Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

(Luận án tiến sĩ) Đóng góp của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư giai đoạn trước 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 166 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HỒ THỊ THANH THỦY

ĐÓNG GÓP CỦA VĂN XUÔI TỰ SỰ
LƯU TRỌNG LƯ
GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1945

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HỒ THỊ THANH THỦY

ĐÓNG GÓP CỦA VĂN XUÔI TỰ SỰ
LƯU TRỌNG LƯ
GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1945
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. ĐINH TRÍ DŨNG
2. PGS.TS. PHAN HUY DŨNG



NGHỆ AN - 2019


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát....................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................ 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 4
5. Đóng góp của luận án.................................................................................. 5
6. Cấu trúc của luận án .................................................................................... 6
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...................................... 7
1.1. Nghiên cứu lý thuyết về văn xuôi tự sự .................................................... 7
1.1.1. Khái niệm văn xuôi tự sự.................................................................. 7
1.1.2. Nghiên cứu lý thuyết của các tác giả nước ngoài về văn xuôi tự sự .... 10
1.1.3. Nghiên cứu lý thuyết của các tác giả trong nước về văn xuôi tự sự..... 13
1.2. Nghiên cứu về ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với quá trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam nói chung, văn xuôi tự sự Việt Nam nói riêng.... 17
1.2.1. Những nghiên cứu công bố trước 1945 ........................................... 17
1.2.2. Những nghiên cứu công bố sau 1945 .............................................. 21
1.3. Nghiên cứu mang tính khái quát về vị trí Lưu Trọng Lư trong bức tranh
chung của văn học Việt Nam trước 1945....................................................... 25
1.3.1. Nghiên cứu công bố trước 1945...................................................... 25
1.3.2. Nghiên cứu công bố sau 1945 ......................................................... 28
1.4. Nghiên cứu chuyên sâu về bộ phận văn xuôi tự sự sáng tác trước 1945
của Lưu Trọng Lư ......................................................................................... 33
1.4.1. Nghiên cứu công bố trước 1945 về văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư .... 33
1.4.2. Nghiên cứu công bố sau 1945 về văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư

thời kỳ trước Cách mạng................................................................. 35
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 41


Chương 2 SỰ HÒA TRỘN CÁC KHUYNH HƯỚNG THẨM MỸ
TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ TRƯỚC 1945 .................. 42
2.1. Một số khuynh hướng thẩm mỹ chính chi phối văn học Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX ........................................................................................ 42
2.1.1. Khái niệm khuynh hướng thẩm mỹ................................................. 42
2.1.2. Khuynh hướng thẩm mỹ cổ điển ..................................................... 44
2.1.3. Khuynh hướng thẩm mỹ thị dân...................................................... 47
2.2. Sự tiếp biến các khuynh hướng thẩm mỹ thời đại trong văn xuôi tự sự
Lưu Trọng Lư trước 1945.............................................................................. 50
2.2.1. Tiền đề của việc tiếp biến ............................................................... 50
2.2.2. Sự hội tụ của các khuynh hướng thẩm mỹ ở văn xuôi tự sự
Lưu Trọng Lư trước 1945............................................................... 52
2.3. Nguyên tắc phản ánh - biểu hiện trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư
trước 1945 ..................................................................................................... 58
2.3.1. Chú ý đến những uẩn khúc trong tình cảm của nhân vật ................. 58
2.3.2. Chú ý miêu tả những thân phận phụ nữ không may mắn................. 64
2.3.3. Phối trí hài hòa không gian xa xăm với không gian cụ thể .............. 73
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 78
Chương 3. DẤU ẤN CỦA VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ
TRƯỚC 1945 Ở HỆ THỐNG ĐỀ TÀI VÀ HỆ THỐNG HÌNH TƯỢNG ... 79
3.1. Một số đề tài và hình tượng nổi bật của văn xuôi tự sự Việt Nam
trước 1945 ..................................................................................................... 79
3.1.1. Đề tài chính .................................................................................... 79
3.1.2. Những hình tượng nhân vật nổi bật................................................. 90
3.2. Nét riêng của hệ đề tài trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945 ...... 96
3.2.1. Đề tài con người trong môi trường đô thị........................................ 96

3.2.2. Đề tài con người lỡ vận................................................................. 101
3.2.3. Đề tài kỷ niệm riêng tư ................................................................. 103
3.3. Nét riêng của hệ thống hình tượng con người trong văn xuôi tự sự
Lưu Trọng Lư trước 1945............................................................................ 109


3.3.1. Hình tượng con người mang tâm lý thất bại.................................. 109
3.3.2. Hình tượng con người chìm đắm trong ái tình .............................. 112
3.3.3. Hình tượng con người mộng ảo .................................................... 117
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 120
Chương 4. NHỮNG KIỂU LỰA CHỌN NGHỆ THUẬT ĐẶC THÙ
TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ TRƯỚC 1945 ................ 121
4.1. Sử dụng và cải biến các mô típ quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn ..... 121
4.1.1. Khái niệm mô típ và tiền đề của việc sử dụng, cải biến các mô típ
nghệ thuật quen thuộc ở văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư ................. 121
4.1.2. Dấu ấn Lưu Trọng Lư trong việc sử dụng và cải biến các mô típ
quen thuộc .................................................................................... 123
4.2. Nhào nặn chất liệu hiện thực theo hướng phong tục hóa....................... 126
4.2.1. Sự khác nhau giữa xu hướng phong tục hóa và tiểu thuyết hóa
trong văn xuôi tự sự ...................................................................... 126
4.2.2. Việc nhào nặn chất liệu hiện thực theo hướng phong tục hóa
trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư............................................... 128
4.2.3. Nét riêng của Lưu Trọng Lư với các nhà văn cùng thời trên vấn đề
nhào nặn chất liệu hiện thực theo hướng phong tục hóa ................ 131
4.3. Tạo sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất văn xuôi và chất thơ ............... 134
4.3.1. Cơ sở của việc tạo sự kết hợp giữa chất văn xuôi và chất thơ........ 134
4.3.2. Biểu hiện của cái nhìn thơ về hiện thực ........................................ 138
4.3.3. Sự kết hợp giữa chất văn xuôi và chất thơ trên bình diện ngôn ngữ
và giọng điệu ................................................................................ 141
Tiểu kết chương 4 ....................................................................................... 147

KẾT LUẬN................................................................................................... 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 152


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong văn học Việt Nam hiện đại, Lưu Trọng Lư được đánh giá là
một trong những cây bút tiên phong của phong trào Thơ mới. Trước Cách
mạng, bên cạnh những bài thơ nổi tiếng, ông còn sáng tác một khối lượng tác
phẩm văn xuôi khá lớn với 27 truyện ngắn, 27 tiểu thuyết. Văn xuôi tự sự trước
Cách mạng của ông phong phú về đề tài, ngôn từ, giọng điệu, thể hiện cái nhìn
đa chiều về cuộc sống. Trong khi thơ Lưu Trọng Lư đã được nghiên cứu khá
kỹ thì mảng văn xuôi tự sự của ông lại chưa được quan tâm đúng mức. Trong
các lý do, có lý do là ở giai đoạn văn học 1930 - 1945, có nhiều cây bút có
cách viết gần gũi với ông và cũng nổi tiếng hơn ông. Tuy nhiên để hiểu đầy đủ
hơn về đóng góp của Lưu Trọng Lư trong tư cách một tác gia văn học, để có
được cái nhìn toàn diện về bức tranh văn học nói chung, văn xuôi một giai
đoạn nói riêng, chúng ta không thể không quan tâm nghiên cứu văn xuôi tự sự
Lưu Trọng Lư.
1.2. Năm 2011, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lưu Trọng Lư, Lại
Nguyên Ân và Hoàng Minh đã cho ra đời một bộ sách có dung lượng lớn gồm 2
tập (1145 trang khổ 16x24 cm), tập hợp toàn bộ truyện ngắn và tiểu thuyết của
Lưu Trọng Lư (cả trước và sau Cách mạng). Qua công trình này, có thể thấy rõ
một phương diện tài năng khác của Lưu Trọng Lư thể hiện trên lĩnh vực văn
xuôi tự sự. Đọc có hệ thống những tác phẩm văn xuôi tự sự ông đã viết, độc giả
cảm nhận được một cách sâu sắc bối cảnh sáng tác khá cởi mở đã thôi thúc sự
tìm tòi, thể nghiệm của các nhà văn như thế nào. Qua các tác phẩm, có thể nhận

ra ảnh hưởng của văn học phương Tây, trước hết là văn học Pháp đối với những
trang viết của nhà văn. Ở đây có cả dấu ấn của những sáng tác tình cảm chủ
nghĩa và cũng thấm đượm tình điệu lãng mạn chủ nghĩa. Không chỉ thế, bút
pháp hiện thực, bút pháp tượng trưng của các bậc thầy hiện thực chủ nghĩa,
tượng trưng chủ nghĩa cũng được tiếp thu và vận dụng theo một cách rất riêng.


2
Chính vì điều này, việc nghiên cứu văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư có ý nghĩa
cung cấp thêm một tham số thuyết phục giúp chúng ta hiểu được thực chất của
hoạt động giao lưu văn học Đông - Tây trong bối cảnh văn học Việt Nam đang
gấp rút chuyển mình theo hướng hiện đại hóa, Âu hóa; hiểu được vai trò của
những tác gia nổi tiếng trước Cách mạng như Lưu Trọng Lư trong việc tạo dựng
nền móng cho một nền văn học Việt Nam hiện đại, có khả năng hội nhập với thế
giới. Cũng qua những truyện ngắn, tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư, người nghiên
cứu còn có thể phát hiện thấy sự giao thoa giữa các thể loại thuộc các loại hình
sáng tác khác nhau. Với một người vừa làm thơ vừa viết truyện ngắn, tiểu thuyết
như Lưu Trọng Lư, sự giao thoa đó cũng cần được quan tâm tìm hiểu, phân tích
thấu đáo. Như vậy, đi vào đề tài này, người nghiên cứu sẽ có cơ hội thấy được
nhiều mặt của đời sống văn học giai đoạn 1930 - 1945, thông qua sáng tác của
một tác giả cụ thể là Lưu Trọng Lư.
1.3. Đề tài hàm chứa khả năng cung cấp những dữ liệu, tư liệu cho nghiên
cứu thi pháp văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn và tiểu thuyết trong văn học Việt
Nam ở một giai đoạn có nhiều thành tựu và nhiều phong cách nghệ thuật độc
đáo. Ngoài ra, luận án có thể cung cấp các tư liệu văn học có ý nghĩa cho việc
dạy học văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ở bậc trung học phổ thông. Ở
bậc Đại học, luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu loại hình
văn xuôi tự sự; nghiên cứu lịch sử văn học, cụ thể là sự tiếp thu những bài học từ
văn học phương Tây để đưa văn học nước nhà bước vào chặng đường hiện đại
hóa trên mọi phương diện.

Đó là những lý do thúc đấy chúng tôi nghiên cứu đề tài: Đóng góp của
văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư giai đoạn trước 1945.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án, như tên đề tài đã xác định rõ, là: Đóng
góp của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư giai đoạn trước 1945. Ở đây, hầu như các
bình diện chính yếu trong văn xuôi của Lưu Trọng Lư đều được đề cập, xem xét,


3
chủ yếu là để làm rõ nét đặc sắc, độc đáo trong phong cách sáng tác cũng như
những đóng góp cụ thể của nhà văn cho nền văn xuôi nước nhà.
2.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Phạm vi tư liệu khảo sát chính của luận án là 27 truyện ngắn, 27 tiểu
thuyết của Lưu Trọng Lư sáng tác trước năm 1945 được tập hợp trong Lưu
Trọng Lư, Tác phẩm - truyện ngắn và tiểu thuyết (trọn bộ hai tập), Nxb Lao
Động, Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây, 2011.
Để có cái nhìn bao quát về vấn đề, luận án còn khảo sát sáng tác của nhiều
tác giả gần gũi hoặc khác biệt về xu hướng, cùng giai đoạn hoặc khác giai đoạn
sáng tác với Lưu Trọng Lư.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát những đóng góp của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư giai đoạn
trước 1945, luận án hướng tới việc đánh giá toàn diện hơn về Lưu Trọng Lư với
tư cách là một nghệ sĩ đa năng, lưu được dấu ấn đậm nét của mình trên nhiều thể
loại văn học. Cũng qua đó, luận án muốn góp phần bổ sung - điều chỉnh một số
luận điểm đánh giá đã có về đặc điểm và thành tựu của văn học Việt Nam giai
đoạn 1930 - 1945 trên cơ sở những tư liệu mới được khám phá - phát hiện và
công bố.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hướng tới mục đích nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận án tập trung giải
quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tổng thuật tình hình nghiên cứu về sáng tác của Lưu Trọng Lư nói
chung, văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư nói riêng và minh định một số khái niệm,
thuật ngữ then chốt được dùng để nghiên cứu đối tượng này.
- Nhận diện, phân tích những nét riêng về khuynh hướng thẩm mỹ của
văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trong mối quan hệ với những khuynh hướng thẩm
mỹ chủ đạo của văn học (trước hết là văn xuôi) Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
- Làm sáng tỏ những nét độc đáo của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trên


4
phương diện đề tài và hệ thống hình tượng, trong sự so sánh cùng bình diện với
sáng tác của những nhà văn khác cùng thời.
- Chỉ ra, phân tích và đánh giá (trên cơ sở so sánh đa chiều) những kiểu
lựa chọn nghệ thuật đặc thù của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu vận dụng các phương pháp nghiên
cứu sau đây:
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này đòi hỏi sự quan
tâm trước hết đến văn bản ngôn từ (27 truyện ngắn, 27 tiểu thuyết của Lưu
Trọng Lư sáng tác trước 1945) - một điều kiện thiết yếu giúp người nghiên cứu
chỉ ra được hình thức mang tính chỉnh thể của đối tượng (bao gồm sự tùy thuộc
và chi phối lẫn nhau giữa các phạm trù: quan niệm con người, tình điệu thẩm
mỹ, nghệ thuật tổ chức không - thời gian và hệ thống hình tượng, sự lựa chọn hệ
thống thủ pháp biểu hiện…).
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Đây là phương pháp xem xét đối
tượng trong cái nhìn tổng thể, hình dung mỗi đối tượng là một hệ thống nhỏ của
hệ thống lớn, và trong từng hệ thống như vậy, mối quan hệ vừa ổn định vừa biến
đổi giữa các yếu tố cấu trúc luôn có ý nghĩa đặc biệt. Phương pháp này một mặt

xem văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư là một chỉnh thể có cấu trúc riêng, mặt khác,
lại nhìn nhận nó như một yếu tố năng động của chỉnh thể lớn hơn: toàn bộ sáng
tác của nhà văn và cả nền văn học trong giai đoạn phát triển đặc biệt, nhiều
thành tựu của nó.
- Phương pháp loại hình: Phương pháp này quy văn xuôi tự sự Lưu Trọng
Lư về loại thích hợp để có được những đánh giá thỏa đáng, phù hợp với đặc
trưng thẩm mỹ của đối tượng. Theo đó, có thể nhận thấy: mặc dù có những điểm
riêng không thể trộn lẫn, văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư lại khá gần gũi về
loại hình với nhiều sáng tác của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn...
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này đòi hỏi người nghiên cứu phải
thực hiện vừa những so sánh mang tính chất đồng đại, vừa những so sánh mang


5
tính chất lịch đại. Theo đó, văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước hết sẽ được so
sánh với văn xuôi tự sự của các tác giả khác cùng giai đoạn 1930 - 1945, tiếp nữa
sẽ được đặt trong tương quan đối chiếu với văn xuôi tự sự 30 năm đầu thế kỷ XX.
- Phương pháp lịch sử - xã hội: Phương pháp này đặt đối tượng nghiên cứu
vào bối cảnh ra đời của nó, giúp người nghiên cứu nhìn nhận đối tượng như sản
phẩm tinh thần của một thời đại lịch sử cụ thể, với rất nhiều mối quan hệ phức tạp
bao quanh. Theo đó, văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư sẽ được đánh giá như là sự đáp
ứng tích cực những nhu cầu phát triển (trước hết là nhu cầu thẩm mỹ) của một xã
hội đang vận động theo hướng hiện đại hóa, Tây hóa.
Ngoài ra, luận án cũng sử dụng các thao tác, thủ pháp nghiên cứu quen
thuộc của ngành Ngữ văn như khảo sát văn bản; phân tích, tổng hợp; phân loại,
thống kê...
5. Đóng góp của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu quy mô đầu tiên về văn xuôi tự sự Lưu
Trọng Lư trước 1945, sau khi bộ sách Lưu Trọng Lư tác phẩm truyện ngắn và
tiểu thuyết (trọn bộ 2 tập, khoảng 1.500 trang, do Lại Nguyên Ân - Hoàng Minh

sưu tầm và biên soạn) được ấn hành vào năm 2011. Với công trình này, những
đóng góp riêng, hết sức có ý nghĩa của của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước
1945 được bước đầu nhận diện, phân tích, khẳng định, thông qua hệ thống dẫn
liệu phong phú, góp phần vào việc đánh giá toàn diện hơn, khoa học hơn về tác
gia Lưu Trọng Lư và phần nào xác định tính đa dạng của văn xuôi Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945.
Luận án cũng góp thêm cứ liệu để nhìn nhận đầy đủ hơn về vấn đề tiếp
nhận ảnh hưởng của văn học Phương Tây ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - một
sự tiếp nhận có tính đặc thù, giúp cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
đạt được những thành tựu có ý nghĩa.
Luận án có thể được dùng làm tư liệu tham khảo bổ ích cho việc dạy học
văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ở cả hai bậc phổ thông và Đại học.


6
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Sự hòa trộn các khuynh hướng thẩm mỹ trong văn xuôi tự sự
Lưu Trọng Lư trước 1945
Chương 3: Dấu ấn của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945 ở hệ
thống đề tài và hệ thống hình tượng
Chương 4: Những kiểu lựa chọn nghệ thuật đặc thù trong văn xuôi tự sự
Lưu Trọng Lư trước 1945


7
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Nghiên cứu lý thuyết về văn xuôi tự sự
1.1.1. Khái niệm văn xuôi tự sự
Chúng tôi sử dụng khái niệm văn xuôi tự sự trong sự phân biệt có tính
tương đối với văn xuôi trữ tình. Gọi là tương đối bởi đường biên giữa chúng
không phải lúc nào cũng rõ rệt. Khi dùng khái niệm văn xuôi tự sự, dĩ nhiên
người nghiên cứu luôn có ý thức phân biệt nó với các loại sản phẩm ngôn từ
khác cũng dùng hình thức văn xuôi nhưng không nhằm mục đích thẩm mỹ,
không dùng hình thức hư cấu như văn xuôi nghị luận và các loại văn bản nằm
ngoài phạm vi nghệ thuật ngôn từ.
Trong văn xuôi trữ tình có sự xâm nhập rõ nét của yếu tố thơ. Điều đó
khiến cho nhiều tác phẩm văn xuôi trữ tình có dáng dấp của một áng thơ văn
xuôi. Ở văn xuôi trữ tình, tác giả chủ yếu thể hiện cảm xúc của người trần thuật,
thể hiện những suy tư, rung động của thế giới nội tâm; giọng văn thường giàu
cảm xúc. Về cơ bản, có thể xếp văn xuôi trữ tình vào loại hình trữ tình, bao gồm
thơ trữ tình, trường ca, ngâm khúc trữ tình, tùy bút… Trong văn xuôi Việt Nam
hiện đại, có những áng văn xuôi trữ tình nổi tiếng như Tóc chị Hoài, Trang hoa,
Tờ hoa... của Nguyễn Tuân, Vàng sao, Thăm Trung Quốc của Chế Lan Viên,
Tre Việt Nam của Thép Mới...
Văn xuôi tự sự chú trọng miêu tả con người và môi trường xã hội, miêu
tả cử chỉ, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Văn xuôi tự sự thuộc loại hình tự sự,
có chức năng tái hiện “tính khách quan” của thế giới, luôn có nhân vật, sự kiện,
hành động, xung đột. Thuộc về văn xuôi tự sự có các thể loại như truyện ngắn,
truyện vừa, tiểu thuyết. Tuy thuộc loại hình tự sự nhưng trong văn xuôi tự sự
vẫn có thể có (thậm chí có nhiều) yếu tố trữ tình, nhưng những yếu tố này
không phá vỡ bản chất loại tự sự của văn xuôi tự sự. Việc xuất hiện nhiều hay
ít của yếu tố trữ tình hoàn toàn phụ thuộc vào phong cách cá nhân của tác giả,
vào mục đích sáng tác và thể loại cụ thể được chọn lựa. Tất nhiên, có những


8

thể loại có thể đứng ở đường biên của tự sự và trữ tình như bút ký, tản văn,
chân dung văn học...
Nói đến văn xuôi tự sự, không thể không nói đến nhân vật, cốt truyện, sự
kiện, người trần thuật như là những yếu tố cấu thành cơ bản nhất của nó. Nhằm
có được nhận thức đầy đủ về khái niệm văn xuôi tự sự - khái niệm mà chúng tôi
dùng trong luận án để khoanh vùng đối tượng nghiên cứu -, sau đây, xin điểm
qua những nhận định trong các tài liệu lý luận mang tính giáo khoa về những
yếu tố cấu thành nói trên của văn xuôi tự sự.
Tự sự không thể thiếu nhân vật vì nó thực hiện ý đồ khái quát hiện thực đời
sống bằng hình tượng, mà hình tượng nổi bật nhất là hình tượng nhân vật. Từ điển
văn học (Bộ mới) định nghĩa về nhân vật: “Là thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật
về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người
trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là con
vật, các loại cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống
với con người (…). Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước
lệ, không thể bị đồng nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân
vật có những nét rất gần với nguyên mẫu có thật” [58, tr.1254 - 1255].
Về trần thuật, Từ điển văn học (Bộ mới) xác định: “Khái niệm chỉ một bộ
phận ngôn bản quan trọng trong tác phẩm tự sự, là thành phần lời của tác giả,
của người trần thuật (được đưa vào tác phẩm ít nhiều như một nhân vật), hoặc
của một người kể chuyện; tức là toàn bộ văn bản tác phẩm tự sự, ngoại trừ các
lời nói trực tiếp của các nhân vật” [58, tr.1806]. Theo tài liệu này thì kết cấu của
trần thuật “được hình thành bằng việc khai triển, bằng những tương tác và phối
hợp các “điểm nhìn”. Các nhân tố như: thể loại, thể tài tác phẩm; khuynh hướng
và trường phái văn học mà tác giả can dự; lập trường xã hội, tư tưởng, dân tộc
của tác giả - đều ảnh hưởng đến tính chất của trần thuật” [58, tr.1806]. “Trần
thuật bao gồm việc kể và miêu tả các hành động và các biến cố trong thời gian;
mô tả chân dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại cảnh, tả nội thất, v.v…; bàn
luận; lời nói bán trực tiếp của các nhân vật. Do vậy trần thuật là phương thức
chủ yếu để cấu tạo tác phẩm tự sự” [58, tr.1806].



9
Cốt truyện là một yếu tố cấu trúc cơ sở của những sáng tác thuộc loại hình
tự sự. Theo Từ điển văn học (Bộ mới), cốt truyện là: “Thuật ngữ chỉ sự phát triển
của hành động, của tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự…
Chính hệ thống biến cố (tức cốt truyện) đã tạo ra sự vận động của nội dung cuộc
sống được miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là một phẩm chất
có giá trị quan trọng của văn học… trong các thể loại văn học, các cốt truyện là
thành phần quan trọng thiết yếu của tự sự và kịch” [58, tr.324].
Trong sách Lý luận văn học, các tác giả cho rằng cốt truyện: “Phải được
tổ chức một cách chặt chẽ, tránh tình trạng phân tán, rời rạc, thừa hoặc thiếu, sao
cho sự kiện trước là nguyên nhân của sự kiện sau, sự kiện này phát triển thông
qua sự kiện khác, đúng như Aristote đã viết trong Nghệ thuật thơ ca: “Cốt
truyện phải là sự miêu tả một hành động hoàn chỉnh và các sự kiện cần phải sắp
xếp như thế nào để khi thay đổi hay bỏ đi một sự kiện thì cái chỉnh thể cũng biến
động theo. Cái gì mà có hoặc thiếu nó cũng được thì cái đó không phải là bộ
phận hữu cơ của một chỉnh thể thống nhất” [45, tr.139 - 140].
Bàn về kết cấu, Từ điển văn học (Bộ mới) khẳng định: “Lối kết cấu bằng
trình tự liên tiếp trước sau của các sự kiện, ở những tác phẩm có giá trị nghệ
thuật thực sự, khiến cho người đọc luôn thấy sự mới mẻ qua từng tình tiết, và
đoạn cuối thường là yếu tố cột trụ của cốt truyện. Có khi nhà văn gài bẫy độc
giả, dùng lối kết cấu che dấu, để đến lúc nào đó cho người đọc nhận ra điều trái
ngược hoặc điều bí mật… Một cách kết cấu quan trọng là đảo lộn trật tự thời
gian của các sự kiện, nhằm chuyển chú ý của người đọc từ sự việc sang nội tình
bên trong nhân vật” [58, tr.326]. Như vậy, một trong những đặc điểm của cốt
truyện là tính hoàn chỉnh, trong tư cách là hệ thống sự kiện. Còn kết cấu của cốt
truyện được nhận diện qua việc sắp xếp theo trình tự các sự kiện được diễn ra.
Các sự kiện đó không bắt buộc phải sắp xếp giống ngoài đời sống mà nó có thể
đảo lộn.

Khi nói tới tác phẩm văn xuôi tự sự, người ta thường nhắc tới điểm nhìn
nghệ thuật. Tác giả Nguyễn Thái Hòa trong bài viết Điểm nhìn trong lời nói
giao tiếp và điểm nhìn nghệ thuật trong truyện (trong Tự sự học do Trần Đình


10
Sử chủ biên) đã viết: “Điểm nhìn nghệ thuật trong truyện về cơ bản cũng được
suy ý từ văn bản và hành động kể chuyện, nhưng văn bản là hệ thống rất phức
tạp gồm nhiều hành động kể (phát ngôn) cùng thể hiện ở nhiều thủ pháp khác
nhau. Tuy vậy, đó là mối quan hệ giữa người viết - văn bản - người nhận ở hai
bậc hiển ngôn và hàm ẩn” [130, tr.95 - 96]. Trong bài viết này, Nguyễn Thái
Hòa cũng nhận định xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật chính là điểm nhìn
nghệ thuật. Điểm nhìn còn được xác định bởi ba tham tố “tiêu điểm”, “khoảng
cách”, “phương vị” khi xét đoạn văn, chương, hồi, diễn ngôn, màn cảnh (những
cấp độ thấp hơn so với văn bản).
1.1.2. Nghiên cứu lý thuyết của các tác giả nước ngoài về văn xuôi tự sự
Để có được chỗ dựa lý luận khi tìm hiểu đóng góp của mảng văn xuôi
tự sự Lưu Trọng Lư thời kì trước năm 1945, chúng tôi đã khảo sát những
nghiên cứu lý thuyết về văn xuôi tự sự của các tác giả nước ngoài. Đây là một
lĩnh vực nghiên cứu rất rộng, hàm chứa nhiều vấn đề phong phú, đã đạt được
những thành tựu lớn. Nhắc đến văn xuôi, người ta thường nghĩ đó là một hình
thức đối lập với thơ, có tổ chức ngôn ngữ như lời nói thường, không bị chi
phối bởi “nguyên lý tương đương” hay nhịp điệu, vần điệu. Nhờ vậy, văn
xuôi có thể khai thác tối đa khả năng mô tả thế giới của ngôn từ, giúp cho
người đọc hình dung cụ thể các sự vật, tình huống; gây cảm tưởng như chúng
đang hiển hiện trước mắt người đọc. Đây là thế mạnh của văn xuôi mà thơ
khó lòng sánh được.
Khi minh định khái niệm văn xuôi và các thể loại văn xuôi, G.N. Pospelov
trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học (tập II) đã nhận định: “Ngoài việc
phân chia văn học ra loại (tự sự, trữ tình và kịch) còn có sự phân chia văn học

ra thơ và văn xuôi. Trong ngôn ngữ thông thường tác phẩm trữ tình thường bị
đồng nhất với thơ ca, còn tác phẩm tự sự thì đồng nhất với văn xuôi. Cách
dùng từ như vậy là không chính xác. Mỗi loại văn học đều bao hàm vừa các tác
phẩm thơ (văn vần) vừa văn xuôi (không vần). Tự sự trong các giai đoạn phát
triển đầu tiên của ngôn từ nghệ thuật thường là có vần (sử thi cổ đại, các bài ca
chiến công của Pháp, các bưlin và sử ca của Nga…). Các tác phẩm tự sự được


11
viết bằng thơ cũng thường gặp trong văn học cận đại (Don-juan của Byron,
Evgheni Oneghin của Pushkin, Ai được sống sung sướng ở nước Nga của
Nekrasov). Trong loại văn học kịch người ta cũng sử dụng cả thơ và văn xuôi,
có khi cả hai cùng kết hợp trong một tác phẩm (nhiều vở kịch của Shakespeare,
Boris Godunov của Pushkin). Và cả loại trữ tình, chủ yếu là viết bằng thơ,
nhưng cũng có khi là bằng văn xuôi. Chẳng hạn là chuỗi các bài tả cảnh cuối
đời của Turghenev mà người ta gọi một cách không chính xác là “thơ bằng văn
xuôi” [122, tr.12].
G.N. Pospelov cũng chỉ ra những thuộc tính chung của hình thức tác
phẩm tự sự. Trước tiên là nhân vật và hệ thống nhân vật. Nhà nghiên cứu đã dẫn
lời của B. Brecht để khẳng định vai trò của nhân vật: “Các nhân vật của tác
phẩm nghệ thuật không phải đơn giản là những bản dập của những con người
sống, mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác
giả. Đó là phương tiện tất yếu quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng trong các tác
phẩm tự sự và kịch - nó là phương diện có tính thứ nhất trong hình thức của tác
phẩm ấy, quyết định phần lớn vừa cốt truyện vừa lựa chọn chi tiết vừa phương
tiện ngôn ngữ và thậm chí cả kết cấu nữa” [122, tr.18].
Bên cạnh đó, Pospelov còn bàn về đặc điểm của tác phẩm tự sự. Các
phương tiện cơ bản của miêu tả tự sự ngoài trần thuật còn có miêu tả, chúng
đóng vai trò quyết định trong loại văn học tự sự. Khi nói tới đối thoại và độc
thoại, chân dung và phong cảnh… là nói tới đặc điểm về tạo hình khách thể

trong tác phẩm tự sự. Bởi vì: “Loại tự sự có nhiều khả năng để tái hiện các sự
vật xung quanh con người, miêu tả diện mạo bề ngoài, hành vi và thế giới bên
trong của nó” [122, tr.69].
Ngoài ra, tự sự còn được ông nghiên cứu dựa trên sự phân loại hình thức
thể tài: “Những điểm khác nhau về dung lượng tác phẩm rất quan trọng. Song
song với các hình thức văn xuôi ngắn (truyện ngắn) và trung bình (truyện vừa)
còn có hình thức tự sự với quy mô lớn vẫn thường được gọi là tiểu thuyết. Tên
gọi này không chính xác, bởi vì tiểu thuyết chứa đựng trong nó một nội dung
đặc biệt gắn liền với chủ đề “đời tư”, trong khi đó hình thức tự sự với quy mô


12
lớn có thể mang cả nội dung lịch sử dân tộc (Taras Bulba của Gogol) lẫn thế sự
(Lịch sử của một thành phố của Saltykov Shedrin)” [122, tr.262 - 263].
Ngoài G.N. Pospelov, các nhà nghiên cứu khác như nhà lý luận văn học
người Mỹ J. Culler đã nhấn mạnh về vị trí của tự sự: “Lý luận văn học và văn
hóa ngày càng nhận rõ tự sự chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa. Lý
luận này cho rằng, bất kể ta xem đời sống là một chuỗi sự kiện liên tục dẫn đến
một mục tiêu nào đó, hay là kể bất cứ cái gì đang diễn ra trên thế giới, thì câu
chuyện đều là phương thức chủ yếu để chúng ta hiểu được sự vật” [131, tr.9].
Trong công trình Tự sự học - lý thuyết và ứng dụng, nhà nghiên cứu Trần
Đình Sử đã dẫn nhận định của F. Lyotard về khái niệm tự sự: “Triết gia Pháp
F. Lyotard cho rằng con người có hai loại kiến thức: kiến thức khoa học và
kiến thức tự sự. Tự sự là một phương thức đúc kết kinh nghiệm. Nó thường
hướng tới một kết cục nhất định, có tác dụng định hướng giá trị cho cuộc đời.
Tự sự là một hình thức mang ý nghĩa văn hóa. Mỗi thời thịnh hành một số kiểu
truyện, những kiểu nhân quả khác nhau. Tự sự là một hoạt động giao tiếp. Khi
truyện kể được tiếp nhận, người đọc (nghe) nhận được thông tin là một sự kiện
giao tiếp. Thông tin tự sự có thể làm thay đổi nhận thức, niềm tin, thái độ, tình
cảm của người tiếp nhận. Trong trường hợp sáng tạo hư cấu, tự sự có ý nghĩa

thẩm mỹ, có khả năng đem đến sự hứng thú, niềm vui, sự thăng hoa, thanh lọc
cho tâm hồn” [131, tr.69 - 70].
Cũng ở cuốn sách này, Trần Đình Sử đã trích dẫn nhận định của Tz.
Todorov, S. Chatman và G. Prince về cấu trúc của tác phẩm tự sự: “Tz. Todorov
đề xuất cấu trúc hai phần: diễn ngôn (discours) và câu chuyện (histoire) trên cơ
sở cái biểu đạt và cái được biểu đạt. S. Chatman cũng chủ trương cấu trúc hai
thành phần discourse và story trên cơ sở phân biệt nội dung và hình thức. G.
Prince cũng chia tự sự thành trần thuật và được trần thuật, hàm ý cái thứ nhất là
diễn ngôn kể, còn cái thứ hai là sự kiện, nhân vật được kể” [131, tr.73].
Các tác phẩm văn xuôi tự sự là đối tượng chính của một ngành nghiên
cứu có sức hấp dẫn lớn hiện nay là tự sự học. Tự sự học (Narratology) là thuật
ngữ do nhà nghiên cứu người Pháp gốc Bungari Tz. Todorov đề xuất năm 1969


13
trong sách Ngữ pháp Câu chuyện mười ngày. Thuật ngữ này làm cho việc
nghiên cứu tự sự có tên gọi xác định, dẫn tới hình thành một khoa nghiên cứu
độc lập, dần thay thế cho lý luận về tiểu thuyết đã trở thành chiếc áo quá chật.
Roland Bathes có nói đại ý: tự sự xuất hiện cùng bản thân lịch sử loài người.
Thế nhưng nghiên cứu tự sự chỉ thực sự trở thành một khoa độc lập dưới ảnh
hưởng trực tiếp của trường phái Cấu trúc luận Pháp trong khoảng thập niên 60
của thế kỉ trước. Năm 1966, tạp chí “Giao tế” xuất bản tại Paris đã dành hẳn kì
số 8 cho chuyên san Nghiên cứu kí hiệu học - Phân tích cấu trúc tác phẩm tự
sự giới thiệu tập trung lí luận căn bản của tự sự học. Và phải đến năm 1969,
Tezvetan Todorov, một trong những đại biểu lớn của Cấu trúc luận Pháp mới
chính thức khai sinh danh xưng Tự sự học. Tự sự học có thể phân chia ra tự sự
học kinh điển (những năm 60 kéo dài đến khoảng những năm 80 của thế kỉ
trước) với vai trò tiên phong là các học giả Pháp. Giai đoạn hậu kinh điển diễn
ra từ những năm 90 thế kỷ XX trở về sau, với nhiều bổ sung về mặt lý thuyết
của các học giả Anh, Mỹ, Pháp. Về cách dịch thuật ngữ, một số người, trong đó

có Lại Nguyên Ân đề nghị nên dịch Narratology là trần thuật học.
Tiếp thu các ý kiến trên, chúng tôi dùng khái niệm văn xuôi tự sự để
nghiên cứu mảng văn xuôi quan trọng nhất của Lưu Trọng Lư, với cách hiểu là
mảng văn xuôi thuộc loại hình tự sự, hướng tới việc kể chuyện, trần thuật con
người, sự kiện, không gian, thời gian... một cách khách quan, gắn liền với lời
trần thuật của tác giả. Thực ra, cho đến nay, văn xuôi tự sự không hề là khái
niệm xa lạ trong nghiên cứu, lý luận - phê bình ở Việt Nam. Khi nghiên cứu,
tổng hợp tư liệu về văn học Việt Nam trung đại, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Na đã dùng khái niệm này trong tên sách Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung
đại. Gần hơn, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khi giới thiệu bộ sưu tập truyện
ngắn, tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư đã viết một bài giới thiệu công phu có nhan
đề Văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư…
1.1.3. Nghiên cứu lý thuyết của các tác giả trong nước về văn xuôi tự sự
Trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã nhận định về sự ra
đời của văn xuôi cùng quá trình phát triển của nó: “Đến khi nền quốc văn mới
thành lập, văn xuôi bắt đầu xuất hiện và ngày một phát đạt mà thành ra thể văn


14
chính trong nền Việt văn ngày nay” [49, tr.436]. Nhà nghiên cứu cũng nhận định
văn xuôi biến hóa theo ba khuynh hướng: “Văn xuôi chịu ảnh hưởng của Hán
văn” nên các nhà viết quốc văn thường “chú trọng về âm điệu”; diễn đạt ý thường
theo “phép tổng hợp”; lời văn theo lối “biền ngẫu”, “kiểu cách”, “cầu kì”. Còn
“Văn xuôi chịu ảnh hưởng của Pháp văn” thì câu dùng thường “ngắn”; có sự phân
biệt, liên lạc các ý trong câu; ứng dụng phép “đặt câu đặc biệt của Pháp văn”. Và
“văn xuôi hợp với tinh thần Việt văn và có tính cách tự lập”; ở khuynh hướng
này, lời văn “trọng sự bình giản, sáng sủa”, câu văn tùy theo “tình ý trong văn mà
thay đổi” dài ngắn hay đối và không đối, chữ dùng “tham bác”.
Đối với một số nhà nghiên cứu trong nước, văn xuôi tự sự được xem là
một trong hai hình thức (kiểu) của văn học bên cạnh thơ. Các tác giả trong Từ

điển văn học (Bộ mới) có nhận định rằng: “Văn học ở thời kì nào cũng đa dạng.
Có thể phân chia văn học theo hai kiểu (hình thức) chính là thơ và văn xuôi,
đồng thời cũng có thể chia theo ba loại: tự sự, trữ tình và kịch. Mặc dù không có
ranh giới tuyệt đối giữa các loại và có nhiều dạng chuyển tiếp, những đặc điểm
căn bản của mỗi loại là khá xác định. Mỗi loại bao gồm những thể loại hoặc thể
tài nhất định (ví dụ loại hình tự sự bao gồm các thể loại: sử thi, truyện, tiểu
thuyết, v.v…). Mỗi thời đại hoặc thời kì văn học đều nảy nở những hình thức
thể loại đa dạng” [58, tr.1944].
Bàn về văn xuôi, trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, nhà
nghiên cứu Phạm Thế Ngũ khi phân biệt hai thứ văn của Phạm Quỳnh (văn nghệ
thuật và văn luận thuyết) đã nhấn mạnh chức năng của văn xuôi (văn luận
thuyết) trong giai đoạn học tập phương Tây: “Văn luận thuyết, văn xuôi dùng để
diễn giải những lý thuyết về triết lý, khoa học. Về văn nghệ thuật, theo ông,
nước ta đã có và có với một trình độ rất cao nữa. Thơ Thanh Quan, Truyện Kiều,
Chinh phụ ngâm, đều là những gì biện minh cho sự cao đạt tuyệt vời của nghệ
thuật. Nước Nam đã không thiếu những thi ông mặc khách đem cây bút tỉ mỉ tạo
ra những áng văn chương gấm vóc. Cái thiếu cho nước Nam ngày nay, cái tối
cần bây giờ là học thuật mới của Tây phương. Để diễn giải và thâu thái được cái
học thuật ấy cần phải tạo ra một cái văn luận thuyết vững vàng” [104, tr.171].


15
Để đi tìm khái niệm văn xuôi, một số nhà nghiên cứu thường đem so sánh
văn xuôi với thơ. Chẳng hạn, Vương Trí Nhàn trong tiểu luận Nhà văn tiền
chiến và quá trình hiện đại hóa văn học đã viết: “Đọc các từ điển chuyên về văn
học, người ta nhận thấy các khái niệm văn xuôi và thơ thường được viết trong
thế đối lập nhau. Một bên thiên về đời thường (trong nhiều ngôn ngữ phương
Tây, chữ prose, proza tức văn xuôi, khi chuyển thành hình dung từ, thì có nghĩa
tầm thường), một bên thiên về cái cao thượng, cái siêu việt. Một bên bảo tôi thấy
gì viết nấy; bên kia bảo không, hành động viết của tôi là một hành động sáng tạo

với nghĩa đầy đủ của nó […]. Mỗi tác phẩm văn xuôi được viết - dù tiểu thuyết,
hay phóng sự ký sự dài cũng vậy - đều là một câu chuyện. Nghe câu chuyện ấy
người ta hình dung ra một khung cảnh ở đó, có những con người hoạt động. Kể
chuyện tức là tác giả tạo ra một thế giới thu nhỏ. Tiếng nói của tác giả giống như
một luồng ánh sáng soi đến đâu thì người đọc lần theo đến đấy. Cái ông tác giả
đóng vai thượng đế ấy bao giờ cũng đứng cách xa bạn đọc một khoảng cách, cái
gì ông cũng biết sẵn. Song chỉ dần dà ông mới khéo léo gỡ mối và khiến cho
mọi chuyện rắc rối do ông bố trí trở nên mạch lạc” [106, tr.226 - 227].
Tác giả Nguyễn Đăng Na trong bài nghiên cứu Văn xuôi tự sự Việt Nam
thời trung đại: những bước đi lịch sử đã khẳng định: “Văn xuôi tự sự là một bộ
phận hữu cơ cấu thành nền văn học của một dân tộc, mà còn là ánh xạ phản chiếu
trình độ tư duy nghệ thuật của nền văn học đã sản sinh ra chúng” [103, tr.32].
Văn xuôi tự sự có từ thời trung đại, cũng trong bài viết nêu trên, Nguyễn
Đăng Na đã khái quát tiến trình của văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại diễn ra
qua ba bước: Thế kỷ X - XIV, thế kỷ XV - XVI, thế kỷ XVIII - XIX. Ở bước
thứ nhất: “Thế kỷ lấy văn học dân gian và văn học chức năng làm cơ sở”, tác giả
chỉ ra đặc điểm của thời kỳ này là: “Văn xuôi tự sự chưa tách khỏi văn học dân
gian và văn xuôi chức năng. Tác phẩm gồm hai loại chính: một là truyện dân
gian (gồm sưu tầm, ghi chép, chỉnh lý); hai là truyện lịch sử và truyện tôn giáo”
[103, tr.32]. Từ đó tác giả khẳng định: “Văn xuôi tự sự thế kỷ X - XIV có vị trí
cực kỳ quan trọng, bởi nó làm nhiệm vụ đặt nền móng cho toàn bộ văn xuôi tự
sự trung đại cũng như truyện văn xuôi cận hiện đại về nội dung cùng phương


16
thức tư duy nghệ thuật” [103, tr.32]. Ở bước thứ hai: thời kỳ đột khởi của văn
xuôi tự sự: “Đặc điểm của giai đoạn này là, tự sự văn xuôi đã thoát khỏi mối
ràng buộc của văn học dân gian và văn học chức năng, tự sáng tạo ra truyện mới
vừa mang đậm sắc thái dân tộc, vừa phản ánh được hiện thực đương thời” [103,
tr.33]. Từ đó, tác giả khẳng định đây là thời kỳ: “Văn học lấy con người làm đối

tượng và trung tâm phản ánh” [103, tr.35]. Đồng thời nhà nghiên cứu cũng đã
cho rằng ở thời kì này: “Dòng văn xuôi tự sự Nôm cũng đã ra đời. Thành tựu
chủ yếu của nó là dịch các truyện Việt Nam. Sang bước thứ ba: thế kỷ của ký và
tiểu thuyết chương hồi: “Giai đoạn này đã hoàn chỉnh cả ba hình thức tự sự
trung đại: truyện ngắn, ký, tiểu thuyết chương hồi” [103, tr.35]. Tác giả cũng
khẳng định: “Khi “Tây học” thắng thế, văn xuôi tự sự trung đại kết thúc nhiệm
vụ lịch sử của mình. Với mười thế kỷ lao động sáng tạo, các tác gia văn xuôi tự
sự đã để lại một kho tàng kinh nghiệm nghệ thuật quý báu, tạo cơ sở cho tự sự
văn xuôi hiện đại làm đà phát triển” [103, tr.38].
Trong bài viết Thiền uyển tập anh - tác phẩm mở đầu loại hình văn xuôi
tự sự Việt Nam thời trung đại (in trong Tự sự học (Một số vấn đề lý luận và lịch
sử) do Trần Đình Sử chủ biên), tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã nhận định: “Việc
đặt bộ sách như một tác phẩm văn xuôi tự sự sẽ bao quát được tất cả các nội
dung văn - sử - triết, giải thích được đầy đủ tính chất hỗn dung thể loại, sự đan
xen lời đối thoại, văn xuôi và thơ ca trong cùng một cấu trúc văn bản tự sự, việc
ghi chép tiểu sử cuộc đời thiền sư với khả năng tích hợp các yếu tố folklore…
Như vậy, hoàn toàn có thể xác định Thiền uyển tập anh là một trong những tác
phẩm khởi đầu và có ý nghĩa điển hình cho loại hình văn xuôi tự sự Việt Nam
thời trung đại” [130, tr.253 - 254].
Nếu thời trung đại, văn xuôi tự sự được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm,
với ba hình thức tự sự chủ yếu: truyện, tiểu thuyết (chương hồi) và ký thì sang
thời hiện đại nó lại mang một diện mạo, hình thức khác trước, đó là sự ra đời các
hình thức thể loại hiện đại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, phóng sự...
Khi bàn về văn xuôi tự sự hiện đại, tác giả Nguyễn Nghĩa Trọng trong
bài viết Các nhà văn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX nói về văn tự sự (Tự sự học -


17
Trần Đình Sử chủ biên) đã dẫn ra những nhận định về văn tự sự của Phan Kế
Bính, Nguyễn Bá Học, Hoàng Tích Chu, Phạm Quỳnh, Vũ Đình Long, Trúc

Hà, Thiếu Sơn, Lê Tràng Kiều, Trương Tửu, Hải Triều, Như Phong, Vũ Ngọc
Phan, Thạch Lam, Vũ Bằng. Cuối cùng, Nguyễn Nghĩa Trọng kết luận: “Các
nhà văn thống nhất xem văn tự sự là văn kể chuyện, trần thuật sự việc, mô tả
hành động, bao gồm cả tả cảnh, tả tình, tả ngoại hình, nội tâm… Văn tự sự có
đầy đủ trong tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, tùy bút, ký sự, phóng sự,
truyện ký… Nó tổng hợp các loại văn xuôi, đa dạng, phong phú. Tuy nhiên có
trường hợp tự sự là văn vần. Văn tự sự ngày càng phát triển và có triển vọng to
lớn nhưng luôn đổi mới tùy hoàn cảnh lịch sử xã hội và tài năng của các nhà
văn” [130, tr.315 - 316].
Về phương thức tự sự, trong cuốn Lý luận văn học, Hà Minh Đức cho
rằng tự sự ghi chép lại “Quan hệ giữa con người với cuộc sống khách quan, và
không tập trung ở sự khai thác tâm trạng chủ quan của người viết mà hướng về
thế giới khách quan. Nhận thức thế giới khách quan một cách chân thực, phát
hiện vào chiều sâu của thực tại, ghi chép được những mặt phong phú của đời
sống để góp phần cải tạo cuộc sống là yêu cầu chân chính của phương thức tự
sự” [45, tr.160].
Tất cả những nghiên cứu lý thuyết được điểm qua ở trên giúp chúng tôi có
chỗ dựa về lý luận để triển khai đánh giá văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư theo
những phương diện phù hợp với đặc trưng loại hình của nó, từ đó, có thể chỉ ra
một cách thuyết phục những đóng góp của của mảng sáng tác này cho văn xuôi
tự sự Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng và văn xuôi tự sự Việt Nam hiện
đại nói chung.
1.2. Nghiên cứu về ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với quá
trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nói chung, văn xuôi tự sự Việt Nam
nói riêng
1.2.1. Những nghiên cứu công bố trước 1945
Trong phần viết này, điều chúng tôi quan tâm là những gợi mở từ những
nghiên cứu về vấn đề nói trên đối với việc tìm hiểu những đặc điểm của văn



18
xuôi tự sự Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 (trong đó có văn xuôi tự sự Lưu
Trọng Lư) - những đặc điểm được hình thành trong sự cọ xát văn hóa và trong
những nỗ lực hiện đại hóa văn học của những nhà văn thức thời, được đào tạo từ
“trường Tây”, trong khi đón ngọn gió văn minh từ phương xa thổi tới vẫn không
thôi thao thức với bẳn sắc và tiền đồ của nền văn hóa, văn học Việt Nam.
Trước khi tiếp xúc với văn hóa, văn học phương Tây, văn học Việt Nam
đã có truyền thống tự sự bằng văn xuôi với những thành tựu đáng tự hào. Điều
này có thể được kiểm chứng qua những bộ sưu tập dày dặn như Văn xuôi tự sự
Việt Nam thời trung đại gồm 3 tập do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na tuyển
soạn và giới thiệu (Nxb Giáo dục 1997 - 2000) mà ở trên chúng tôi đã nhắc tới.
Đến cuối thế kỷ XIX, văn xuôi tự sự Việt Nam đã có một khuôn mặt khác:
truyện ngắn khác truyện truyền kỳ xưa, tiểu thuyết không còn là tiểu thuyết
chương hồi nữa và ký thì có nhiều tiểu loại phong phú hơn, với việc đề cao
nguyên tắc ghi chép trung thành những sinh hoạt thường ngày… Đây chính là lý
do thúc đẩy các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu ảnh hưởng của văn học
phương Tây, văn học Pháp đến văn học Việt Nam cũng như sự tiếp nhận chủ
động những ảnh hưởng đó của các nhà văn Việt Nam đang khát khao đổi mới và
hiện đại hóa sáng tác.
Sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, văn học Việt Nam cuối
thể kỷ XIX đã có một cuộc tiếp xúc sâu rộng với nền văn hóa, văn học phương
Tây qua văn hóa, văn học Pháp. Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu như
Dương Quảng Hàm, Thiếu Sơn, Hoài Thanh - Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan, Kiều
Thanh Quế… xác nhận, khẳng định.
Có thể nêu ý kiến tiêu biểu sau đây của Dương Quảng Hàm trong Việt
Nam văn học sử yếu khi nhận định về số người Nam ảnh hưởng văn hóa văn học
phương Tây (đặc biệt là nước Pháp) ngày càng nhiều: “Sau khi người Pháp cai
trị nước ta, Pháp học một ngày một phát đạt, số người Nam học chữ Pháp càng
ngày càng nhiều, trước còn ở bậc tiểu học, trung học, sau lên đến bậc đại học,
nhờ đó mà các bậc học thức trong nước được tiếp xúc thẳng với nền văn học của

Âu Tây, thứ nhất là của nước Pháp và chịu ảnh hưởng sâu xa của nền văn hóa


19
ấy” [49, tr.418]1. Nhà nghiên cứu còn khẳng định cuộc tiếp xúc với phương Tây
đã khiến cho luân lý, xã hội Việt Nam có sự thay đổi, chẳng hạn: con người bấy
giờ thường hay nhắc đến chủ nghĩa cá nhân, những quan niệm về công dân,
nghề nghiệp, danh dự… Dương Quảng Hàm đã phân tích khá kỹ lưỡng sự thay
đổi nhiều mặt của văn học nước Nam khi tiếp xúc với nền văn học phương Tây
(cụ thể là văn học Pháp). Về đường học thuật: “Các nhà trí thức biết để ý đến
học thuật của các nước trên hoàn cầu, đến việc nước ta và việc thiên hạ; biết giá
trị của phương pháp khoa học, của sự tìm tòi, sự phát minh và biết trọng những
đặc sắc” [49, tr.419]. Còn ngôn ngữ và văn tự, Dương Quảng Hàm nhận định nó
đã có nhiều đổi mới: “Nhờ ảnh hưởng của Pháp văn, nhiều nhà viết quốc văn ta
gần đây đã biết trọng sự bình giảng sáng sủa, gãy gọn. Có nhiều cú pháp mới
phỏng theo cú pháp văn Tây mà đặt ra. Đồng thời có nhiều danh từ gốc ở chữ
Pháp đã theo cách phiên âm mà sáp nhập tiếng ta và có nhiều thành ngữ của
Pháp đã do các nhà viết văn đem dịch ra tiếng ta” [49, tr.419]. Khi nói tới
“đường văn chương”, nhà nghiên cứu đem so sánh văn chương của “các cụ” xưa
kia với các nhà học thức quốc văn. Các cụ thường viết văn bằng chữ Nho nhưng
“nhãng bỏ quốc văn”, họ thường “chuộng từ chương mà không vụ thực sự”, chú
trọng đến “hạng người cao quý” mà không quan tâm tới lớp “thường dân”. Còn
nay: “Các nhà học thức đã biết trọng quốc văn, biết quan sát và mô tả các cảnh
vật xác thực, biết để ý đến cuộc sinh hoạt của người bình dân” [49, tr.419].
Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam khẳng định về ảnh
hưởng phương Tây trên mọi phương diện của đời sống: “Chúng ta ở nhà tây, đội
mũ tây, đi giày tây, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa,
xe đạp… còn gì nữa! Nói làm sao cho xiết mọi sự thay đổi về vật chất, phương
Tây đã đưa tới giữa chúng ta! Cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm, cuộc
sống cũng không còn giữ nguyên hình như ngày trước. Nào dầu Tây, diêm Tây,

nào vải Tây, chỉ Tây, kim Tây, đinh Tây. Đừng tưởng tôi ngụy biện. Một cái
đinh cũng mang theo nó một chút quan niệm của phương Tây về nhân sinh, về
1

Khi trích dẫn ý kiến của Dương Quảng Hàm, chúng tôi bỏ gạch nối giữa các từ ghép mà
tác giả đã sử dụng một cách nhất quán, để phù hợp với quy cách chính tả hiện nay.


20
vũ trụ, và có ngày ta sẽ thấy thay đổi cả quan niệm của phương Đông. Những đồ
dùng kiểu mới ấy chính đã dẫn đường cho tư tưởng mới” [133, tr.16].
Cũng như Dương Quảng Hàm, Hoài Thanh và Hoài Chân đã nhìn rõ sự
thay đổi cả ở trong văn học, trong tư tưởng, hành động để hướng tới một nền
quốc văn mới: “Họ bắt đầu viết quốc ngữ, một thứ chữ mượn của người phương
Tây. Câu văn của họ cũng bắt đầu có cái rõ ràng, cái sáng sủa của văn tây.
Những tư tưởng phương Tây đầy rẫy trên Đông Dương tạp chí, trên Nam phong
tạp chí và từ hai cơ quan ấy thấm dần vào các hạng người có học. Người ta đua
nhau cho con em đến trường Pháp Việt, người ta gửi con em sang tận bên Pháp.
Thế rồi có những người Việt Nam đậu kỹ sư, đậu bác sỹ, đậu thạc sỹ, có những
người Việt Nam nghiên cứu khoa học, triết học; và có những người Việt Nam
nghĩ chuyện xây dựng một nền học riêng cho nước Việt Nam […]. Những hình
thức mới của cuộc đời, những tư tưởng mới và nhất là ảnh hưởng văn học Pháp
ngày một thấm thía, ấy là những lợi khí Âu hóa” [133, tr.16 - 17].
Cả Dương Quảng Hàm lẫn Hoài Thanh - Hoài Chân đều nhận định sự tiếp
xúc với phương Tây tỏa khắp đời sống của dân tộc. Việc tiếp xúc cụ thể với văn
học Pháp là con đường đầu tiên để cho lớp trí thức Tây học đến với nền văn
minh phương Tây. Từ đó, nước nhà đã có phong trào quốc văn mới dựa trên sự
thay đổi về tư tưởng, ngôn ngữ, văn chương.
Về Lưu Trọng Lư, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân cho
rằng Lưu Trọng Lư “xếp riêng vào một dòng những nhà thơ tuy có chịu ảnh

hưởng phương Tây nhưng rất ít và cũng không chịu ảnh hưởng của thơ Đường.
Thơ của họ có tính cách Việt Nam rõ nét”. Điều này có thể đúng trong thơ
nhưng chưa hẳn đúng trong văn xuôi. Nhưng nói rằng Lưu Trọng Lư có ảnh
hưởng văn học phương Tây thì hoàn toàn chính xác khi ta đọc các sáng tác văn
xuôi của ông.
Những ý kiến của giới nghiên cứu trước 1945 (được lược thuật ở trên) về
việc tiếp nhận ảnh hưởng của văn học phương Tây ở Việt Nam đã chứa đựng
nhiều gợi ý quý báu, giúp chúng tôi nghiên cứu ảnh hưởng đó trong văn xuôi tự
sự của Lưu Trọng Lư giai đoạn 1930 - 1945 một cách thuận lợi.


×