Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Sử Dụng Bảo Tàng Đường Hồ Chí Minh Trong Dạy Học Lịch Sử Việt Nam Thời Kì 1954- 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.56 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ PHƢỢNG

SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954- 1975
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO
HÀ ĐÔNG - HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

HÀ NỘI- 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ PHƢỢNG

SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954- 1975
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO
HÀ ĐÔNG - HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)
Mã số: 60 1401 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thanh Tú



HÀ NỘI- 2017


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này, cho tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành
và sâu sắc nhất đến cô giáo: TS. Hoàng Thanh Tú- giảng viên trường Đại học
giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội, người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ
bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học
Giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi được học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban quản lý bảo tàng đường Hồ
Chí Minh cùng các thầy cô giáo, các em học sinh của trường THPT Trần
Hưng Đạo, THPT Lê Qúy Đôn, THPT Quang Trung (Hà Đông- Hà Nội) đã
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn động
viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2017
Học viên

Nguyễn Thị Phượng

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DHLS


Dạy học Lịch sử

GD - ĐT

Giáo dục và đào tạo

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

THPT

Trung học phổ thông

ii


MỤC LỤC
Lời cảm ơn ......................................................................................................... i
Danh mục các chữ viết tắt ................................................................................. ii
Danh mục bảng.................................................................................................. v
Danh mục biểu đồ, hình ................................................................................... vi
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

VIỆT NAM Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG .......................... 10
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................. 10
1.1.1. Quan niệm về sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông ................................................................................................................ 10
1.1.2. Các loại bảo tàng ................................................................................... 15
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong
dạy học lịch sử ở trường phổ thông ................................................................ 17
1.1.4. Yêu cầu sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử. 25
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 27
1.2.1. Thực trạng việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử
hiện nay ........................................................................................................... 27
1.2.2. Thực trạng việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy và học

Lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975……………………………………….32
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 42
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ
CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954 –
1975 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO - HÀ
ĐÔNG- HÀ NỘI.THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM .............................................. 43
iii


2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung của phần lịch sử Việt Nam thời kì .................. 43
2.1.1. Vị trí và mục tiêu................................................................................... 43
2.1.2. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975. ............ 45
2.2. Khảo sát nguồn tư liệu tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh có thể sử dụng
trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975. .................................... 47
2.3. Một số biện pháp sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học
lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975 ở trường THPT Trần Hưng Đạo- Hà
Đông- Hà Nội. ................................................................................................. 53

2.3.1.Bài học nội khóa..................................................................................... 53
2.3.2. Hoạt động ngoại khóa ........................................................................... 70
2.4. Thực nghiệm sư phạm .............................................................................. 84
2.4.1. Mục đích, đối tượng thực nghiệm ......................................................... 84
2.4.2. Nội dung, phương pháp thực nghiệm....................................................84
2.4.3. Kết quả thực nghiệm ............................................................................. 85
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 89
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92
DANH MỤC PHỤ LỤC................................................................................ 95

iv


DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Tổng hợp ý kiến GV và HS về hiệu quả sử dụng bảo tàng đường
Hồ Chí Minh trong DHLS............................................................................... 35
Bảng 1.2. Tổng hợp ý kiến GV và HS về hình thức hoạt động ngoại khóa tại
bảo tàng đường Hồ Chí Minh (%) .................................................................. 38
Bảng 2.1. Bảng tổng hợp kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC ...... 86

v


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH

Biểu đồ 1.1. Tổng hợp ý kiến GV và HS về sự cần thiết của việc sử dụng bảo
tàng trong DHLS ở trường phổ thông. .................................................................................... 34
Biểu đồ 1.2. Tổng hợp ý kiến GV và HS về sự quan tâm đối với bảo tàng

đường Hồ Chí Minh (%) ................................................................................................................. 37
Hình 2.1. Ngã ba Đồng Lộc ............................................................................ 55
Hình 2.2. Lính Mỹ chém giết dân ở Tây Ninh ................................................ 56
Hình 2.3. Tuổi 20 ở Trường Sơn..................................................................... 57
Hình 2.4. Qua cầu treo .................................................................................... 58
Hình 2.5. Xe cơ giới chở hàng vào miền Nam ............................................... 59
Hình 2.6. Đường kín Trường Sơn ................................................................... 60
Hình 2.7. Giao liên gùi thồ .............................................................................. 65
Hình 2.8. Ngựa gùi hàng ................................................................................. 66
Hình 2.9. Voi gùi hàng .................................................................................... 66
Hình 2.10. Đôi dép cao su của anh hùng Nguyễn Viết Sinh .......................... 68
Hình 2.11. Tuổi 20 ở Trường Sơn................................................................... 69

vi


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và quá trình xây
dựng đất nước theo con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nước ta đã có
nhiều sự chuẩn bị và đầu tư vào các ngành: Kinh tế, văn hóa, xã hội… để chúng
ta vững vàng hơn, có thể sánh vai với các cường quốc năm châu. Giáo dục đào
tạo cũng luôn được quan tâm và được coi là quốc sách hàng đầu.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông
phải đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Yêu cầu này được cụ thể hóa trong Luật
giáo dục năm 2005, được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI thông qua (sửa đổi, bổ sung năm 2010): "Mục tiêu giáo dục là
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức

khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, hình thành bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [15, tr.18]. Trong các nhà
trường phổ thông, mỗi bộ môn học đều có đặc trưng riêng và đều góp phần vào
việc thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo, môn Lịch sử cũng có một vị trí
rất quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách cho học sinh.
Trong dạy học Lịch sử, giáo viên sử dụng nhiều phương pháp để nâng
cao hiệu quả bài học, trong đó phương pháp trực quan góp phần quan trọng
tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện
đại hóa lịch sử của học sinh. Để hiểu sâu, nhớ kỹ và nắm rõ các sự kiện lịch sử,
ngoài các tài liệu, kiến thức lịch sử trong sách giáo khoa thì có nhiều nguồn tài
liệu, hiện vật khác cũng rất phong phú, nhất là ở gần địa phương nơi các em học
tập, sinh sống như hệ thống bảo tàng, các di tích lịch sử - văn hóa…
Bên cạnh việc lưu giữ, trưng bày các hình ảnh, hiện vật lịch sử, bảo tàng
còn thực hiện chức năng tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy tinh thần yêu nước và
1


lòng tự hào dân tộc cho khách tham quan. Ở Hà Nội có rất nhiều bảo tàng: Bảo
tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng Lịch sử, bảo tàng Dân tộc học… mỗi bảo tàng đều
có những tư liệu đặc trưng và nội dung, ý nghĩa khác nhau. Trong đó, bảo tàng
đường Hồ Chí Minh là nơi trưng bày và lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật liên quan
đến một thời kì vô cùng hào hùng của lịch sử dân tộc. Bảo tàng đường Hồ Chí
Minh thuộc phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, Hà Nội là một công trình văn
hóa mang tính đặc thù của bộ đội Trường Sơn, nơi duy nhất ở Việt Nam lưu
giữ một con đường bằng bảo tàng riêng: Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí
Minh.
Nhà thơ Phạm Tiến Duật, một cựu chiến binh Trường Sơn, khi đến Bảo
tàng đã viết vào sổ cảm tưởng: “Không thể cho một dãy núi vào trong một
ngôi nhà. Nhưng ngôi nhà, Bảo tàng đường Hồ Chí Minh, đã chứa đựng tất cả

kim cương và quặng quý của dãy núi ấy”. Với những hiện vật quý giá gắn liền
với lịch sử của dân tộc cùng sự tâm huyết của đội ngũ cán bộ bảo tàng, mà từ
khi mở cửa đến nay, Bảo tàng đã trở thành một địa chỉ tham quan hấp dẫn với
du khách. Đồng thời, Bảo tàng cũng làm tròn trách nhiệm giáo dục truyền
thống lịch sử cho thế hệ trẻ Việt Nam
Việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học nói chung và dạy học
lịch sử nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nghiên
cứu lý luận dạy học, giáo dục và giáo dục lịch sử và các nhà nghiên cứu lịch
sử, văn hóa. Cho đến nay đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu đề cập
đến vấn đề này ở những khía cạnh, mức độ khác nhau nhưng chưa có công
trình nghiên cứu nào đưa bảo tàng đường Hồ Chí minh vào dạy học Lịch sử.
Vì vậy, việc chọn đề tài “Sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong
dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954-1975 ở trường THPT Trần Hưng
Đạo-Hà Đông- Hà Nội” làm đề tài luận văn, sẽ có ý nghĩa về mặt khoa học,
bổ sung cho lý luận dạy học lịch sử, nhất là việc sử dụng bảo tàng trong dạy
học lịch sử, vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa góp phần nâng cao chất lượng dạy
học môn lịch sử hiện nay.
2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề sử dụng tư liệu của bảo tàng trong dạy học Lịch sử ở trường
THPT đã được các nhà giáo dục học, giáo dục Lịch sử quan tâm nghiên cứu.
Trong cuốn sách “Phương pháp dạy học lịch sử” do Phan Ngọc Liên chủ
biên (NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2010) đã nêu rõ vị trí và ý nghĩa của
hoạt động ngoại khóa; các hình thức tổ chức và cách tiến hành những hoạt
động
ngoại khóa trong dạy học Lịch sử, tác giả đã nhấn mạnh đến việc tổ chức
hoạt động tham quan bảo tàng, khu di tích lịch sử - văn hóa.
Trong cuốn sách“Phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường trung

học phổ thông” do Vũ Quang Hiển – Hoàng Thanh Tú chủ biên (NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2014) đã nêu những nét khái quát vị trí, nội dung, ý
nghĩa và các hình thức của hoạt động ngoại khóa Lịch sử. Bên cạnh đó tác giả
đề xuất các biện pháp và hình thức tiến hành dạy học và tổ chức hoạt động
ngoại khóa phù hợp tại bảo tàng cho HS ở trường THPT.
Trong cuốn sách “Các con đường , biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
học lịch sử ở trường phổ thông” của tác giả Nguyễn Thị Côi (NXB Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2006) đã nói đến vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức tham
quan học tập tại bảo tàng, di tích lịch sử cho học sinh ở trường THPT. Tác giả
đã khẳng định, thông qua các hiện vật trưng bày giúp học sinh được trực quan
sinh động những sự kiện lịch sử giúp các em tạo được biểu tượng lịch sử cụ
thể và là chỗ dựa để hình thành các kết luận khái quát.
Trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử” do
Nguyễn Thị Côi chủ biên (NXB Đại học Sư phạm, 2011) đề cập đến ý nghĩa
của hoạt động ngoại khóa, rèn luyện năng lực tổ chức và cách thức tiến hành
tổ chức hoạt động ngoại khóa.
Cuốn “Bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông trung học” của tác giả Nguyễn Thị Côi, xuất bản năm 1998 đã trình bày
các vấn đề, như: Vai trò và ý nghĩa của bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy
3


học lịch sử ở trường phổ thông trung học; Nội dung các vật trưng bày của bảo
tàng lịch sử, cách mạng và khả năng sử dụng trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông trung học; Các hình thức, phương pháp sử dụng tư liệu bảo tàng
trong dạy học lịch sử.
Cuốn sách “Bảo tàng, di tích khơi nguồn cảm hứng dạy và học lịch sử
cho học sinh phổ thông” của tác giả Nguyễn Kim Thành (chủ biên) NXBGD
Việt Nam, 2014, đã nêu mối quan hệ giữa bảo tàng, di tích và nhà trường
trong việc dạy và học lịch sử cho học sinh phổ thông. Tác giả còn đề xuất các

hình thức dạy và học lịch sử cho học sinh tại bảo tàng đặc biệt giới thiệu câu
lạc bộ “Em yêu lịch sử” tại bảo tàng lịch sử Quốc gia cũng như tại nhiều bảo
tàng, di tích khác trong cả nước.
Tạp chí Di sản Văn hóa số 3 năm 2012, ThS. Nguyễn Kim Thành với
đề tài: “Các bảo tàng tại Hà Nội với việc nâng cao chất lượng dạy và học
môn Lịch sử trong các trường phổ thông” tác giả đã nêu rõ mối quan hệ giữa
bảo tàng với quá trình dạy học Lịch sử. Tác giả đi sâu phân tích việc tổ chức
các hoạt động của một số bảo tàng tại Hà Nội để việc dạy học Lịch sử
ở trường phổ thông đạt được hiệu quả cao hơn như tổ chức tham quan bảo
tàng, bảo tàng phối hợp với nhà trường trình bày lưu động, bảo tàng tích cực
tổ chức các hình thức câu lạc bộ, phòng khám phá để thu hút học sinh đến
tham gia.
Tạp chí Giáo dục và xã hội số 29 năm 2013, tác giả Hoàng Thanh Tú,
Chu Ngọc Quỳnh với bài “Xây dựng chương trình hoạt động ngoại khóa môn
lịch sử tại bảo tàng dân tộc học Việt Nam” đã nêu vai trò, ý nghĩa của bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam trong dạy học lịch sử, nêu thực trạng tổ chức hoạt
động ngoại khóa, qui trình xây dựng chương trình hoạt động ngoại khóa lịch
sử tại bảo tàng DTHVN.
Tạp chí Dạy và học ngày nay số 2 năm 2017, tác giả Bùi Hà Thanh với
đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” đã vạch rõ cách thức,
kế hoạch, sự chuẩn bị cho các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
4


Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 10, năm 1997, đồng tác giả Nguyễn
Thị Côi - Nguyễn Văn Phong, trường Đại học Sư Phạm Hà Nội với đề tài: "Khai
thác và sử dụng tài liệu của bảo tàng, nhà truyền thống vào dạy học Lịch sử dân
tộc ở trường phổ thông" đã khái quát các hình thức, phương pháp khai thác,
sử dụng tư liệu của bảo tàng Lịch sử nói chung, nhà truyền thống nói riêng vào
dạy học Lịch sử. Cụ thể là giáo viên có thể tổ chức đưa học sinh đi tham quan

bảo tàng; giáo viên khai thác và sử dụng tư liệu để dạy học bài Lịch sử nội
khóa tại bảo tàng hoặc ở trường phổ thông; khai thác và sử dụng tư liệu để tổ
chức các triển lãm, ra báo học tập nhân các ngày lễ lớn của đất nước.
Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia về dạy học lịch sử ở trường phổ
thông Việt Nam (NXB Giáo dục Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo - Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam), tác giả Trần Đức Minh với đề tài "Khai thác tư
liệu bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông" đã
nhấn mạnh việc khai thác tư liệu bảo tàng lịch sử, cách mạng phục vụ cho dạy
học lịch sử nói chung và hoạt động ngoại khóa lịch sử nói riêng là một yêu cầu
cấp thiết trong việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử, nhằm phát huy
năng lực tư duy nhận thức, tính tích cực, độc lập sáng tạo và các kĩ năng cần
thiết của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
Kỉ yếu Hội thảo khoa học 2015 - Đại học Cần Thơ, tác giả Phạm Ngọc
Hòa - Tô Thị Thanh Thảo với bài “Sử dụng phương pháp dạy học tích cực
trong dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay” đã nêu thực trạng dạy học
lịch sử ở trường phổ thông hiện nay và phương pháp vận dụng một số phương
pháp dạy học tích cực trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Luận văn “Sử dụng bảo tàng phòng không, không quân trong dạy học
Lịch sử Việt Nam (1954- 1975) ở trường trung học cơ sở tại Hà Nội” của
Vương Thị Ngà năm 2014 trường ĐHSP Hà Nội đã nêu các hình thức sử
dụng bảo tàng trong dạy học nội khóa và ngoại khóa trong dạy học Lịch sử.
Luận án “Sử dụng tư liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử Việt
Nam giai đoạn 1954-1975 ở trường THPT tỉnh Đồng Tháp” của Phạm Xuân
5


Vũ 2015 trường ĐHSP Hà Nội đã nêu được các biện pháp, cách thức sử dụng
tư liệu lịch sử trong dạy học ở trường THPT.
Thông qua tìm hiểu một số tài liệu có liên quan đến đề tài, chúng
tôi thấy rằng các tác giả đã đề cập đến vai trò, ý nghĩa của bảo tàng trong dạy

học Lịch sử; đánh giá được thực trạng sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch
sử; xác định yêu cầu cơ bản cũng như cách thức tiến hành sử dụng bảo tàng
để dạy học; cách thức sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử; hoạt động
ngoại khóa lịch sử… Đây là nguồn tư liệu quí giá để tôi thực hiện đề tài với
mong muốn góp phần bổ sung nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho GV, HS
THPT. Tuy nhiên, chưa có một tác phẩm hay một công trình nghiên cứu nào
đề cập cụ thể đến việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học
lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975 ở trường THPT.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khai thác, sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử
Việt Nam thời kì 1954 - 1975, lớp 12- Trung học phổ thông.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu của đề tài được giới hạn cho phần lịch sử
Việt Nam thời kì 1954 - 1975 lớp 12 - Trung học phổ thông.
- Về tổ chức dạy học: Tập trung vào bài nội khóa và hoạt động ngoại
khóa, trọng tâm là các bài nội khóa.
- Phạm vi điều tra khảo sát và thực nghiệm sư phạm được tiến hành tại
trường THPT Trần Hưng Đạo, THPT Quang Trung, THPT Lê Qúy Đôn - Hà
Đông - Hà Nội.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định vai trò,ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng nói
chung trong dạy học lịch sử, đề tài nghiên cứu nhằm đề xuất ra các hình thức
6


tổ chức và biện pháp khai thác, sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong
dạy học lịch sử lớp 12 nhằm phát huy năng lực tư duy sáng tạo,tự học của học
sinh,đổi mới hình thức tổ chức dạy học góp phần nâng cao chất lượng dạy học

lịch sử ở trường THPT hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về việc khai thác, sử dụng bảo tàng trong dạy học
lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
- Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 12 phần Lịch
sử Việt Nam thời kì 1954-1975, các tài liệu lịch sử ở bảo tàng đường Hồ
Chí Minh và xác định những nội dung cần khai thác và sử dụng trong dạy
học lịch sử Việt Nam lớp 12.
- Khảo sát tình hình dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 - Trung học phổ
thông ở một số trường tại Hà Đông - Hà Nội, đặc biệt thực trạng của việc khai
thác sử dụng bảo tàng nói chung và bảo tàng đường Hồ Chí Minh nói riêng
trong dạy học lịch sử Việt Nam, từ đó phát hiện những khó khăn tồn tại cần
khắc phục và những ưu điểm cần phát huy.
- Đề xuất các hình thức biện pháp sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí
Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 ở trường THPT.
- Thực nghiệm sư phạm các hình thức, biện pháp sử dụng trên làm cơ
sở cho việc rút ra những kết luận khoa học, những đề xuất kiến nghị nhằm
khai thác, sử dụng có hiệu quả bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học
lịch sử dân tộc.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu giáo viên biết khai thác và sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh
một cách hợp lý theo những hình thức và biện pháp đề xuất của đề tài nghiên
cứu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của bài học lịch sử, góp phần đổi mới hình
thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
7


Cơ sở phương pháp luận của luận văn là dựa trên quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng
và Nhà nước ta về công tác giáo dục, nghiên cứu giáo dục, nghiên cứu lịch
sử, văn hóa, về khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử Việt Nam.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học giáo
dục sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc, phân tích, tổng hợp về các tài
liệu, văn kiện của Đảng, tâm lý học, giáo dục học, lý luận dạy học bộ môn về
vấn đề sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường THPT và các tài liệu
hiện vật của bảo tàng. Đọc các tài liệu về bảo tàng đường Hồ Chí Minh, nghiên
cứu chương trình, sách giáo khoa lịch sử (lớp 12, thời kì 1954 - 1975) và các tài
liệu liên quan khác.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+Phỏng vấn, điều tra thực trạng việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong
dạy học lịch sử nói chung và việc khai thác sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí
Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam (thời kì 1954 - 1975) nói riêng.
+Thực nghiệm sư phạm các hình thức biện pháp, sử dụng bảo tàng
đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 để minh chứng
cho tính đúng đắn, khả thi của các biện pháp sư phạm đã đề ra.
7. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc sử dụng bảo tàng
đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975.
- Đánh giá thực trạng việc việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh
trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
- Đề xuất một số biện pháp để sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh
trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975 ở trường THPT một cách
hiệu quả.

8



8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: làm phong phú thêm lí luận PPDHLS nói chung và
vấn đề sử dụng Bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử ở trường
THPT nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các
trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm; GV môn Lịch sử ở trường THPT.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
đề tài luận văn bao gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng bảo tàng đường
Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh
trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975 ở trường THPT Trần
Hưng Đạo- Hà Đông- Hà Nội. Thực nghiệm sư phạm.

9


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
VIỆT NAM Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Quan niệm về sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông
Trong lịch sử phát triển văn hóa nhân loại, bảo tàng ra đời như một loại
thiết chế văn hóa được hiểu một cách phổ biến là nơi lưu giữ các giá trị vật
chất và tinh thần tiêu biểu thuộc về quá khứ của một lĩnh vực, một nền văn
hóa cộng đồng, rộng hơn là của nhân loại. Vì thế, khi nhắc đến bảo tàng, công

chúng thường nghĩ tới một địa điểm không chỉ có kiến trúc đẹp, mà còn là nơi
trưng bày, đưa tới nhiều điều thú vị. Trên thế giới, bảo tàng là một loại hình
văn hóa được đặc biệt chú trọng phát triển nhằm quảng bá lịch sử - văn hóa
vốn là niềm tự hào của mỗi quốc gia.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về bảo tàng.
“Bảo tàng là cơ quan sưu tầm, giám định và trưng bày các tài liệu,
hiện vật có tính chất nguyên gốc, đầu tiên của tri thức về lịch sử phát triển của
xã hội và tự nhiên, về lịch sử của cuộc đấu tranh cách mạng.” [5, tr.8].
“Bảo tàng là cơ sưu tầm, thu thập, gìn giữ, nghiên cứu, trưng bày và giới
thiệu những hiện vật lịch sử của nền văn hóa tinh thần và vật chất.” [11, tr.15].
Theo Luật Di sản văn hóa ban hành năm 2009, ghi rõ: “Bảo tàng là
nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử, tự nhiên, xã hội nhằm phục
vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hóa của nhân
dân” [16, tr. 42].
Tại các bảo tàng có những tài liệu, hiện vật gốc, những sa bàn, tranh
ảnh minh họa, sơ đồ được trưng bày một cách có hệ thống. Tất cả những tài liệu,
10


hiện vật đó được trưng bày ở bảo tàng góp phần quan trọng trong việc hình
thành, bổ sung kiến thức lịch sử cho HS. Bảo tàng "là một trung tâm thông
tin, có lượng thông tin nguyên gốc, chính xác, phong phú, dễ tiếp cận và được
nhận thức bằng phương tiện trực quan, sinh động" [25, tr.173].
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, quá trình nhận thức của con người bao
giờ cũng đi từ hình ảnh cụ thể, trực tiếp đến trừu tượng, từ đơn giản đến khái
quát. Qúa trình nhận thức tuân theo các qui luật. Một qui luật được phản ánh
trong công thức nổi tiếng của Lênin “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”. Đặc điểm cơ bản của
việc học lịch sử là học sinh không trực tiếp quan sát các sự kiện lịch sử như

nó đã từng diễn ra, do đó phương tiện trực quan rất quan trọng và có ý nghĩa
trong dạy học lịch sử.
Khi học sinh được đến bảo tàng, được nhìn thấy các tư liệu, hiện vật ở
bảo tàng, đặc biệt là các tư liệu, hiện vật gốc, HS sẽ có được những biểu
tượng cụ thể về những sự kiện lịch sử đã diễn ra và hiểu lịch sử một cách sống
động nhất. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khắc sâu kiến thức lịch
sử, giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm cho HS. Qua đó, HS cũng được rèn
luyện các kĩ năng thực hành bộ môn lịch sử : kĩ năng quan sát, miêu tả, thuyết
trình… và biết rút ra kết luận về bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Vậy việc sử dụng bảo tàng (bao gồm cả không gian bảo tàng và các hình ảnh,
tư liệu, hiện vật của bảo tàng) và khai thác các tư liệu hiện vật của bảo tàng trong dạy
học lịch sử là một phương tiện trực quan có giá trị trong giảng dạy, cung cấp nguồn
kiến thức phong phú cho học sinh mà trong một tiết học giáo viên không thể cung cấp
hết. Bên cạnh đó còn “giúp giáo viên lịch sử biết cách sưu tầm, bổ sung, làm giàu vốn
đồ dùng dạy học và kiến thức lịch sử cho mình. Điều này đặc biệt bổ ích đối với
những trường phổ thông xa trung tâm thành phố, không có bảo tàng” [5, tr.20].
Hệ thống bảo tàng ở nước ta khá phong phú, gồm hơn 120 bảo tàng

11


với nhiều bảo tàng có quy mô quốc gia như Bảo tàng Lịch sử quân đội, Bảo
tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam… được bảo
đảm về nội dung trưng bày, từ hiện vật đến sử liệu. Đó là nguồn tư liệu vô
cùng chân thực và quí giá trong dạy học lịch sử ở các trường phổ thông.
Trong sự nghiệp văn hóa - giáo dục của nước ta, các hoạt động bảo
tàng, di tích có vị trí hết sức quan trọng, đã được Đảng và nhà nước ta khẳng
định: “Bảo tàng, di tích là một thiết chế văn hóa không thể thiếu được trong
xã hội hiện tại cũng như mai sau”. Hiện nay, bảo tàng có hai chức năng đó là
chức năng nghiên cứu (sưu tầm, trưng bày, giới thiệu về lịch sử - văn hóa của

dân tộc) và chức năng giáo dục (cho công chúng, nhất là với các thế hệ học
sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường về tình yêu quê hương đất nước, lòng
tự hào dân tộc và những lý tưởng, khát khao).
Hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng, thực hiện tốt cả hai
chức năng trên thì bảo tàng mới đáp ứng được nhiệm vụ do xã hội đặt ra.
Thứ nhất, chức năng nghiên cứu khoa học của bảo tàng: mọi hoạt
động trong công tác nghiên cứu khoa học của Bảo tàng đều phải xoay quanh
các hiện vật gốc phù hợp với từng loại hình của bảo tàng. Đó là trọng tâm, là
cơ sở của mọi công tác nghiên cứu khoa học của bảo tàng. Hay nói cách khác,
chức năng này được biểu hiện ở hai hoạt động sau:
- Những hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm không ngừng bổ sung
cho khâu bảo quản cơ sở của Bảo tàng, di tích có giá trị tiêu biểu về các mặt
lịch sử, khoa học, thẩm mỹ.
- Những hoạt động có liên quan tới việc chỉnh lý, hệ thống hóa và bảo
quản một cách khoa học các di tích của Bảo tàng nhằm biến các di tích đó
thành nguồn tư liệu đáng tin cậy phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học
của các ngành khác. Đồng thời nâng cao trình độ văn hóa của đông đảo quần
chúng nhân dân.
Thứ hai, chức năng giáo dục của Bảo tàng: Trong cuốn sách “Bảo

12


tàng, di tích nơi khơi nguồn cảm hứng dạy và học lịch sử cho học sinh phổ
thông” của tác giả Nguyễn Thị Kim Thành (chủ biên) đã đề cập tới chức năng
giáo dục của bảo tàng: “Bảo tàng là cơ quan giáo dục công cộng,là nơi lưu
giữ các kí ức của các dân tộc, các nền văn hóa. Bảo tàng còn là cơ quan văn
hóa - giáo dục thực hiện chức năng giáo dục và tuyên truyền,bảo tàng đã,
đang và sẽ góp phần giáo dục nhằm nâng cao dân trí, tăng cường sự hiểu
biết, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống yêu nước, giữ gìn bản sắc văn hóa

dân tộc và xây dựng đất nước giàu đẹp. Cùng với các nhà văn hóa, câu lạc
bộ, thư viện, rạp chiếu phim và các khu vui chơi giải trí khác, bảo tàng thuộc
hệ thống giáo dục cho học sinh ngoài nhà trường, có chức năng giáo dục
quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách con người” [tr. 13]. Thông
qua các tư liệu và hiện vật gốc được trưng bày ở bảo tàng nhằm gợi dậy
những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp cho người xem chứ không phải thông qua
sách vở. Bảo tàng thực hiện chức năng giáo dục khoa học của mình bằng cách
tuyên truyền, phổ biến kiến thức và thông qua các hoạt động của mình, Bảo
tàng giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, cần phải “đánh
thức” các tài liệu, hiện vật để chúng có tác dụng giáo dục tới học sinh.
Với chức năng như trên, Bảo tàng có các nhiệm vụ:
+ Tiến hành công tác nghiên cứu khoa học.
+ Tiến hành thu thập các tài liệu, hiện vật gốc phù hợp với các loại
hình Bảo tàng.
+ Công tác kiểm kê giám định một cách có khoa học các hiện vật của
Bảo tàng.
+ Công tác bảo quản hiện vật của Bảo tàng.
+ Công tác trưng bày của bảo tàng.
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục và là tài liệu quan trọng, cần thiết
phục vụ cho các bài học lịch sử.

13


Rõ ràng là, trong thời đại ngày nay, sự phát triển nhanh chóng, mạnh
mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng đã mang lại vô vàn những hình
thức truyền tin, phổ biến tri thức hết sức nhanh nhạy, tiện ích và đầy hấp dẫn,
nhưng các bảo tàng, với vai trò là một thiết chế văn hoá đặc thù, vẫn không hề
suy giảm khả năng đưa lại cho công chúng những thông tin, những tri thức
chân thực, đáng tin cậy và lý thú từ các sưu tập hiện vật gốc vốn thấm đượm

và phản ánh sâu sắc trí tuệ và tài năng, tinh thần và tình cảm của các thế hệ
người Việt Nam, của hồn thiêng sông núi và dân tộc. Theo đó, nhiệm vụ giáo
dục khoa học cho học sinh phổ thông sẽ luôn là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của các bảo tàng Việt Nam hiện nay.
Để cho hoạt động và chức năng của bảo tàng được phát huy tối đa, các
bảo tàng đã có nhiều cố gắng tạo sự quan tâm và hấp dẫn cho người tham
quan, học tập:
- Tạo lập không gian văn hóa hấp dẫn, thu hút học sinh, đưa bảo tàng
thực sự trở thành “một học đường” giảng dạy trực quan.
- Vừa tham quan bảo tàng vừa được trực tiếp tiếp xúc, trao đổi và giao
lưu với các nhân chứng lịch sử (người thực việc thực).
- Tổ chức chương trình giáo dục cho học sinh theo chuyên đề trưng bày
của bảo tàng.
- Xây dựng các phòng, các khu vực khám phá tìm hiểu, nghiên cứu
riêng cho học sinh.
- Xây dựng các bộ triển lãm lưu động để đưa hiện vật tới các nhà
trường phục vụ học sinh, đặc biệt là các đối tượng học sinh ở vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc ít người.
- Tổ chức các cuộc thi, các hoạt động truyền thống, hoạt động ngoại
khoá cho học sinh phổ thông tại bảo tàng.
- Sử dụng nội dung trưng bày của bảo tàng trong việc dạy và học lịch sử,
giúp cho các em hiểu bài một cách sâu sắc và thích thú hơn với môn lịch sử.

14


- Cung cấp các tài liệu, số liệu, ảnh nhằm bổ sung hoặc minh hoạ cho
các bài giảng trong sách giáo khoa, qua đó, giúp giáo viên dạy môn lịch sử
các trường phổ thông có thêm giáo cụ trực quan sinh động cho bài giảng.
- Tranh thủ tối đa mọi khả năng của các phương tiện thông tin đại

chúng trong việc quảng bá, tiếp thị về nội dung bảo tàng.
- Đưa bảo tàng đến với trường học là xu hướng tiếp cận mới cần được
phát huy, để gắn kết bảo tàng với nhà trường, chủ yếu là giáo viên, và hệ
thống cộng tác viên là những người dạy lịch sử ở các trường phổ thông, đưa
nội dung tham quan bảo tàng vào chương trình giáo dục ngoài nhà trường của
ngành giáo dục, qua đó tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh được
phát huy cao độ.
Bảo tàng, với tư cách là một thiết chế văn hóa và giáo dục, không thể
chỉ đơn thuần cung cấp cho xã hội những bài “thuyết minh” như hơn bốn
mươi năm về trước mà phải có sự thay đổi trong nhận thức và hành động
nhằm đảm bảo chức năng giáo dục, mang lại lợi ích cho cộng đồng và phù
hợp với sự phát triển của xã hội.
Sử dụng bảo tàng nói chung và bảo tàng đường Hồ Chí Minh nói riêng
trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông là một hình thức để nâng cao hiệu
quả bài học, là phương tiện trực quan có giá trị trong giảng dạy, cung cấp
nguồn kiến thức phong phú cho học sinh.
1.1.2. Các loại bảo tàng
Theo tác giả Nguyễn Thị Côi trong cuốn “Bảo tàng Lịch sử, cách
mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông” đã phân ra thành 6 loại Bảo
tàng:
Một là, các bảo tàng lịch sử, như: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
(nay là bảo tàng lịch sử Quốc gia), Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng Hồ Chí
Minh... Các loại bảo tàng này chiếm vị trí rất quan trọng trong toàn bộ hệ
thống bảo tàng Việt Nam.
15


Những hiện vật được trưng bày trong các bảo tàng này phản ánh về
đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của con người Việt Nam từ khi hình
thành đến nay.

Hai là, các bảo tàng nghệ thuật nhằm sưu tầm , bảo quản, nghiên cứu
những tác phẩm nghệ thuật của nhiều thời đại khác nhau vào mục đích khoa
học và giáo dục thẩm mĩ cho quần chúng.
Ba là, các bảo tàng chuyên ngành như: Bảo tàng phụ nữ, Bảo tàng
dân tộc học, Bảo tàng Không quân, Bảo tàng Văn học... những bảo tàng này
chiếm một số lượng nhất định trong toàn bộ hệ thống bảo tàng. Nhiệm vụ
chính là sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu các hiện vật gốc của một ngành khoa
học nhất định để nói lên sự phát triển, phục vụ cho công tác khoa học của
chính bản thân ngành đó và phục vụ quần chúng nhân dân.
Bốn là, Bảo tàng lịch sử tự nhiên gồm các bảo tàng cùng loại hình với
các ngành khoa học. Đối tượng nghiên cứu là các mặt khác nhau của thế giới
tự nhiên, như Bảo tàng động vật học, Bảo tàng thực vật học, Bảo tàng hải
dương học...
Năm là, các bảo tàng lưu niệm nhằm lưu giữ lại trong quần chúng
nhân dân những sự kiện, những nhân vật lịch sử lớn, quan trọng trên mọi mặt
của đời sống xã hội, chính trị, quân sự, văn học, nghệ thuật... Loại bảo tàng
này giới thiệu một cách hệ thống diễn biến những sự kiện, hoạt động của các
nhân vật lịch sử. Ví như, bảo tàng ở di tích lịch sử nhà tù Hỏa Lò, nhà số 5
Hàm Long, 48 Hàng Ngang (Hà Nội), di tích Kim Liên (Nghệ An), Pác Bó
(Cao Bằng), Tân Trào (Tuyên Quang)...
Sáu là, các bảo tàng ở địa phương: cũng là cơ quan thực hiện chức
năng nghiên cứu khoa học và giáo dục ở mức độ nhất định, chủ yếu là sưu
tầm, bảo quản, nghiên cứu và trưng bày những tài liệu, hiện vật về văn hóa
vật chất, tinh thần cũng như tự nhiên của địa phương đó. Hiện nay, các loại
bảo tàng này và các nhà lưu niệm, truyền thống của địa phương đang phát
triển rất mạnh mẽ ở các địa phương trong nước. [tr.10-11].

16



Những bảo tàng, nhà lưu niệm địa phương có vai trò quan trọng trong
việc giáo dục truyền thống của địa phương, của dân tộc cho đông đảo quần
chúng nhân dân.
Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh thuộc loại hình lịch sử quân sự. Bảo
tàng là nơi gìn giữ, bảo quản các tài liệu, hiện vật, quí hiếm để giới thiệu về
những chiến công anh hùng, sự hi sinh của bộ đội Trường Sơn và tình đoàn
kết keo sơn chiến đấu của anh em ba nước Đông Dương trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Bảo tàng đường Hồ Chí Minh cách trung tâm Hà
Nội khoảng 16km, thuộc quận Hà Đông. Bảo tàng được khởi công xây dựng
vào tháng 12/1996, khánh thành và đưa vào sử dụng ngày 14/4/1999 nhân dịp
kỉ niệm 40 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh- ngày truyền thống bộ đội
Trường Sơn anh hùng.
Với phương pháp trưng bày hết sức ấn tượng cùng với 15.000 hiện vật
gốc gắn liền với lịch sử của dân tộc cùng sự tâm huyết của đội ngũ cán bộ bảo
tàng, mà từ khi mở cửa đến nay, Bảo tàng đã trở thành một địa chỉ tham quan
hấp dẫn với du khách. Đồng thời, Bảo tàng cũng làm tròn trách nhiệm giáo
dục truyền thống lịch sử, ý thức dân tộc cho thế hệ trẻ Việt Nam.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
1.1.3.1. Vai trò
Bảo tàng đường Hồ Chí Minh cũng giống như nhiều bảo tàng khác luôn
có những đóng góp nhất định trong việc giáo dục học sinh và góp phần làm
phong phú hơn lịch sử của nhân loại.
Thứ nhất, đưa bảo tàng vào dạy học lịch sử trong trường phổ thông
nhằm thực hiện phương châm giáo dục của Đảng.
Trong luật giáo dục (2005) các mục tiêu, nguyên tắc giáo dục của Đảng
đã được thể chế hóa, làm rõ: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với
17



×