị thế
chúa tể muôn loài bằng khát vọng chinh phục tự nhiên. Vậy nên văn học cũng có lỗi
trong việc khiến cho trái đất đang ngày một kiệt quệ. Bởi vậy, sự thay đổi trong suy nghĩ
liên quan đến con ngƣời với môi trƣờng cần đƣợc đổi thay từ chính văn học, nơi thích
hợp để phản biện lại những thói quen của tư duy. Tƣ tƣởng này vấp phải một rào cản
đã tồn tại một cách thâm căn cố đế trong tƣ tƣởng truyền thống phƣơng Tây coi con
ngƣời là tinh hoa “Con ngƣời là kiểu mẫu của muôn loài”. Điều này đã đƣợc Joseph
Meeker chỉ ra trong công trình Hài kịch của sự sinh tồn: nghiên cứu trong sinh thái học
văn học (The Comedy of Survival: Studies in Literary Ecology), về sau vấn đề này trở
thành cốt yếu của phê bình sinh thái và triết học môi trƣờng: cuộc khủng hoảng môi sinh
chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống văn hóa phƣơng Tây vốn chia tách văn hóa ra khỏi tự
nhiên và dành cho văn hóa thế ƣu trội.
Thế kỉ XXI là thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con ngƣời phải đối

mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất nhƣng đồng thời đây cũng là thế kỉ sẽ nảy nở
và phát triển các trào lƣu sinh thái. Phê bình sinh thái xuất hiện và cảnh tỉnh con
ngƣời về sự khai thác quá mức khiến cho Trái đất ngày một kiệt quệ “đẩy sinh
quyển vào tình trạng hiểm nghèo”. Hầu hết tác phẩm phê bình sinh thái đều có
chung một động cơ: “đó là nỗi day dứt rằng chúng ta đã đi tới thời đại môi trƣờng
cạn kiệt, một thời đại mà hậu quả hành động của con ngƣời đang tàn phá hành tinh.


17
Chúng ta đã tới thời đại đó. Hoặc là chúng ta phải thay đổi chính mình hoặc sẽ phải
đối mặt với thảm họa toàn cầu. Con ngƣời đang tàn phá vẻ đẹp tự nhiên và đẩy vô
vàn sinh vật đến bên bờ tuyệt chủng trong cuộc chạy đua điên rồ của chúng ta tới
ngày tận thế” [151, xxi]. Biến đổi khí hậu, sự khủng hoảng môi trƣờng tự nhiên, đó
là điểm mà phê bình sinh thái bắt đầu để nhắc nhở con ngƣời về vị trí của mình
trong sinh quyển. Do vậy, phê bình sinh thái đặt ra những vấn đề trực diện của
khủng hoảng môi sinh: “thảo luận công khai về các vấn đề môi trƣờng, ví dụ nhƣ
việc đánh mất sự đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu” [116]
Từ đó, nhấn mạnh trở lại cho chúng ta thấy rằng, tự nhiên vận hành theo những
quy luật riêng của nó, và con ngƣời trong sự hữu hạn của mình không thể chống chọi
đƣợc “một thực tế là, mặc dù hơn bao giờ hết, bề mặt trái đất gần đây đang càng ngày
càng bị biến đổi nhanh chóng hơn bởi công nghệ kĩ thuật; thì điều ấy cũng không có
nghĩa là những thực thể tự nhiên đã không còn tồn tại. Tất cả những gì con ngƣời làm
ra, bao gồm cả việc làm biến đổi phần nhiều là vô ý thức (hay nói đúng hơn là sự tàn
phá) hệ sinh thái trên trái đất cũng vẫn phải phụ thuộc vào những quá trình vật lí tự
nhiên hiện tồn trƣớc đó. Những quá trình ấy vƣợt hẳn lên trên giới hạn nhận thức cũng
nhƣ giới hạn quyền lực của con ngƣời. Tất cả loài ngƣời, trong khi đó, lại chỉ đơn thuần
tồn tại trong một trạng thái lẫn lộn hỗn độn (mặc dù thƣờng là một cách vô hình) với
cuộc sống vô hạn của thế giới phi nhân” [100]. Tự nhiên luôn nhắc nhở cho con ngƣời
thấy “một thứ địa vị thật sự thông qua mỗi trận động đất, mỗi lần núi lửa phun trào,
những ngôi sao chổi vụt qua, cũng nhƣ việc không ai có thể dự đoán đƣợc một cách

chính xác sự thay đổi bất thƣờng của thời tiết” [100]. Theo cách nói của Bate, Phê bình
sự nóng lên toàn cầu (Global warming criticism) “đƣa ra định đề về một thế giới tự
nhiên không còn bị xem là thụ động hay đƣợc sắp xếp theo trật tự định sẵn và chỉ biết
phục tùng. Ngƣợc lại, tự nhiên đƣợc nhìn nhƣ một cái gì bất định, không thể đoán
trƣớc và có sự phản ứng lại trƣớc mọi sự can thiệp của chúng ta, theo cách mà chúng ta
không thể lƣờng trƣớc, cũng không thể kiểm soát đƣợc” [141, 439].
Cho dù có lẽ nhiều ngƣời sẽ đồng tình với phái phê bình sinh thái học lạc quan
(light Greens) khi tin rằng chúng ta có thể cứu trái đất bằng cách thận trọng hơn trong
cách sản xuất, tiêu dùng. Và thật khó đồng tình với những nhà phê bình sinh thái bi
quan (dark Greens) khi phải thừa nhận loài ngƣời chúng ta do bị đầu độc bởi những
thành tựu về khoa học kĩ thuật và công nghệ đã nghĩ rằng con ngƣời có khả năng cải
tạo đƣợc thế giới. Khoa học kĩ thuật chính là nguyên nhân hủy hoại môi trƣờng do đó
nó không thể nào là giải pháp cho vấn đề môi trƣờng mà bằng cách nào đó con ngƣời
phải quay trở lại tự nhiên. Thì một sự thực đang tồn tại: môi trƣờng toàn cầu đang ngày
một tồi tệ đi nhƣng chúng ta vẫn chƣa có những chính sách mang tính toàn cầu và toàn


18
diện để thay đổi điều đó. Để giải quyết khủng hoảng con ngƣời phải nhìn lại phƣơng
thức sống, xem xét lại văn minh văn hóa để đề xuất, đánh giá lại thái độ của mình với
Trái Đất. Điều này dẫn đến cuộc cách mạng thế giới quan của con người mà văn
học phải tham dự vào như một cách đề nghị, như một lời cảnh báo: “hầu hết tác
phẩm phê bình sinh thái chia sẻ một động cơ chung: sự lo lắng về việc chúng ta đã đi
đến giới hạn của thời đại môi trƣờng, thời điểm mà những hậu quả của hành vi con
ngƣời đang tàn phá hệ thống sự sống cơ bản của hành tinh” [151, xxii].
1.1.3.2.“Phê bình sinh thái đảo lộn truyền thống phê bình”
Đây là nhận định của Peter Barry, trong tuyển tập giới thiệu những lí thuyết
văn học và văn hóa Nhập môn lí thuyết: dẫn luận lí luận văn học và lí luận văn hóa
(Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory), ở phần đánh
giá của ông về phê bình sinh thái [140, 251]. Đó cũng là cách mà Glotfelty nhận

diện về hƣớng nghiên cứu này, là phân biệt nó với các phƣơng pháp phê bình khác.
Các nhà phê bình sinh thái cho rằng phê bình văn học trƣớc đây quá chú tâm
vào con ngƣời – khai thác tính cách, tâm lí, tình cảm, hành động, nội tâm… mà bỏ
qua mối quan hệ giữa nhân vật và thế giới. Barry phân tích về một tác phẩm của
Edgar Allan Poe Ngôi nhà của Usher và chỉ ra rằng, các nhà nghiên cứu dƣờng nhƣ
chỉ quan tâm đến căn bệnh kì quái của nhân vật, khai thác tâm lí nhân vật mà bỏ
quên khung cảnh xung quanh tòa lâu đài - sự tách biệt, nặng nề, “quỷ ám” của nó là
căn nguyên của bệnh trạng nhân vật.
Tôi muốn minh họa bước chuyển biến quan trọng này sự từ chối việc ưu tiên
biểu hiện cái bên trong hơn là cái bên ngoài. Văn bản tôi sử dụng ở đây là truyện ngắn
nổi tiếng của Edgar Allan Poe nhan đề Sự sụp đổ của ngôi nhà Usher ('The Fall of the
House of Usher'). Trong truyện, Rod-crick Usher và chị anh ta, Madeline, trải nghiệm
một dạng cầm tù tự nguyện trong ngôi nhà cổ, đổ nát, cách biệt với thế giới bên ngoài,
dựng kề một cái hồ trông đầy tội nghiệp, quỷ ám: "một cái hồ đen thẫm và khủng khiếp
nằm lặng yên trong vẻ lộng lẫy điềm tĩnh bên cạnh căn nhà". Người chị mắc phải một
căn bệnh kỳ lạ khiến người dần dần héo mòn, còn bản thân Usher, một kẻ mắc bệnh "lý
tưởng chủ nghĩa, kiêu ngạo", đau buồn bởi "sự nhạy cảm đến mức bệnh tật của các
giác quan"- cái khiến anh ta không thể chịu đựng được bất cứ giao tiếp nào với thế
giới tự nhiên, mùi thơm của những bông hoa trở nên ngột ngạt, mắt của anh ta bị tra
tấn bởi thậm chí chỉ ánh sáng ban ngày mờ nhạt. Mối liên hệ duy nhất của anh ta với
thế giới là thông qua nghệ thuật (...) Ngôi nhà của Usher, do vậy, không phải là một
phần của hệ thống sống; không có nhân tố nào đến từ bên ngoài để tiếp thêm sinh lực
cho nó và nó cũng không thể góp phần cho hệ thống khác; nó là một ánh sáng đã lụi
tàn, một dòng suối đã ngừng trôi. Sự tách biệt kiểu Narciss của nó khỏi dòng chảy cuộc


19
sống rộng lớn xung quanh đã biến nó thành như một kiểu hố đen. Nó đã trở thành một
cơn xoáy lốc nuốt trọn và hủy diệt năng lượng của chính mình(...) Đáng sợ, Usher là
tất cả "văn hóa", không "tự nhiên", anh ta là "kẻ sợ ánh sáng" (nhạy cảm với ánh

sáng) và không thể chịu đựng ánh sáng tự nhiên, thích ánh sáng thể hiện trong những
bức tranh, anh ta không thể chịu đựng âm thanh tự nhiên, chỉ "xử lí âm thanh" của âm
nhạc. Những gì được tưởng tượng ở đây là một hệ thống sinh thái hư hỏng không thể
sửa chữa và trong cái chết đau đớn của nó: đây là cuộc sống trên một hành tinh lạnh
lẽo, là hệ thống tắc nghẽn, cắt lìa những gì thanh lọc và tái sinh. Ở sự đọc này, trọng
tâm của câu chuyện không phải là đêm tối của tâm hồn, mà là những thảm họa sinh
thái cố ý, mùa đông hạt nhân, năng lượng mặt trời hoặc kiệt sức. Đây là một câu
chuyện đáng sợ hơn so với cách đọc thông thường tạo ra, khi kể chuyện chạy khỏi ngôi
nhà bị sụp đổ nhưng không có nơi nào cho anh ta chạy tới cả. [140, 257]
Phê bình sinh thái đã thay đổi một cách cơ bản cách nhìn nhận, tiếp cận đối
tƣợng. Các phong trào nghiên cứu văn học từ trƣớc đến nay đều lấy “con ngƣời làm
trung tâm” (human-centred), còn phê bình sinh thái quan niệm đặt trái đất lên trƣớc hết
(Putting the Earth first). Bởi vậy, phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earthcentered approach) để nghiên cứu văn học của phê bình sinh thái đã chỉ trích lí tƣởng
đề cao cá nhân, từ đó tạo ra một phản đề đối với tƣ tƣởng đã ăn sâu cắm rễ vào tƣ duy
nhân loại, để đề xuất quan niệm đề cao tính tƣơng quan giữa cá nhân và môi trƣờng.
Và nhƣ vậy phê bình sinh thái cũng mong muốn chấm dứt tình trạng li khai hàng
nghìn năm nay giữa văn hóa và tự nhiên. Chủ nghĩa nhân văn sinh thái do phê bình
sinh thái đề xuất không tách rời thiên nhiên và văn hóa mà nối lại mạch sống ngàn đời
của con ngƣời với tự nhiên, coi con ngƣời là một phần cộng sinh của tạo hóa.
Don R. Adams phân tích bài thơ Bụi hoa (The Tuft of Flowers) của Robert
Frost để thấy cá nhân trong sự nối kết với con ngƣời và môi trƣờng tự nhiên mà
trong đó họ sống và chết đi. Bài thơ nói về một nông dân làm việc ngoài đồng một
mình vào một ngày nọ. Một nông dân khác đã cắt cỏ trên đồng vào buổi sáng sớm,
và tác giả bài thơ đang quan sát ngƣời nông dân này vào lúc trễ hơn trong ngày, khi
ông ta đang lật cỏ cho khô dƣới ánh mặt trời và cất trong kho cho gia súc ăn vào
mùa đông. Ông thấy công việc thật là cô đơn và đống cỏ đã cắt gợi về cái chết,
khiến ông thấy buồn. Nhƣng rồi ông ta phát hiện thấy một "bụi hoa" mà ngƣời cắt
cỏ buổi sáng đã không cắt, có lẽ là vì vẻ đẹp của nó. Những bông hoa đã thu hút
một con bƣớm, và con bƣớm thì thu hút sự chú ý của ngƣời nông dân. Bỗng nhiên,
thay vì cảm thấy buồn và cô đơn, ngƣời nông dân thấy gắn kết về phƣơng diện môi

trƣờng với con bƣớm, bông hoa và ngƣời cắt cỏ đã làm việc trƣớc đó và đã để lại
bụi hoa xinh đẹp này cho ông thấy và thƣởng thức. Thế rồi ông ấy gởi một lời chúc


×