LỜI NÓI ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay khi xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá
đang trở nên phổ biến thì hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đóng vai
trò quan trọng trong tiến trình kinh tế xã hội của một quốc gia. Với Việt
Nam một quốc gia đang trong giai đoạn đầu của một quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá “Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên, là
trọng điểm kinh tế đối ngoại”. Hoạt động xuất khẩu mà các ngành kinh tế
tham gia đem lại cho đất nước một lượng ngoại tệ khá lớn phục vụ quá
trình xây dựng và đổi mới đất nước.
Công ty giầy Thăng Long là một trong những con chim đầu đàn của
Tổng công ty Da – Giầy Việt Nam chuyên sản xuất giầy xuất khẩu sang
nhiều nước trên thế giới. Với chức năng sản xuất kinh doanh, xuất nhập
khẩu giầy đang phát triển đi lên trong điều kiện khó khăn nhiều mặt, đặc
biệt là sự cạnh tranh gay gắt ở cả trong và ngoài nước, thị trường truyền
thống bị biến động… Để đứng vững và phát triển, công ty cần không
ngừng hoàn thiện chiến lược phát triển lâu dài, đề ra phương hướng và biện
pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong từng giai đoạn cụ thể.
Với năng lực còn hạn chế, mặt khác đây là một đề tài phong phú và
đa dạng chứa nhiều vấn đề quan trọng hàng loạt các vấn đề nghiên cứu đòi
hỏi bổ sung và hoàn thiện. Chuyên đề của em chỉ tập trung tìm hiểu phân
tích một số vấn đề nội dung theo kết cấu sau:
Chương I : Một số vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp thương mại.
Chương II: Tình hình kinh doanh xuất khẩu của công ty giầy Thăng
Long
Chương III : Phương hướng, biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu tại công
ty giầy Thăng Long
1
Từ thực trạng của công ty, ý thức được sự phức tạp và tầm quan
trọng của quá trình hoạt động xuất khẩu cũng như đòi hỏi thực tế của việc
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của xuất khẩu, cùng với sự giúp đỡ tận
tình của thầy giáo Hoàng Văn Hải cũng như các phòng chức năng của công
ty (đặc biệt là phòng Tài chính, phòng nhân sự và phòng xuất nhập khẩu)
đã giúp em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập tốt nghiệp này
2
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA
DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
I. XUẤT KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm xuất khẩu:
Trong điều kiện hiện nay, xét trên phạm vi quốc tế, nền kinh tế phát
triển theo cơ chế thị trường là yêu cầu khách quan của mọi quốc gia. Trong
tổng thể nền kinh tế được quốc tế hoá, một quốc gia không thể độc lập tách
khỏi mối quan hệ cùng có lợi với bên ngoài vì như thế là tự đóng cửa nền
kinh tế. Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển kéo theo sự phát triển của
phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế. Việc trao đổi và lưu thông
hàng hoá ngày càng phát triển cao hơn và hiện đại hơn từ trao đổi hàng hoá
với nhau trong từng vùng, giữa các vùng tiến tới vượt ra khỏi lãnh thổ của
một nước để trao đổi, mua bán với các quốc gia khác hình thành nên
thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước
thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xuất
khẩu và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế các quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu là một quá trình kinh doanh bao gồm nhiều
công đoạn khác nhau mà mỗi công đoạn lại mang những đặc điểm riêng
được tiến hành theo cách thức nhất định nhằm đem lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế.
Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là hệ thống các quan hệ mua
bán trong nền thương mại có tổ chức cả bên trong ra bên ngoài nhằm mục
đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Do đó, xuất khẩu là hoạt
động kinh tế đối ngoại dễ đem lại những hiệu quả đột biến cao, có thể gây
3
thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà
các chủ thể trong nước tham gia xuất nhập khẩu không dễ dàng khống chế
được. Vì vậy, khi buôn bán giao dịch với nước ngoài phải hết sức cảnh giác
với những phần tử cơ hội phá hoại nền kinh tế.
2. Vai trò hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường
- Vai trò quan trọng của hoạt động xuất khẩu nói riêng là tạo nguồn
tài chính cho hoạt động nhập khẩu, đảm bảo sự cân bằng của cán cân thanh
toán ngoại thương. Chính hoạt động xuất khẩu buộc các nhà sản xuất phải
tiết kiệm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh, nghiã là việc bán hàng hoá
trong nước ra nước ngoài sẽ hỗ trợ cho sản xuất trong nước. Xuất khẩu cho
phép hạ giá bán ở thị trường nội địa và tăng lợi ích cho người tiêu dùng.
- Xuất khẩu cũng ảnh hưởng đến điều kiện kinh doanh chung của
một nước. Trong chiều hướng quay lại kinh doanh nội địa, xuất khẩu
thường có xu hướng ổn định, tăng đều và góp phần làm giảm tác động
khủng hoảng ngắn hạn.
- Việc xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh, theo dõi kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ
giữa các chủ thể tham gia xuất khẩu. Nhờ sự cạnh tranh này làm cho chất
lượng hàng hoá được nâng cao, áp dụng khoa học kỹ thuật mới một cách
thường xuyên và có ý thức.
- Xuất khẩu dẫn đến xoá bỏ nhanh chóng việc các chủ thể kinh
doanh các sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được. Góp phần hoàn
thiện các cơ chế quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu thông qua các đòi
hỏi hợp lý của các chủ thể tham gia xuất nhập khẩu trong quá trình thực
hiện.
- Liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất và các nhà khoa học một
cách thiết thực từ phía các nhà sản xuất, nó khơi thông nhiều nguồn chất
xám cả trong và ngoài nước.
3.Chỉ tiêu đánh giá hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp:
4
- Chỉ tiêu doanh thu hàng xuất khẩu :
Mxk = Qxk * Pxk * T
Trong đó:
Mxk : doanh thu hàng xuất khẩu tính theo đồng Việt Nam
Qxk : số lượng hàng xuất khẩu
Pxk : giá một đơn vị hàng xuất khẩu
T : tỷ giá ngoạI tệ
- Chỉ tiêu doanh thu gia công hàng xuất khẩu :
Mgc = (Qgc * Pgc) + CFgc
Trong đó:
Mgc : doanh thu gia công hàng xuất khẩu
Qgc : số lượng sản phẩm gia công
Pgc : đơn giá chi phí gia công
CPgc : chi phí phụ trợ gia công
- Điểm hoà vốn :
+ Sản lượng hoà vốn
Qhv = Fcđ/P-V
Trong đó:
Qhv : sản lượng hoà vốn
Fcđ : chi phí cố định của doanh nghiệp
P : giá bán một đơn vị sản phẩm
V : chi phí biến đổi trên một đơn vị sản phẩm
+ Doanh thu hoà vốn :
DThv = Qhv * P
Trong đó:
DThv : doanh thu hoà vốn
+ Thời điểm hoà vốn :
Thv = DThv/Q
Trong đó:
5
Thv : thời điểm hoà vốn
Q : mức tiêu thụ mỗi tháng
Q = DTcả năm/12 tháng.
II. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ
THỊ TRƯỜNG.
1.Hoạt động nghiên cứu đi tới lựa chọn thị trường xuất khẩu của
doanh nghiệp .
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu
thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị
trường.
Để nắm vững các yếu tố của thị trường, hiểu biết về qui luật vận
động của chúng nhằm ứng xử kịp thời, mỗi nhà kinh doanh nhất thiết phải
tiến hành các hoạt động về nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường
hàng hoá thế giới có rất nhiều ý nghiã trong việc phát triển và nâng cao
hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong công tác xuất nhập khẩu
hàng hoá của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp nghiên cứu và nắm vững
biến động của tình hình thị trường về giá cả hàng hoá trên thế giới là những
tiêu đề quan trọng đảm bảo cho các tổ chức xuất nhập khẩu hoạt động trên
thị trường thế giới có hiệu quả cao nhất. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu
thì xuất siêu và tăng thu ngoại tệ - một vấn đề bức xúc với các tổ chức xuất
nhập khẩu cũng như Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới còn bao gồm cả việc nghiên
cứu toàn bộ quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá, tức là
việc nghiên cứu không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà cả lĩnh vực sản
xuất, phân phối hàng.
Đối với các tổ chức xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường hàng hoá
trên thế giới phải trả lời được các câu hỏi: xuất nhập khẩu cái gì? dung
6
lượng của thị trường hàng hoá đó như thế nào? bạn hàng giao dịch là ai?
Phương thức giao dịch, thanh toán nào được sử dụng?
Việc nghiên cứu thị trường phải được tiến hành dựa trên một số
phương pháp nhất định chứ không đơn thuần theo cảm tính.
1.1. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu :
Việc nhận biết mặt hàng xuất khẩu trước tiên phải dựa vào nhu cầu
của sản xuất và tiêu dùng về qui cách và chủng loại kích cỡ, giá cả, thời vụ,
thị hiếu và tập quán của từng vùng từng lĩnh vực sản xuất. Về khía cạnh
thương phẩm phải hiểu rõ giá trị, công dụng, các đặc tính của nó, qui cách,
phẩm chất mẫu mã. Nắm bắt được đầy đủ về giá cả hàng hoá, các mức giá
và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, các hoạt động dịch
vụ phục vụ cho hàng hoá như bảo hành, cung cấp phụ tùng, sửa chữa thiết
bị, hướng dẫn sử dụng…
Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, một số nhân tố nữa phải tính
toán đến đó là tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất
khẩu là số lượng bản tệ phải chi ra để thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ
suất tính ra lớn hơn tỷ giá hối đoái thì không thể xuất khẩu được.
Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu không chỉ dựa vào những tính
toán hay ước tính, những biểu hiện cụ thể của hàng hoá mà còn dựa vào
những kinh nghiệm của người nghiên cứu thị trường để dự toán được
những xu hướng biến động của giá cả hàng hoá thị trường trong nước cũng
như nước ngoài, khả năng thương lượng để đạt tới điều kiện mua bán có
ưu thế hơn.
1.2. Dung lượng thị trường:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá nhất định giao dịch
trên một phạm vi thị trường nhất định (thường là một năm).
Nghiên cứu về dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu nguồn
một cách hợp lý kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động trong từng thời
điểm, từng vùng và từng khu vực, từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng. Cùng
7
với việc xác định nắm bắt nhu cầu của thị trường bao gồm: việc xem xét
đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng hoá thay thế khả năng lựa chọn
mua bán. Một vấn đề nữa là thời vụ của sản xuất (cung) và tiêu dùng (cầu)
hàng hoá đó trên thị trường thế giới để có biện pháp thích hợp trong từng
giai đoạn bảo đảm nhất định. Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường
thay đổi chia làm ba loại sau:
1.2.1. Nhân tố làm dung lượng thị trường biến đổi có tính chất chu
kỳ.
Đó là sự khủng hoảng có tính chất chu kỳ của kinh tế TBCN và tính
chất thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Nhân tố quan
trọng có ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá trên thế giới là sự vận
động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khi nền kinh tế TBCN rơi vào
khủng hoảng tiêu điều thì dung lượng thị trường bị co hẹp và ngược lại.
Nhân tố thời vụ của sản xuất cũng có ảnh hưởng đến thị trường hàng
hoá. Do đặc điểm của sản xuất, lưu thông các loại hàng khác nhau nên sự
tác động của nhân tố này rất đa dạng với các mức độ khác nhau.
1.2.2. Nhân tố tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách
của Nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu tập quán của
người tiêu dùng, khả năng sản xuất hàng thay thế.
1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường
như các hiện tượng đầu cơ gây đột biến về cung cầu, các yếu tố tự nhiên
như thiên tai, bão lũ, hạn hán… các yếu tố về chính trị như đình công…
1.3. Chọn lựa đối tượng giao dịch:
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là
những người có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp
đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế, khoa học
kỹ thuật liên quan đến cung cấp hàng hoá.
Việc lựa chọn thương nhận để giao dịch dựa trên cơ sở nghiên cứu:
8
- Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh
doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên khả năng đặt
hàng và liên kết kinh doanh.
- Thái độ và quan điểm kinh doanh là vươn tới chiếm lĩnh thị trường
hay độc quyền về kinh doanh. Tìm hiểu uy tín và quan hệ kinh doanh cũng
là một điều kiện quan trọng cho phép đi đến những quyết định trong mua
bán một cách nhanh chóng và có hiệu quả hơn.
Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều
kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi mua bán thương mại quốc tế. Song
việc lựa chọn các đối tượng giao dịch cũng tuỳ thuộc một phần vào kinh
nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống mua bán của mình.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới trong thưong mại quốc tế
nói chung và xuất khẩu nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng trong
hoạt động kinh doanh. Đó là bước chuẩn bị, bước tiền đề để xuất nhập khẩu
hàng hoá được thực hiện có hiệu quả. Để nghiên cứu thị trường nước ngoài
có thể áp dụng nhiều biện pháp như sử dụng các loại báo chí, ấn phẩm hay
nghiên cứu trực tiếp ở thị trường.
1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu
Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng
thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ
trong nền kinh tế quốc dân như mối quan hệ giữa cung và cầu về hàng hoá,
tích luỹ tiêu dùng, công nghiệp-nông nghiệp. Giá cả luôn gắn liền với thị
trường, là một yếu tố cấu thành thị trường. Giá cả thị trường luôn biến động
và chịu tác tác động của nhiều nhân tố.
Giá cả có thể gồm các yếu tố : giá trị hàng hoá đơn thuần, bao bì, chi
phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm, các chi phí khác tuỳ theo từng bước giao
dịch và sự thoả thuận của các bên tham gia. Nghiên cứu giá cả bao gồm
việc nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng thời điểm, các loại giá trên
9
thị trường, xu thế biến động của giá cả thị trường và các nhân tố ảnh
hưởng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá trên thị trường có nhiều
và có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên
cứu. Đó là nhân tố chu kỳ, nhân tố lũng đoạn, nhân tố cạnh tranh, cung cầu,
nhân tố lạm phát, nhân tố thời vụ.
Ngoài những nhân tố đó, giá cả hàng hoá còn chịu tác động của
nhiều nhân tố khác như chính sách của Nhà nước, xung đột xã hội đình
công, thiên tai….Đây là những nhân tố có tác động trong thời gian ngắn.
Khi nghiên cứu giá cả thị trường phải phân tích được sự ảnh hưởng của các
nhân tố đến xu hướng biến động trong từng giai đoạn, tình hình cụ thể.
2. Tổ chức hoạt động giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu
2.1. Giao dịch - Đàm phán
Để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán người xuất khẩu và người nhập
khẩu thường phải trải qua một quá trình giao dịch, thương lượng với nhau
về điều kiện giao dịch. Các bước chủ yếu đó là:
- Hỏi giá: Với phương diện pháp luật thì đây là lời thỉnh cầu bước
vào giao dịch. Nhưng xét về thưong mại thì đây là việc người mua đề nghị
người bán báo cho mình biết giá cả và điều kiện mua hàng.
Nội dung của hỏi giá gồm: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng,
thời gian giao hàng. Giá cả mà người mua có thể trả cho mặt hàng thường
được ngưòi mua giữ kín. Việc hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của
người được hỏi giá. Người hỏi giá thường hỏi nhiều nơi nhằm nhận được
nhiều bản chào hàng cạnh tranh để so sánh lựa chọn bản chào hàng thích
hợp nhất.
- Chào hàng: Trong kinh doanh việc phát giá là chào hàng, là việc
người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Trong
chào hàng nêu rõ : Tên hàng, quy cách, phẩm chất, giá cả, số
10
lượng, điều kiện thanh toán, bao bì, ký mã hiệu, thể thức giao
nhận…
- Đặt hàng: Lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ giá người
mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng người
mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những nội dung
cần thiết cho việc ký kết hợp đồng.
- Hoàn giá: Khi người nhận được chào hàng không nhận lời chào
hàng đó mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị này là hoàn giá.
Khi có hoàn giá, chào hàng đó bị huỷ bỏ.
- Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả moị điều kiện của chào
hàng mà giá bên kia đưa. Khi đó một hợp đồng được lập thành.
- Xác nhận: Hai bên mua bán sau khi thống nhất thoả thuận về các
điều kiện giao dịch, có khi ghi lại thoả thuận gửi cho bên kia. Đó
là văn kiện xác nhận, thường được lập thành hai bản, bên xác
nhận ký trước rồi gửi bên kia, bên kia ký xong giữ lại một bản và
gửi lại một bản.
Trong những bước đàm phán trên thì “chào hàng” được quan tâm
hơn cả vì đó là cơ sở dẫn đến hợp đồng. Do đặc điểm của kinh doanh
thương mại quốc tế, những bước giao dịch nói trên thường được tiến hành
thông qua thư tín, điện tín, điện thoại hoặc gặp gỡ trực tiếp.
Các hình thức đàm phán chủ yếu:
- Đàm phán qua thư tín: Là hình thức chủ yếu để giao dịch. Những
cuộc đàm phán thường qua thư từ ngay cả sau nàykhi hai bên đã
có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải
qua thư từ thương mại.
- Đàm phán qua điện thoại: Việc đàm phán qua điện thoại nhanh
chóng, giúp nhà kinh doanh tiến hành đàm phán một cách khẩn
trương, đúng vào thời cơ cần thiết nhưng phí tổn điện thoại cao
11
các cuộc trao đổi thường bị hạn chế về mặt thời gian, các bên
không thể trao đổi chi tiết.
- Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: Việc gặp gỡ trực tiếp giữa
hai bên để trao đổi về mọi điều kiện buôn bán là một hình thức
tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát
cho những đàm phán bằng thư tín hoặc điện thoại
Người tiến hành đàm phán nên biết dùng ngôn ngữ dùng để đàm
phán, vì như vậy sẽ dễ chủ động, linh hoạt và nâng cao được tốc độ đàm
phán.
2.2. Ký kết hợp đồng xuất khẩu
Việc ký kết hợp đồng xuất khẩu cần được tiến hành kịp thời khi điều
kiện đã chín muồi. Không nên nôn nóng trong việc ký kết dù thấy thời gian
đàm phán đã sắp hết. Nếu một bên nắm được bên kia có ý định hợp đồng
trong đợt đàm phán thì sẽ ép buộc bên kia có nhiều nhượng bộ.
Các bên tham gia ký kết cần chú ý các điểm chính sau:
- Chủ thể tham gia ký kết : xác định xem người tham gia ký kết có
đủ thẩm quyền không để đảm bảo cho hợp đồng sau khi được ký
kết có đủ giá trị pháp lý.
- Hình thức của hợp đồng mua bán ngoại thương : Bằng văn bản
hoặc bằng miệng.
- Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp, hợp lệ.
- Nguyên tắc ký kết phải tự nguyện, hai bên cùng có lợi.
* Trình tự ký kết hợp đồng xuất khẩu
- Cần nghiên cứu khả năng thu mua hoặc sản xuất hàng xuất khẩu .
- Nghiên cứu thị trường các nước và khu vực cũng như thị trường
của mặt hàng định xuất khẩu để nắm chắc mặt hàng, bao bì, giá
cả, ước tính hiệu quả kinh doanh.
- Tìm khách hàng thông qua giao dịch chào hàng, cần chú ý tới
việc lựa chọn hình thức và biện pháp giao dịch phù hợp nhất.
12
- Đàm phán trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Ký kết hợp đồng.
* Phương pháp ký kết:
Tuỳ từng điều kiện cụ thể của hợp đồng kinh tế ngoại thương có thể
thực hiện bằng một trong các hình thức sau;
- Hai bên ký vào một hợp đồng mua - bán.
- Người bán xác nhận bằng văn bản là người muâ đã đồng ý với
các điều khoản của thư chào hàng tự do nếu người mua nếu người
mua viết đúng thủ tục cần thiết.
- Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được những điều thoả thuận
trong đơn đặt hàng trước đây của hai bên.
Trong hợp đồng không được có những điều khoản trái với luật lệ
hiện hành của nước bán hoặc nước mua. Người đứng ra ký kết phải đúng là
người có thẩm quyền. Ngôn từ dùng để xây dựng hợp đồng phải là ngôn từ
mà hai bên đều thông thạo.
2.3. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu của doanh nghiệp trong cơ chế
thị trường
Sau khi hợp đồng được ký kết, hai bên trao đổi, mua bán theo thoả
thuận. Điều kiện quyết định để giao hàng là khách hàng phải mở L/C của
mình theo đúng yêu cầu. Đây là biện pháp tránh rủi ro trong thanh toán
ngoại thương.
Việc làm thủ tục hải quan, không nhất thiết tại cảng giao hàng mà có
thể làm tại kho bãi của doanh nghiệp dưới sự kiểm tra, giám sát việc đóng
hàng của hải quan.
- Kiểm tra L/C do bên mua mở.
- Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu
- Uỷ thác thuê tàu
- Kiểm nghiệm hàng hoá
- Làm thủ tục hải quan
13
- Giao hàng lên tàu
- Mua bảo hiểm hàng hoá
- Làm thủ tục thanh toán
- Giải quyết khiếu nại (nếu có)
2.4. Đánh giá kết quả xuất khẩu
Do cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ chưa chấm dứt nên thị
trường nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng khó khăn ở thị trường nước ngoài là
đơn đặt hàng mới chưa nhiều, thị trường cũ chưa ổn định, còn ở trong nước
các sản phẩm của Thái Lan, Hàn Quốc, Hồng Kông… đã lấn sân vì sản
phẩm của họ đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam. Sản
xuất công nghiệp tiêu dùng năm 2001 gặp nhiều khó khăn, năm 2000 kim
ngạch xuất khẩu giảm. Tuy vậy, Tổng Công ty Da - Giầy Việt Nam vẫn
luôn cố gắng tìm kiếm thị trường, sản xuất sáng tạo mẫu mã mới, chú ý tới
chất lượng sản phẩm để ngành Da - Giầy Việt Nam vẫn luôn cố gắng tìm
kiếm thị trường , sản xuất sáng tạo mẫu mã mới, chú ý tới chất lượng sản
phẩm để ngành Da - Giầy nói riêng ngày càng đi lên và phát triển không
ngừng.
3. Hình thức và phương thức xuất khẩu
3.1. Xuất khẩu gián tiếp:
Là hình thức bán hàng hoá qua một số trung gian nước ngoài để họ
bán lại cho người tiêu dùng. Xuất khẩu gián tiếp ít gặp nguy hiểm khi
doanh nghiệp không nắm vững thị trường nước ngoài và có thể sử dụng
tiềm lực của người trung gian. Nhưng lợi nhuận lại không cao.
3.2. Xuất khẩu trực tiếp:
Doanh nghiệp lập các cửa hàng, văn phòng đại diện ở nước ngoài và
đưa hàng ra bán. Doanh nghiệp chịu bất lợi về chi phí vận chuyển, thuế và
chi phí để duy trì cửa hàng, văn phòng đại diện ở nước ngoài nhưng lại
kiểm soát và nắm chắc được hoạt động kinh doanh và có cơ may để đứng
vững ở thị trường nước ngoài.
14
3.3. Liên doanh:
Thông qua hai hay nhiều nhà đầu tư cùng sở hữu một xí nghiệp theo
tỷ lệ góp vốn 6/4 hoặc 7/3, sản xuất hàng hoá xuất khẩu .
IV. NHÂN TỐ ÁNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1. Nhân tố khách quan
1.1. Nhân tố cung cầu - thanh toán quốc tế:
Cung cầu là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động của
giá cả hàng hoá. Nếu cung vượt quá cầu thì sẽ thúc đẩy xu hướng giảm giá
và ngược lại. Các quốc gia khi sản xuất hàng hoá đều trên một lợi ích
thương mại. Khi không có thương mại , một quốc gia sản xuất nhiều dẫn
đến dư thừa một loại hàng hoá nào đó. Ngược lại quốc gia khác lại thiếu
hàng hoá này và thừa hàng hoá khác. Từ đó dẫn tới nhu cầu cung ứng của
các quốc gia khác nhau và hình thành nên thương mại. Thương mại quốc tế
giúp cho nhu cầu tiêu dùng hàng hoá ở các quốc gia luôn ở mức cân bằng.
Vấn đề thanh toán quốc tế cũng là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp cũng như đồng tiền tính giá,
đồng tiền thanh toán phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi trên thị
trường tiền tệ quốc tế. Việc thanh toán là cả một quá trình từ việc nắm bắt
tỷ giá hối đoái đến các điều kiện đảm bảo tín dụng trong thanh toán . Các
hình thức thanh toán trả tiền phải phù hợp với đặc điểm từng quốc gia, từng
ngành nghề, công ty sản xuất để đảm bảo độ tin cậy lẫn nhau. Do đó các
nhà doanh nghiệp cũng rất quan tâm đến việc thanh toán quốc tế trong hợp
đồng thương mại.
1.2. Chính sách thương mại của các nước
Trong điều kiện hiện nay, xét trên phạm vi quốc tế , nền kinh tế phát
triển theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan của một quốc gia.
Trong đó , xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi
quốc tế. Các chính sách thương mại ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu của
15
một quốc gia. Chính sách thuế, hàng rào hải quan có thể cản trở hay truy
kích xuất khẩu. Các quy định trong chính sách thương mại các nước như ưu
đãi thuế quan hoặc sử dụng hạn ngạch đều ảnh hưởng rất lớn đến xuất
khẩu.
2. Nhân tố chủ quan:
2.1. Nhân tố tài chính - cơ sở vật chất của doanh nghiệp
Nhân tố tài chính là một nhân tố phản ánh thực trạng phát triển của
doanh nghiệp. Toàn bộ tài chính của doanh nghiệp thể hiện cơ sở vật chất
kỹ thật của doanh nghiệp đó. Trước khi ký kết hợp đồng, doanh nghiệp
phải biết được tình hình tài chính của bạn hàng, cơ sở vật chất kỹ thuật tối
thiểu mà thể hiện rõ nét ở các bất động sản mà họ có.
2.2. Chất lượng và giá cả hàng hoá xuất khẩu
Trong giai đoạn hiện nay, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường,
các công ty luôn phải cạnh tranh giữa người mua với nhau, người bán với
nhau và mục đích của nó là đạt được lợi nhuận. Muốn vậy, doanh nghiệp
không chỉ quan tâm đến số lượng mà quan trọng hơn là chất lượng và giá
cả hàng hoá không những được quyết định bởi giá trị hàng hoá mà còn phụ
thuộc vào giá trị tiền tệ. Trên thị trường thế giới, giá cả được biểu hiện
bằng đồng tiền của những nước có vị trí quan trọng trên thị trường quốc tế.
Do đặc điểm của nền kinh tế tư bản, giá trị những đồng tiền này cũng luôn
thay đổi và việc thay đổi ấy gắn liền với lạm phát.
2.3. Nhân tố con người - đội ngũ CBCNV của doanh nghiệp
Trong sản xuất kinh doanh xuất khẩu, con người là chủ thể của hoạt
động kinh doanh. Cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi con người
phải có trình độ nghiệp vụ cao, đặc biệt là năng động. Đội ngũ công nhân
lành nghề, cán bộ nhiệt tình, năng động có trình độ nghiệp vụ cao là nguồn
nhân lực quý báu quyết định tới chất lượng sản phẩm. Chính nó nâng cao
chất lượng tiềm năng của con người, làm cho người lao động làm việc có
năng suất hơn. Trong sự phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế
16
thị trường ở Việt Nam, lao động nói chung, hoạt động của các nhà quản lý
nói riêng, kinh nghiệm và sự rèn luyện của họ trong lĩnh vực hoạt động sản
xuất kinh doanh là một yếu tố trọng yếu, tạo điều kiện thành công cho
doanh nghiệp .
2.4. Khả năng xúc tiến thị trường
Nắm vững thị trường, tìm hiểu về quy luật vận động của chúng nhằm
đáp ứng kịp thời, mỗi nhà kinh doanh nhất thiết phải tiến hành các hoạt
động về nghiên cứu thị trường, xúc tiến thăm dò thị trường có nhiều ý
nghĩa trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc
biệt là trong công tác xuất nhập khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia, mỗi
doanh nghiệp. Nghiên cứu và nắm vững biến động của tình hình thị trường
về giá cả hàng hoá trên thế giới là những tiền đề quan trọng đảm bảo cho
các tổ chức xuất nhập khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có hiệu quả
cao nhất.
17
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH KINH DOANH XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY GIẦY
THĂNG LONG
I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY GIẦY THĂNG LONG
1. Khái quát lịch sử hình thành của Công ty Giầy Thăng Long
Công ty Giầy Thăng Long là một đơn vị hạch toán độc lập thuộc
Tổng Công ty Giầy Da Việt Nam được thành lập theo quyết định số QĐ
210 ngày 14/4/1990 của Bộ Công nghiệp. Trụ sở tại đường Nguyễn Tam
Trinh - Mai Động - Hai Bà Trưng - Hà Nội. Tên giao dịch "Thăng Long
Shoes Company". Sản phẩm chủ yếu của Công ty là giầy vải, giầy thể thao
xuất khẩu.
Từ khi thành lập và xây dựng cho đến đầu năm 1993 Công ty thực
hiện hợp đồng xuất khẩu mũ giầy cho Liên Xô. Nhưng do mới thành lập,
máy móc thiết bị không đồng bộ, tay nghề của công nhân cũng như trình độ
quản lý sản xuất của cán bộ quản lý chưa cao nên năng suất còn thấp,
không đạt chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra. Đến năm 1993 thị trường Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ, hàng loạt các nhà máy trong đó có Công ty Giầy Thăng
Long lâm vào tình trạng mất thị trường và không có việc làm cho người lao
động. Công ty đã thực sự gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường và
bạn hàng cho mình nhằm duy trì sự tồn tại. Mặt khác Công ty còn khá non
trẻ, vốn do Nhà nước cấp.
Xuất phát từ việc tìm hiểu nhu cầu sử dụng giầy nội địa và đặc biệt
là xuất khẩu cho bạn hàng nước ngoài, Công ty đã chủ động gia tăng nguồn
vốn kinh doanh bằng việc vay lãi của ngân hàng và các nhà đầu tư, thậm
chí huy động cả nguồn vốn của cán bộ công nhân viên trong Công ty để
mạnh dạn trang bị máy móc thiết bị hiện đại phù hợp với thị trường và thị
hiếu người tiêu dùng.
18
Tháng 8/1998 Công ty đã đầu tư thêm máy móc thiết bị, xây dựng
nhà xưởng, mở rộng qui mô sản xuất. Tính đến 31/12/2001, cơ sở sản xuất
của Công ty như sau:
1. Nguồn vốn chủ sở hữu : 65 tỷ đồng
2. Số lao động : 1900 cán bộ công nhân viên
3. Tổng doanh thu : 80 tỷ đồng
4. Thu nhập bình quân : 700.000 đồng/người
2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty
a. Chức năng.
- Sản xuất giầy dép và sản phẩm từ da.
- Xuất nhập khẩu trực tiếp.
+ Xuất khẩu: Giầy dép và sản phẩm từ da.
+ Nhập khẩu: Vật tư nguyên liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất.
b. Nhiệm vụ.
- Thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trên cơ sở tự chủ động và
tuân theo qui định của pháp luật.
- Nghiên cứu thực hiện có hiệu quả các biện pháp nâng cao chất
lượng các mặt hàng do công ty sản xuất, kinh doanh nhằm tăng cường sức
mạnh cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ.
3. Chức năng nhiệm vụ của phòng ban.
- Ban giám đốc.
+ Giám đốc là người đứng đầu công ty là người đại diện cho quyền
lợi và nghĩa vụ của công ty trước cơ quan cấp trên, trước pháp luật và đồng
thời là người điều hành quản lý mọi hoạt động của công ty thông qua sự
giúp đỡ của phó Giám đốc và các phòng ban chức năng.
+ Một Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật.
+ Một Phó giám đốc phụ trách kinh doanh.
+ Một Phó giám đốc xuất nhập khẩu.
- Phòng tổ chức hành chính.
19
+ Tuyển dụng lao động
+ Công tác bảo hiểm xã hội, văn thư lưu trữ.
- Phòng kinh doanh: gồm 2 phòng kế hoạch vật tư và phòng xuất
nhập khẩu có nhiệm vụ.
+ Lập kế hoạch mua sắm thiết bị, vật tư, quản lý vật tư, nguyên liệu
phụ.
+ Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, lên kế hoạch sản xuất
và giao hàng cho từng hợp đồng.
- Phòng tài vụ: Thực hiện toàn bộ công tác tài chính kế toán của công
ty, quản lý các nguồn thu, đảm bảo vốn cho mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Phòng bảo vệ: Giữ gìn an ninh trật tự, an toàn trong công ty và bảo
vệ nội bộ doanh nghiệp.
- Phân xưởng cơ điện: Tiến hành theo dõi và sửa chữa toàn bộ hệ
thống cung cấp điện, nước, máy móc thiết bị theo định kỳ và thường xuyên.
- Xí nghiệp I: Gồm 2 phân xưởng.
+ Phân xưởng chuẩn bị giày vải.
+ Phân xường chuẩn bị giày thể thao.
- Xí nghiệp II: Gồm 3 phân xưởng cán luyện cao su, phân xưởng ép
đế, phân xưởng làm keo.
- Xí nghiệp III: Gồm 2 dây chuyền sản xuất giầy vải với 3 phân
xưởng may, phân xưởng giầy và phân xưởng vệ sinh, kiểm tra, đóng gói.
- Xí nghiệp IV: Gồm 1 dây chuyền sản xuất giầy thể thao đồng thời có
thể sản xuất giầy vải. Xí nghiệp này cũng có 3 phân xưởng như xí nghiệp III.
4. Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty:
Công ty giầy Thăng Long được tổ chức theo cơ cấu quản lý trực
tuyến chức năng. Đây là một cơ cấu quản lý mà toàn bộ công việc được
giải quyết theo một kênh liên hệ đường thẳng giữa cấp trên và cấp dưới
20
trực thuộc. Chỉ có lãnh đạo quản lý ở từng cấp mới có nhiệm vụ và quyền
hạn ra mệnh lệnh và chỉ thị cho cấp dưới (tức là mỗi phòng ban, xí nghiệp
của công ty chỉ nhận quyết định của một thủ trưởng cấp trên theo nguyên
tắc trực tiếp). Giám đốc công ty là người ra quyết định cuối cùng cũng như
để hỗ trợ cho quá trình quyết định của giám đốc các bộ phận chức năng.
Các bộ phận chức năng này không ra lệnh một cách trực tiếp cho các đơn
vị cấp dưới mà chỉ nghiên cứu, chuẩn bị các qui định cho lãnh đạo, quản lý
và thực hiện các hướng dẫn kiểm tra giám sát chỉ đạo việc thực hiện các
mục tiêu trong phạm vi chức năng chuyên môn của mình.
21
II. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1. Kim ngạch xuất khẩu:
Trải qua những thăng trầm và biến đổi của thời kỳ đầu sau khi thị
trường truyền thống( Liên Xô cũ) và các nước Đông Âu bị sụp đổ, các hiệp
định song phương bị tan vỡ. Ngành giầy nói chung và công ty nói riêng
tưởng như sụp đổ hoàn toàn. Công ty đã tìm đủ mọi cách để chuyển sang
phương thức làm ăn mới thiết lập các mối quan hệ với các đối tác nước
ngoài, tạo lập cơ sở sản xuất, dây chuyền máy móc thiết bị mới áp dụng
những bước đi và phương hướng với tình hình thị trường và khả năng thực
tế. Chính vì vậy mà tình hình xuất khẩu của công ty đã chuyển biến ngày
càng rõ rệt, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên trong những năm .
Sơ đồ kim ngạch xuất khẩu
7000.000
6000.000 4297941
5000.000
4000.000 2371597
3000.000
2000.000
1000.000
0 1999 2000 2001
Nhìn sơ đồ kim ngạch xuất khẩu của công ty qua 3 năm gần đây ta
thấy rằng:
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 4.298.031USD tăng lên
1.926.344 USD so với năm 1999 tức là 81%. Đến năm 2001 kim ngạch
xuất khẩu đạt 6.347.492 USD tăng so với năm 1999 là 3.975.899 USD với
tỉ lệ là 167,5%.Như vậy năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng
lên rất nhanh. Điều đó chứng tỏ công ty rất nhạy bén trên thị trường, nắm
bắt được thị hiếu tiêu thụ, nhu cầu tiêu dùng của dân cư, do đó sản lượng
hàng xuất khẩu ngày càng tăng.
2. Hoạt động nghiên cứu, lựa chọn thị trường xuất khẩu
22
6347492
2.1. Thị trường xuất khẩu.
Do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ chưa chấm dứt nên thị
trường
Da- Giầy vẫn còn bị ảnh hưởng, khó khăn ở thị trường cũ vẫn chưa ổn
định, đơn đặt hàng chưa nhiều còn thị trường trong nước bị các sản phẩm
của Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc…lấn sân vì sản phẩm của họ đáp
ứng được thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam vốn ưa mác ngoại và giá
rẻ.Vì vậy việc tìm kiếm thị trường trong nước là khó thực hiện nên công ty
phải tìm kiếm thị trường nước ngoài. Đến nay sản phẩm của công ty đã tiêu
thụ ở 14 nước trên thế giới thuộc EU như Anh, Pháp, Italia… trong đó
Đức, Italia là hai bạn hàng lớn nhất.
Khối EU là khối các nước công nghiệp phát triển ở đỉnh cao, dân cư
ở mức thu nhập cao, sành về thời trang làm đẹp. Hai năm trở lại đây công
ty đặc biệt chú trọng vào thị trường EU nơi đang có lợi thế so với các nước
sản xuất giày như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan…bởi vì Việt nam
được hưởng quy chế ưu đãi chung”GSP”. Đây là hệ thống ưu đãi phổ cập
là cơ chế của các nước Tây Âu thực hiện miễn giảm thuế cho các nước
đang phát triển trong đó có Việt nam. Hơn thế nữa một số nước trong khu
vực như Thái Lan, Trung Quốc…đang bị EU áp dụng luật phá giá. Dưới
đây là bảng tỷ trọng xuất khẩu của công ty:
23
Bảng tỷ trọng thị trường xuất khẩu
ĐVT:USD
TT
Năm
TT
1999 2000 2001
Tỷ trọng %
1999 2000 2001
1 Đức 1530068 1152191 2069282 64,5 26,8 32,6
2 Italia 4495068 1353761 240664 20,9 31,5 35,3
3 Hà Lan 0 784656 336417 0 18,3 5,3
4 Pháp 20856 338309 590316 0,9 7,9 9,3
5 Anh 88812 556274 431629 3,7 12,9 6,8
6 Nga 0 112840 0 0 2,6
7 Thuỵ Sĩ 40185 0 0 1,7
8 Mêhicô 8280 0 0 0,3
9 Áo 56235 0 0 2,4
10 Tây Ban
Nha
132093 0 0 5,5
11 Nam Tư 0 0 678184 0 10,7
12 Tổng cộng 2371567 4298031 6347492 100 100 100
Qua số liệu của bảng ta thấy kim ngạch của công ty vào các thị
trường không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 1999 kim ngạch đạt
2371567 USD đến năm 2001 đã tăng 268% đạt được 6347492 USD. Năm
2001 so với năm 2000 thì tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu ở thị trường Đức,
Italia, Pháp, Nam Tư tăng còn Anh với Hà Lan thì giảm. Trong đó đáng lưu
ý nhất là Italia tăng từ 31,5% lên 35,3% đạt được 2240664 USD. Thị
trường Đức tăng từ 26,8% lên 32,6% đạt 2069282 USD. Điều này chứng tỏ
thị trường Italia, Đức đang được công ty chú trọng.
Hiện nay bốn thị trường lớn của công ty chiếm tỷ trọng lớn trong
kim ngạch xuất khẩu là Pháp , Đức, Anh, Italia …trong đó Đức và Italia là
bạn hàng lâu năm của công ty trong mấy năm gần đây. Trị giá xuất khẩu
sang các nước này bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của công ty. Nếu giầy dép của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng
nhanh, khi tỷ trọng nhập khẩu từ Việt Nam chiếm 25% tổng sản lượng
nhập khẩu vào EU. Thì Việt nam lúc đó sẽ không được hưởng ưu đãi thuế
24
quan mà sẽ bị EU áp dụng hạn ngạch. Điều này sẽ mang đến nhiều bất lợi
cho công ty, nếu công ty không dự báo được trước thì sẽ bị rủi ro. Trong
thời gian tiếp theo công ty cần tìm hiểu thị trường khác như Mỹ, Bắc Mỹ,
Nhật.
Việc lựa chọn thị trường là quá trình đánh giá cơ hội thị trường và
xác định hướng thị trường xuất khẩu. Trên cơ sở năng lực sản xuất tiềm
năng sẵn có và những thuận lợi đang có, công ty đã đưa ra những định
hướng lựa chọn thị trường như sau:
- Thứ nhất: tập trung chủ yếu vào thị trường EU. Đây là thị trường
đông dân khoảng 370 triệu người có mức tiêu dùng giầy dép bình
quân đầu người rất cao 5-6 đôi/người/năm. Hàng năm EU nhập
khoảng 900 triệu đôi giầy dép các loại tuy nhiên thị trường này
đòi hỏi sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, hợp thời
trang.
- Thứ hai: thu hút khách hàng tiềm năng và mở rộng thị trường
sang Mỹ, Bắc Mỹ, Nhật.
+ Đối với thị trường Mỹ và Bắc Mỹ:
Tiềm năng tiêu thụ ở thị trường này rất lớn. Dân số gần 400 triệu
người có mức tiêu thụ giầy dép cao nhất thế giới, khoảng 1.8 tỷ đôi/năm.
Trong đó riêng ở thị trường Mỹ chiếm 1.5 - 1.6 tỷ đồng/năm nhưng chỉ sản
xuất 10 - 15 % tổng sản lượng tiêu thụ. Vì vậy đây là một thị trường mà
công ty cần phải chú trọng trong tương lai đây sẽ là một thị trường quan
trọng số một của công ty khi Việt Nam và Mỹ đang bình thường hoá quan
hệ.
+ Đối với thị trường Nhật:
Nhật Bản là nước có dân số đông 130 triệu người là một cường quốc
có tiềm năng sản xuất nhưng do thiếu nhân công, sức ép cạnh tranh ngày
càng lớn nên sản xuất bị thu hẹp trong những năm gần đây. Nhật đang trở
thành một quốc gia nhập khẩu giầy dép lớn nhất thế giới (300 triệu đôi/
25