Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 58 trang )

TÓM LƯỢC
Trong những năm qua, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đã có những
tác động đáng kể đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ khi Việt Nam gia
nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tham gia công ước Berne về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ đã đặt ra nhiều cơ hội và thách thức lớn. Sự sáng tạo không ngừng của các tác
giả, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, văn học nói chung, trong lĩnh
vực tác phẩm kiến trúc nói riêng đã và đang tác động rất lớn đến các chính sách về bảo
hộ QTG của nước ta hiện hành. Pháp luật về sở hữu trí tuệ, trong lĩnh vực QTG và cụ thể
là trong lĩnh vực QTG đối với tác phẩm kiến trúc đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển,
tuy nhiên so với nền lập pháp của nhiều nước trên thế giới thì lĩnh vực này ở Việt Nam
còn khá non trẻ. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hộ QTG đối với tác
phẩm kiến trúc là thật sự cần thiết không chỉ đối với các cá nhân - người sáng tạo ra
những tác phẩm kiến trúc có giá trị mà còn đối với doanh nghiệp, những người đã và
đang kinh doanh trong lĩnh vực kiến trúc, xây dựng và xa hơn nữa là đối với quốc gia,
bởi các công trình kiến trúc sẽ góp phần kiến tạo nên các cơ sở hạ tầng vật chất, kiến tạo
nên các cảnh quan làm đẹp cho quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong quá trình đô thị
hóa - hiện đại hóa đất nước.
Bằng những kiến thức đã học tại trường Đại học Thương Mại và những gì tìm hiểu,
em hy vọng sẽ đóng góp được những kết quả nghiên cứu vào quá trình hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ, trong lĩnh vực bảo hộ QTG đối với tác phẩm
kiến trúc, thúc đẩy quá trình hoạt động kinh doanh hiệu quả tại Công ty cổ phần tư vấn
thiết kế xây dựng Nam Cường. Quá trình nghiên cứu đề tài đạt được những kết quả sau :
1. Xác định những vấn đề cần nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ QTG
đối với tác phẩm kiến trúc
2. Làm rõ những lý luận cơ bản liên quan đến pháp luật về điều kiện bảo hộ, nội dung,
các hành vi xâm phạm và cơ chế bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc
3. Tìm hiểu nhân tố ảnh hưởng, phân tích thực trạng thực hiện vấn đề này tại Công ty
cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường.
4. Đưa ra định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến
trúc, đồng thời đề xuất những kiến nghị để góp phần hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện . Kết quả nghiên cứu mang yếu tố thực tiễn, có thể áp dụng tham khảo cho vấn


đề xây dựng pháp luật liên quan đến bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc và hoàn
thiện pháp luật về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc không chỉ ở Công ty cổ phần
tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường mà còn các công ty có quy mô và loại hình kinh
doanh tương tự.
1


LỜI CẢM ƠN
Trước khi đi cụ thể vào đề tài nghiên cứu, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các
thầy, cô giáo trường Đại học Thương Mại, đặc biệt là các thầy, cô giáo trong khoa Kinh tế
- Luật đã tạo điều kiện tốt nhất cho chúng em trong suốt 4 năm học tập, rèn luyện tại
trường.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sây sắc nhất tới cô giáo hướng dẫn TS.
Nguyễn Thị Tình đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận với đề tài “Pháp
luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Thực tiễn thực hiện tại Công ty
cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường”.
Em xin kính chúc các thầy cô và gia đình sức khỏe dồi dào, luôn thành công trong
sự nghiệp và cuộc sống!
Tiếp đến, em xin gửi tới các cô, chú, anh, chị nhân viên trong Công ty cổ phần tư
vấn thiết kế xây dựng Nam Cường lời cảm ơn sâu sắc và biết ơn vì đã tạo điều kiện thuận
lợi, hỗ trợ em trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận.
Cuối cùng, dù có sự cố gắng nhưng do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên
đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong nhận được sự góp ý của các thầy
cô để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện

Đỗ Hà Mĩ

2



MỤC LỤC
TÓM LƯỢC..................................................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................................2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT...........................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu....................................................................................2
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.........................................................................3
4. Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu......................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................................5
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.........................................................................................6
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC..........7
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền tác giả.......................................................................7
1.1.1. Khái niệm về quyền tác giả.....................................................................................7
1.1.2. Vai trò của quyền tác giả.........................................................................................8
1.1.3. Lịch sử hình thành quyền tác giả.............................................................................8
1.2. Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc..................................................................10
1.2.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc..............................................10
1.2.2. Điều kiện bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc................................................11
1.2.3. Chủ thể và thời hạn bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc................................12
1.2.4. Nội dung QTG đối với tác phẩm kiến trúc............................................................13
1.2.5. Chuyển giao quyền giao QTG đối với tác phẩm kiến trúc.....................................14
1.2.6. Xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.............................................15
1.3. Các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả........................................................................16
1.3.1. Nguyên tắc bảo hộ tự động....................................................................................16
1.3.2. Nguyên tắc bảo đảm tính không trùng lặp của tác phẩm.......................................17
1.3.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân.........................................17

1.3.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng, tự định đoạt của các chủ thể.....................18
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
BẢO HỘ TÁC PHẨM KIẾN TRÚC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN TƯ VẤN THIẾT KẾ XÂY DỰNG NAM CƯỜNG..................................19
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến các quy định của pháp luật về
hoạt động bảo hộ tác phẩm kiến trúc................................................................................19
2.1.1. Tổng quan tình hình các quy định của pháp luật về hoạt động bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm kiến trúc................................................................................................19


2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến các quy định của pháp luật về hoạt động bảo hộ quyền
tác giả đối với tác phẩm kiến trúc....................................................................................20
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm kiến trúc......................................................................................................21
2.2.1. Nội dung pháp luật về chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc........21
2.2.2. Nội dung pháp luật về điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.....22
2.2.3. Nội dung pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc...........................25
2.2.4. Nội dung pháp luật về xâm phạm QTG đối với tác phẩm kiến trúc......................31
2.3. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường......................35
2.3.1. Tổng quan về Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường...................35
2.3.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm
kiến trúc........................................................................................................................... 36
2.3.3. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về điều kiện bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm kiến trúc................................................................................................37
2.3.4. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc..................................................................................................................38
2.4. Một số nhận xét và đánh giá liên quan đến việc áp dụng pháp luật về bảo hộ QTG đối
với tác phẩm kiến trúc tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường...............40
2.4.1. Những thành tựu đạt được......................................................................................40

2.4.2. Những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại................................................................41
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH HOẠT ĐỘNG BẢO HỘ QTG ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC..........43
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc
Căn cứ
vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
43
3.2. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hộ QTG đối với
tác phẩm kiến trúc............................................................................................................44
KẾT LUẬN.....................................................................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LSHTT

NCDC

Luật sở hữu trí tuệ
Nghị định
Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng


QTG

Nam Cường
Quyền tác giả


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Vấn đề bảo hộ trí tuệ trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc
tế ngày nay càng trở nên đặc biệt quan trọng và bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu
của quốc gia. Nền văn minh nhân loại được xây dựng bằng sức sáng tạo của con người do
đó, bảo hộ thành quả của sức sáng tạo đó hay nói cách khác là bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ vừa là nhu cầu, vừa là nhiệm vụ đặt ra cho mỗi quốc gia, mỗi nền pháp luật nhằm
hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hướng tới một nền pháp luật hiện đại, tân
tiến.
Nghệ thuật kiến trúc với tư cách là một loại hình nghệ thuật tạo dựng không gian,
môi trường sống cho con người, có tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn đến môi trường sống
của con người. Kiến trúc cũng được nhìn nhận như là một ngành nghệ thuật và khoa học,
có nhiệm vụ tổ chức không gian sống cho con người. Lịch sử kiến trúc đã ghi nhận nhiều
nền văn hóa cổ đại đến cận đại, hiện đại được phản ánh bởi các công trình kiến trúc có
giá trị lịch sử và văn hóa vĩ đại như Đấu trường Roma (Italia), Vạn lý trường thành
(Trung Quốc) cho đến những công trình kiến trúc tiêu biểu thời đại ngày nay như tháp
Tokyo (Nhật Bản), Đảo nhân tạo Palm (Dubai). Những công trình kiến trúc phản ánh một
nền văn minh nhân loại và là thước đo cho sự phát triển của mỗi quốc gia, khu vực.
Mỗi công trình kiến trúc (từ nhà ở, công viên cho đến khu đô thị, kiến trúc nghệ
thuật) trước khi ra đời đều phải trải qua chu trình thiết kế - mô tả bản vẽ trên giấy, hoặc
bất kỳ một hình thức nào khác có thể chứa đựng ý tưởng về công trình kiến trúc đó và
được cảm nhận bởi giác quan của con người. Là một bộ phận của QTG, tác phẩm kiến
trúc được ghi nhận là một tác phẩm và được bảo hộ theo quy định của LSHTT về QTG.
Những giá trị và lợi ích về kinh tế cũng như tinh thần mà việc bảo hộ mang lại cho các
tác giả, chủ sở hữu QTG của các tác phẩm kiến trúc là hết sức quan trọng. Nếu được ghi
nhận xứng đáng, thì việc bảo hộ QTG là một công cụ để khuyến khích sự sáng tạo và
phát triển của các tác giả, chủ sở hữu tác phẩm kiến trúc, góp phần quan trọng tạo nên sự
phong phú của các công trình kiến trúc dân dụng, mỹ thuật. Ngược lại, nếu cơ chế bảo hộ
QTG không thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình thì vô hình, nó sẽ trở thành
rào cản hạn chế động lực nghiên cứu, sáng tạo, và ứng dụng của các tác phẩm kiến trúc
vào quá trình phát triển của xã hội và kinh tế.
Mặc dù vấn đề QTG nói chung tại Việt Nam đã được ghi nhận lần đầu tại NĐ

142/HĐBT ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về bảo hộ QTG cho đến nay đã có
hàng loạt văn bản bao gồm Luật, NĐ hướng dẫn thi hành, các Thông tư… được ban hành
và cả việc tham gia ký kết các hiệp định, Công ước quốc tế để đảm bảo thi hành QTG,


tuy nhiên trong thực tiễn cho thấy việc vi phạm QTG đối với tác phẩm kiến trúc vẫn còn
diễn ra phổ biến. Nguyên nhân bởi vì việc tuân thủ và thi hành pháp luật về QTG nói
chung và QTG đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng vẫn chưa thực sự đi vào đời sống của
người dân. Khái niệm QTG hay bản quyền vẫn còn xa lạ với số đông người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, nguyên nhân xuất phát từ hệ thống pháp luật điều chỉnh vấn đề bảo hộ QTG
đối với tác phẩm kiến trúc vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, ví dụ như bảo hộ QTG đối với
bản vẽ thiết kế, bản vẽ, phác thảo là bảo hộ cho một tác phẩm cụ thể được thể hiện trong
không gian hai chiều xác định, do đó, việc tái tạo công trình kiến trúc, xây dựng mới mà
không xin phép tác giả sẽ không được coi là xâm phạm QTG nếu việc xây dựng này
không sử dụng bản vẽ thiết kế cụ thể được bảo hộ đó, hoặc trong bối cảnh bùng nổ của
Internet như hiện nay thì QTG nói chung và QTG đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng dễ
dàng bị xâm phạm bởi những đối tượng trục lợi. So sánh với các nền kinh tế phát triển
như Hoa Kỳ hay Nhật Bản, QTG được coi là một ngành luật riêng biệt, tách biệt với
quyền sở hữu công nghiệp , trong khi đó ở Việt Nam, quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp, quyền đối với giống cây trồng tạo thành quyền sở hữu trí tuệ nói chung và được
quy định tại một văn bản luật thống nhất là LSHTT. Xuất phát từ những lý do trên, em
lựa chọn vấn đề :
“Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Thực tiễn thực
hiện tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường”
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
So với các lĩnh vực khác, nghiên cứu về QTG nói chung và QTG đối với tác phẩm
kiến trúc nói riêng còn kém phần được quan tâm hơn. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua
cũng đã có những công trình nghiên cứu liên quan đền QTG và QTG đối với tác phẩm
kiến trúc. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây : Nguyễn Minh Tuấn
(2010), “Bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam trước yêu cầu hội nhập

kinh tế quốc tế”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Vũ Thị Hải Yến chủ nhiệm đề tài. Nguyễn Lan Nguyên (2009) “Một số ý kiến nhằm đẩy
mạnh bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam trong thời gian tới” Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Luật học. Trương Thị Tường Vi (2010) “Bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy
tính theo pháp luật Việt Nam” Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Kiều
Thanh (1999) “Một số vấn đề về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự Việt Nam” Luận văn
thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội. Nguyễn Lệ Thu (2012) “Quyền tác giả đối với
tác phẩm phái sinh ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” Luận văn thạc sĩ luật học,
Đại học Luật Hà Nội. Quản Tuấn An (2009) “Bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan
trong môi trường kĩ thuật số - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sĩ Luật
học, Đại học Luật Hà Nội. Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu khác như “Quyền


tác giả và hoạt động xuất bản”, Công trình nghiên cứu dịch thuật, Nhà xuất bản Hội nhà
văn, “Quyền tác giả trong không gian ảo” Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Các công trình nghiên cứu nêu trên bước đầu đã đề cập, làm rõ được một số vấn
đề liên quan đến QTG nói chung và QTG đối với một số tác phẩm cụ thể, trong đó có
một số vấn đề liên quan đến tác phẩm kiến trúc .Tuy nhiên những công trình nghiên cứu
kể trên chỉ dừng ở mức độ cung cấp thông tin và chưa thực sự đưa ra vấn đề chuyên sâu
liên quan đến tác phẩm kiến trúc. Riêng các công trình nghiên cứu hệ thống và đầy đủ về
vấn đề này có luận văn thạc sĩ “Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc theo pháp luật
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã đi
sâu nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến QTG đối
với tác phẩm kiến trúc, đó là các khái niệm, nội dung QTG đối với tác phẩm kiến trúc, cơ
chế bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc. Tuy nhiên, luận văn nói trên chưa giải quyết
được những hạn chế còn tồn tại trong quy định của pháp luật liên quan đến cơ chế bảo hộ
QTG đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng. Hoặc như công trình nghiên cứu “Quyền tác
giả, đường hội nhập không trải hoa hồng” sách chuyên khảo của tác giả Nguyễn Vân
Nam, Nhà xuất bản trẻ tập trung vào phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam

về QTG, trong đó có QTG đối với tác phẩm kiến trúc đặt trong bối cảnh hội nhập qua
việc đối chiếu, so sánh những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này so với
pháp luật nước ngoài và những Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Công trình
nghiên cứu đã chỉ ra được những hạn chế của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc
tế về QTG nói chung và QTG đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng, tuy nhiên tác giả còn
bỏ ngỏ những giải pháp thực tiễn để giải quyết những tồn tại nói trên. Có thể thấy vi
phạm QTG nói chung và vi phạm QTG đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng chưa thực sự
được các tác giả, các nhà nghiên cứu quan tâm dù pháp luật về sở hữu trí tuệ nước ta vẫn
bộc lộ nhiều hạn chế trong quy định về vấn đề này.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống các chính sách, quy định
pháp luật về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc ở nước ta trong tình hình phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay là thực sự cần thiết trong thời đại hội nhập toàn cầu hóa. Trên cơ
sở đó làm sáng tỏ những luận cứ khoa học về tác phẩm kiến trúc, bảo hộ QTG đối với tác
phẩm kiến trúc, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp LSHTT nói chung và pháp luật bảo
hộ QTG, mà cụ thể là QTG đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Đề tài tập trung giải quyết vấn đề nghiên cứu hoàn thiện và bổ sung những quy
định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc thông qua việc
phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam và đối chiếu với những vụ việc đã xảy


ra trong thực tiễn, đồng thời so sánh, đối chiếu với Luật QTG của Hoa Kỳ và Anh, cùng
một số điều ước quốc tế khác, từ đó có những khuyến nghị hoàn thiện pháp luật về QTG
ở Việt Nam nói chung và QTG đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng. Vì vậy, em lựa chọn
vấn đề :
“Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. thực tiễn thực hiện tại
Công ty cố phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường”
4. Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các khái niệm, các quy định trong các văn bản pháp luật hiện

hành của Việt Nam về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc, đó là những vấn đề lý
luận cơ bản về QTG đối với các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật nói chung và
QTG đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng; các loại hình tác phẩm văn học, khoa học,
nghệ thuật được bảo hộ, cơ chế bảo hộ và ý nghĩa của việc bảo hộ QTG đối với tác phẩm
kiến trúc trong việc đời sống kinh tế - xã hội ngày nay. Đồng thời, bài khóa luận cũng
phân tích, so sánh các quy định về QTG của pháp luật Việt Nam so với một số nước phát
triển trên thế giới như Hoa Kỳ, Anh và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
để soi chiếu và có cái nhìn toàn diện về hệ thống pháp luật Việt Nam trong việc điều
chỉnh vấn đề này.
Đồng thời bài khóa luận cũng sử dụng tư liệu về các tình huống thực tế liên quan
đến việc xâm phạm QTG đối với tác phẩm kiến trúc và thực tiễn áp dụng cơ chế bảo hộ
QTG đối với tác phẩm kiến trúc. Từ những nghiên cứu, phân tích thực tiễn đó khóa luận
cũng đóng góp một số định hướng và khuyến nghị hoàn thiện QTG đối với tác phẩm kiến
trúc trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về bảo hộ
QTG đối với tác phẩm kiến trúc, đồng thời đánh giá được thực trạng bảo hộ QTG diễn ra
trên thực tế, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp nhằm hoàn thiện hơn pháp LSHTT về bảo
hộ QTG. Cụ thể bài nghiên cứu cần thực hiện những nhiệm vụ sau :
(i) Trình bày những vấn đề lý luận chung về QTG, QTG đối với tác phẩm kiến trúc,
pháp luật về bảo hộ QTG nói chung và QTG đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng.
(ii)
Phân tích, đánh giá thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo hộ
QTG đối với tác phẩm kiến trúc . Từ đó rút ra những mặt hạn chế của pháp luật điểu
chỉnh vấn đề này.
(iii)
Đề xuất những kiến nghị đối với nhà nước và chủ thể liên quan trong việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc.
(iv)



Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung : Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống lý luận và thực tiễn của pháp luật
Việt Nam về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc tại Việt Nam hiện nay. Nhìn chung,
pháp luật LSHTT quy định về bảo hộ QTG từ góc độ lý luận đến thực tiễn áp dụng còn
tồn tại nhiều bất cập. Các quy định hiện hành điều chỉnh về vấn đề này nhằm rải rác trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật như LSHTT 2005, Luật xuất bản 2012, Bộ luật dân sự
2015, … Vì vậy. khi tiếp cận nghiên cứu về vấn đề bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến
trúc, đề tài tập trung làm rõ những vấn đề sau :
(i)
Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc
(ii)
Thực trạng và thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật về vấn đề này bao
gồm : Đối tượng của QTG trong lĩnh vực tác phẩm kiến trúc, chủ thể của QTG trong lĩnh
vực tác phẩm kiến trúc, nội dung QTG trong lĩnh vực tác phẩm kiến trúc và bảo hộ QTG
trong lĩnh vực tác phẩm kiến trúc. Trong phạm vi nghiên cứu đã được chỉ rõ, đề tài tập
trung nghiên cứu, phân tích, so sánh, đánh giá và đưa ra quan điểm cũng như giải pháp
hoàn thiện pháp luật về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc.
Về không gian, khóa luận chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc, đối chiếu tham khảo với một số quốc gia
trên thế giới và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về QTG. Bên cạnh đó,
khóa luận cũng đi vào xem xét thực trạng bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc với
những tư liệu chủ yếu đến từ Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường và
một số ví dụ thực tiễn khác. Từ đó làm cơ sở để khóa luận đưa ra những định hướng và
giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, em có sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
Phương pháp thu thập thông tin : Phương pháp này được sử dụng ngay từ lúc bắt đầu
nghiên cứu. Thu thập thông tin giúp người nghiên cứu hình dung được vấn đề nghiên
cứu, nghiên cứu vấn đề nghiên cứu phù hợp với tình hình thực tế. Từ những thông tin thu

thập được tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh nhằm tìm ra câu trả lời cho câu hỏi
nghiên cứu.
Phương pháp tổng hợp – so sánh : Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi việc tìm
kiếm tài liệu đã hoàn tất, tổng hợp những thông tin trong các tài liệu đã tìm được có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu để phục vụ cho tổng quan nghiên cứu, hay phân tích số liệu
để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu. Mặt khác, cùng một nội dung cũng có thể được tìm
thấy ở nhiều nguồn khác nhau, do vậy phương pháp so sánh được dùng trong trường hợp
này để kiểm chứng thông tin.


Ngoài ra, phương pháp so sánh còn được dùng để so sánh, phân tích những quy
định mới với những quy định trước đây, so sánh những quy định của quốc gia này với
quốc gia khác nhằm đưa ra một kết quả hay lý thuyết phù hợp nhất với vấn đề nghiên
cứu.
Phương pháp liệt kê : Phương pháp này dùng để trình bày các thông tin có được một
cách khoa học và dễ hiểu nhất nhằm phục vụ cho việc phân tích số liệu một cách có hiệu
quả.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Nội dung chính của khóa luận bao gồm 3 chương
Chương 1 : Một số vấn đề lý luận về QTG và pháp luật về bảo hộ QTG đối với tác phẩm
kiến trúc
Chương 2 : Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến
trúc và thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường
Chương 3 : Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo hộ QTG đối
với tác phẩm kiến trúc
Ngoài phần nội dung chính, khóa luận còn bao gồm các phụ lục đó là Lời mở đầu, kết
luận, danh mục bảng biểu, danh mục từ viết tắt cùng các phụ lục liên quan.
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền tác giả

1.1.1. Khái niệm về quyền tác giả
Một trong những nội dung quan trọng trước khi tiếp cận khái niệm QTG , đó là
phải xem xét khái niệm “tác giả” là gì, trên cơ sở đó mới có thể ghi nhận và bảo hộ các
quyền của tác giả. Tác giả, theo quy định của pháp luật hiện hành là “người trực tiếp
sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học” [Điều 8
NĐ 100/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự,
LSHTT về QTG và quyền liên quan]
Từ định nghĩa trên có thể nhận thấy, xét về nguồn gốc, tác giả là người trực tiếp
sáng tạo ra một sản phẩm trí tuệ là “cha sinh, mẹ đẻ” của các tác phẩm thuộc lĩnh vực văn
học, nghệ thuật và khoa học. Khác với các lao động sản xuất đơn thuần khác, đặc trưng
của lao động trí óc này là tạo ra sản phẩm trí tuệ và thể hiện nó một cách hữu hình. Một
người được coi là tác giả của một tác phẩm khi tác phẩm đó được hình thành dưới một
hình thức vật chất nhất định và phải “có tính sáng tạo”, và được người này “sáng tạo
trực tiếp”, có thể hiểu tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một tác phẩm trí tuệ và thể
hiện nó dưới dạng vật chất nhất định thuộc một trong các thể loại văn học, nghệ thuật và


khoa học. Tác giả, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay bao gồm : Tác giả phái
sinh, đồng tác giả, chủ sở hữu tác phẩm.
Quyền tác giả. Trên thế giới, hầu hết các nước đều ghi nhận và bảo vệ các lợi ích này
cho tác giả, ví dụ : pháp luật Nhật Bản quy định mục đích của luật bản quyền là nhằm
“bảo đảm cho tác giả quyền về tinh thần và quyền về tác giả (quyền về kinh tế)” .Pháp
luật Việt Nam không có quy định riêng về luật bản quyền mà QTG là một phần tạo nên
hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Khi một người tạo ra một tác phẩm văn
học, khoa học hay nghệ thuật, thì người đó sẽ trở thành chủ sở hữu của tác phẩm đó và tự
do quyết định việc sử dụng nó. Một tác phẩm được bảo hộ QTG kể từ thời điểm tác phẩm
được ra đời nên không cần tiến hành thủ tục gì, như đăng ký hoặc nộp lưu chiểu, để tác
phẩm đó có điều kiện được bảo hộ. Theo một cách chung nhất, Tổ chức sở hữu trí tuệ thế
giới (WIPO) định nghĩa QTG như sau: "Quyền tác giả là một thuật ngữ pháp lý chỉ quyền
của người sáng tác đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ"

QTG bao gồm hai nhóm quyền chính: các quyền kinh tế (quyền tài sản) và các
quyền tinh thần (quyền nhân thân). Cả hai nhóm quyền này thuộc về người sáng tạo ra
tác phẩm - người có thể thực hiện các quyền đó. Thực hiện các quyền có nghĩa là tác giả
có thể tự mình sử dụng tác phẩm hoặc cho phép người khác sử dụng tác phẩm hoặc cấm
người khác sử dụng tác phẩm của mình.
1.1.2. Vai trò của quyền tác giả
QTG đối với bản thân người sáng tạo : Mỗi tác phẩm hình thành mang dấu ấn
riêng của tác giả, phản ánh từng lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội: văn hóa, khoa
học, nghệ thuật phục vụ cho phần lớn nhu cầu của cộng đồng. Việc pháp luật cho phép
người sáng tác có được những quyền riêng là để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp
của họ, bù đắp những chi phí họ đã bỏ ra để tạo nên tác phẩm, bảo hộ giá trị của tác
phẩm… là những vai trò chính của QTG.
QTG đối với sự phát triển văn hóa và kinh tế : Với con số gần đây nhất trong
Hội thảo quốc gia về vai trò của QTG đối với sự phát triển văn hóa và kinh tế cho biết:
“Ở Thái Lan, dựa trên tổng số liệu điều tra năm 2006, tổng giá trị đóng góp của ngành
công nghiệp dựa trên bản quyền cho nền kinh tế chiếm 4,48% GDP, chiếm 2,85% của
tổng việc làm trong cả nước. Hoặc ở Hàn Quốc, các ngành công nghiệp bản quyền Hàn
Quốc đã tăng trưởng nhanh hơn so với các ngành công nghiệp khác của nền kinh tế trong
khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2009. Trong năm 2009, các ngành công nghiệp
dựa trên bản quyền Hàn Quốc đạt 105,4 ngàn tỷ Won, chiếm 9,89% GDP quốc gia”.
Những con số trên phản ánh một phần tốc độ phát triển của ngành công nghiệp sáng tạo,
có được điều đó cũng nhờ một phần chế định QTG được thực thi nghiêm ngặt. QTG thể


hiện rõ sự khách quan và công bằng giữa chủ thể muốn khai thác, sử dụng tác phẩm và
tác giả, chủ sở hữu QTG.
QTG và sự ra đời của các tác phẩm mới : Việc tạo ra chế định QTG, ngoài việc
đáp ứng nhu cầu bảo hộ, QTG còn tạo động lực, kích thích sự tìm tòi, sáng tạo của các cá
nhân để sáng tác ra các tác phẩm mới đạt được lợi ích kinh tế trong quá trình khai thác,
sử dụng và phục vụ nhau cầu xã hội loài người.

1.1.3. Lịch sử hình thành quyền tác giả
Trên thế giới
Từ thời cổ đại, con người ta đã có những ý niệm về “sở hữu trí tuệ”, tuy chưa có
QTG đầy đủ đối với sản phẩm tinh thần. Nhà thơ La Mã Marcus Valerius Martialis (42104 SCN) đã gọi người lấy thơ của ông mà đề tên mình là những “kẻ cướp của người”,
từ đó ngày nay chúng ta có từ “kẻ đạo tác phẩm”. Sau phát minh kỹ thuật in sách (vào
khoảng năm 1440), khả năng nhân bản lớn đã dẫn đến nhu cầu phải bảo hộ về pháp lý
chống lại những kẻ kinh doanh không đầu tư vào tác phẩm mà chỉ in lại nó (in lậu). Nhà
xuất bản hoặc xưởng in chỉ sẵn sàng chấp nhận rủi ro cho việc đầu tư công sức, tiền bạc
khi việc bán sách của họ được bảo vệ chống in lậu. Thêm vào đó, thời kỳ Phục hưng đã
thúc đẩy phát triển chỉ nghĩa cá nhân và cùng với nó là sự tự tin của những văn nghệ sĩ,
nên người ta bắt đầu lên án đạo văn.
Trong thời kỳ phát triển của QTG có rất nhiều học thuyết được ra đời, có những học
thuyết tồn tại những quan điểm trái ngược nhau. Tại Anh quốc, trước khi biết đến
Thuyết quyền sở hữu trí tuệ (sở hữu tinh thần), một học thuyết có tên là lý thuyết về
quyền sở hữu của nhà xuất bản ra đời, nội dung của học thuyết này cho rằng các nhà
xuất bản và các nhà in cũng đương nhiên có quyền sở hữu đối với các tác phẩm do họ
xuất bản và tái bản theo nhu cầu, nhất là khi họ đã trả cho tác giả những tác phẩm này
một khoản tiền. Lý thuyết về quyền sở hữu của nhà xuất bản này do Hiệp hội các nhà
xuất bản nước Anh đề xướng lần đầu tiên tại London vào năm 1556. Nhưng sau đó,
Thuyết quyền sở hữu trí tuệ ra đời và đã dần lấn át thuyết về quyền sở hữu của nhà xuất
bản. Nước Anh dưới triều đại của Nữ hoàng Anne là nước đầu tiên công nhận độc
quyền của tác giả trong việc nhân bản tác phẩm của mình (1779). Có hai nguyên nhân
chính dẫn đến việc công nhận : trước tiên là vì quyền lợi của xã hội mà phải phá vỡ thế
độc quyền của Hiệp hội các nhà xuất bản và thứ hai là theo Luận thuyết về Lao động
của John Locke, con người phải đương nhiên có quyền tự nhiên sở hữu những gì do họ
làm ra.
Theo gương nước Anh, tuy không chấp nhận lý thuyết về quyền tự nhiên, nước
Mỹ vào năm 1795 cũng ban hành luật liên bang cho phép tác giả có quyền độc quyền
khai thác về mặt kinh tế tác phẩm trong thời gian 14 năm và có thể được gia hạn thêm



trong vòng 14 năm nữa. Tại Đức và Thụy Sĩ, thuyết QTG cũng được thảo luận sôi nổi.
Nước Phổ (thuộc Đức cổ) vào năm 1987 đã ban hành Luật bảo vệ quyền sở hữu tác
phẩm khoa học và nghệ thuật.
Dần dà, theo thời gian, có rất nhiều học thuyết khác về QTG ra đời như Thuyết
quyền nhân thân, Thuyết quyền tài sản phi vật chất nhưng phải đến Thuyết nhất nguyên
mới được thừa nhận rộng rãi và làm cơ sở cho việc hình thành QTG bây giờ. Theo
thuyết này, không thể có hai loại quyền song song cùng xuất phát điểm là cá nhân tác
giả (như quyền sở hữu của nhà xuất bản và quyền sở hữu trí tuệ của tác giả tác phẩm
như đã đề cập ở trên) mà chỉ có một loại quyền với hai chức năng bảo vệ mà thôi (ngày
nay được gọi là QTG). Một số quan điểm quan trọng của Thuyết nhất nguyên như : (i)
QTG bảo vệ tác giả trong quan hệ với tác phẩm về mặt tinh thần và cá nhân, cũng như
trong việc sử dụng tác phẩm (ii) QTG là một quyền thống nhất không thể tách biệt giữa
quyền nhân thân và quyền tài sản (iii) QTG không thể chuyển nhượng, trừ trường hợp
thừa kế.
Tiếp tục xu thế tăng cường bảo vệ quyền lợi của tác giả, hiện nay, QTG được
hiểu không phải một đặc quyền. Sự xuất hiện của QTG không phải bằng sự trao tặng
của nhà nước, không phải quan việc hoàn thành các thủ tục, mà là qua hoạt động sáng
tạo tác phẩm. QTG trao cho tác giả quyền của một chủ sở hữu khi công nhận tác phẩm
là của tác giả.
Tại Việt Nam
Ngay từ bản hiến pháp đầu tiên vào năm 1946, Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận
những quyền cơ bản của công dân liên quan đến QTG, thể hiện tư tưởng tiến bộ nhân
văn về quyền con người. Đó là quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của công dân, là
việc Nhà nước cam kết bảo vệ quyền lợi của trí thức, tôn trọng quyền tư hữu tư nhân về
tài sản. Tư tưởng lập pháp đó đã tiếp tục được thể hiện tại Hiến pháp 1959, 1980 và
Hiến pháp 2013 đang có hiệu lực thi hành.
Năm 1986 với NĐ 142/HĐBT, lần đầu tiên ở Việt Nam một văn bản riêng biệt về
QTG đã được ban hành với những quy định cơ bản, ban đầu với sự giúp đỡ của hãng
VAB (Hãng bảo hộ QTG của Liên Xô cũ). Để thúc đẩy các bước phát triển mới trong

hoạt động bảo hộ tại quốc gia và hội nhập quốc tế, tại kì họp thứ 8 khóa XI ngày 29-112005, Quốc hội đã thông qua LSHTT. Với 222 điều, LSHTT điều chỉnh các quan hệ sáng
tạo, bảo hộ tài sản trí tuệ của ba đối tượng gồm QTG, quyền liên quan, quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Nhằm khắc phục kịp thời một số hạn chế, cản trở
thực thi tại quốc gia và hội nhập quốc tế, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều LSHTT tại kì họp thứ 5 ngày 19/6/2009 với 33 điều sửa đổi, bổ sung.
1.2.
Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc


1.2.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
Khái niệm tác phẩm kiến trúc
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Từ điển bách
khoa xuất bản năm 2011 thì “kiến trúc” là “một nghệ thuật thiết kế, trang trí nhà cửa, toàn
bộ nói chung những quan hệ bên trong giữa các thành phần tạo nên một chỉnh thể”, còn
“tác phẩm” được hiểu là công trình do nhà văn hóa, nghệ thuật hoặc khoa học sáng tạo ra.
Khái niệm “Tác phẩm”được ghi nhận tại khoản 7 Điều 4 LSHTT Việt Nam là “các sản
phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ
phương thức hay hình thức nào”. Tác phẩm kiến trúc là một loại hình tác phẩm văn học,
khoa học và nghệ thuật được bảo hộ QTG theo pháp luật về QTG. Thuật ngữ “tác phẩm
kiến trúc” mới chỉ xuất hiện từ khi pháp luật về QTG đối với tác phẩm kiến trúc ra đời.
Trên thế giới, Theo quy định tại Điều 102 (a) Luật QTG đối với tác phẩm kiến trúc năm
1990 của Hoa Kỳ, tác phẩm kiến trúc bao gồm “kiểu dáng tòa nhà được thể hiện dưới bất
kỳ hình thức nào, kể cả tòa nhà, bản vẽ kiến trúc hay thiết kế ”. Theo quy định của
LSHTT Việt Nam hiện hành thì “tác phẩm kiến trúc” là các bản vẽ thiết kế dưới bất kỳ
hình thức nào thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch
không gian (quy hoạch xây dựng) đã hoặc chưa xây dựng. Theo đó, “Tác phẩm kiến trúc”
bao gồm: (i) các bản vẽ thiết kế về mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh, thể hiện ý
tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình, tổ hợp công trình kiến trúc, tổ chức không gian,
kiến trúc cảnh quan của một vùng, một đô thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị, khu
dân cư nông thôn; (ii) mô hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch

không gian (Điều 17 NĐ số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLDS, LSHTT về QTG và quyền liên quan).
Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
QTG đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Tác phẩm kiến trúc là một loại
hình của tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật. Từ đó có thể rút ra kết luận như sau
“QTG đôi vơi tác phẩm kiến trúc là quyền của tổ chức, cá nhân đối với bản vẽ thiết kế,
mô hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian do mình
trực tiếp sáng tạo ra hoặc đầu tư của cải, vật chất vào quá trình sáng tạo ra hoặc được
chuyển giao QTG thông qua hợp đồng chuyển giao QTG hay thừa kế, được pháp luật
bảo hộ không phụ thuộc vào hình thức thể hiện, trình độ sáng tạo, không phân biệt nội
dung và giá trị,bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản gắn liền với các quyền nhân
thân đó”
1.2.2. Điều kiện bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc


Các tác phẩm kiến trúc được bảo hộ QTG được thực hiện theo quy định chung về
điều kiện bảo hộ QTG quy định tại Điều 14 LSHTT và các điều luật khác. Theo đó, thì
tác phẩm kiến trúc được bảo hộ QTG nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, tính sáng tạo của tác phẩm kiến trúc
Theo Công ước Berne và LSHTT thì điều kiện tiên quyết để bảo hộ QTG đối với
một tác phẩm kiến trúc là tác phẩm phải có tính sáng tạo. Tác phẩm kiến trúc phải thể
hiện là sự sáng tạo của tác giả, hay nói cách khác tác giả phải tự mình sáng tạo nên tác
phẩm kiến trúc mà không sao chép từ những tác phẩm khác. Việc xác định tính sáng tạo
của tác phẩm kiến trúc dựa trên căn cứ thể hiện quá trình lao động sáng tạo của tác giả,
những điểm riêng thể hiện “chất riêng” do tác giả sáng tạo ra. Tiêu chí để xác định tác
phẩm gốc dựa trên cơ sở: (i) Nếu tác phẩm chứa đựng sự sao chép từ một hoặc một số tác
phẩm có trước mà dấu ấn cá nhân hoặc tính cách riêng của tác giả không còn thể hiện
trong tác phẩm nữa thì tác phẩm không coi là tác phẩm gốc; (ii) nếu toàn bộ hoặc một
phần quan trọng của một tác phẩm có trước và đang được bảo hộ bị chiếm đoạt để sử

dụng trong một tác phẩm khác, tức là bị sao chép sang một tác phẩm khác thì trong
trường hợp này có sự xâm phạm QTG đối với tác phẩm trước đó. Đối với tác phẩm kiến
trúc thì sự lao động sáng tạo trong lĩnh vực kiến trúc thể hiện ở việc dùng các chi tiết, vật
liệu mới cho công trình với thiết kế hợp lý, bảo đảm cả về thẩm mỹ và công năng sử
dụng của công trình. Tác giả thông qua quá trình hoạt động của trí não, kinh nghiệm của
bản thân và các yếu tố hỗ trợ khác tạo ra thành quả chính là tác phẩm kiến trúc.
Thứ hai, tác phẩm được định hình dưới hình thức nhất định
Pháp luật về QTG không bảo hộ ý tưởng của tác phẩm mà chỉ bảo hộ hình thức
thể hiện của tác phẩm.
Theo Điều 6 LSHTT thì QTG phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và thể
hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình
thức phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa. Đối với
tác phẩm kiến trúc thì còn được thể hiện dưới dạng vật thể như các mô hình, sa bàn mô tả
về hình dáng của công trình.
1.2.3. Chủ thể và thời hạn bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc
Thời hạn bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc là khoảng thời gian do pháp luật quy
định mà trong khoảng thời gian này quyền của tác giả và của chủ sở hữu QTG được Nhà
nước thừa nhận và bảo vệ. Theo quy định tại Điều 27 LSĐBSLSHTT, thời hạn bảo hộ
QTG được xác định như sau:
Thời hạn bảo hộ quyền nhân thân
Các QTG được bảo hộ vô thời hạn là các quyền nhân thân gắn với tác giả và không
thể chuyển giao được cho chủ thể khác. Đó là các quyền: (i) đặt tên cho tác phẩm; (ii)


đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; (iii) được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác
phẩm được công bố, sử dụng; (iv) bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người
khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Thời hạn bảo hộ quyền tài sản
Các QTG được bảo hộ có thời hạn bao gồm quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép

người khác công bố tác phẩm (đây là quyền nhân thân có thể chuyển giao được) và các
quyền tài sản. Thời hạn bảo hộ QTG đối với tác phẩm nói chung và tác phẩm kiến trúc
nói riêng là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường hợp
tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ 50 sau năm đồng tác
giả cuối cùng chết. Đối với tác phẩm kiến trúc khuyết danh (tác phẩm mà tác giả không
đứng tên trên tác phẩm đó hoặc chỉ đề ký hiệu mà ký hiệu này không đủ để xác định
chính xác về tác giả của tác phẩm) thì thời hạn bảo hộ là 75 năm kể từ ngày tác phẩm đó
được công bố lần đầu tiên (khoản 8 Điều 1 LSĐBSLSHTT). Trong thời hạn bảo hộ này,
người được hưởng quyền đối với tác phẩm khuyết danh là Nhà nước, trong trường hợp
tác phẩm khuyết danh do các tổ chức, cá nhân đang quản lý thì tổ chức, cá nhân đó được
hưởng quyền đối với tác phẩm. Khi các thông tin về tác giả xuất hiện trong thời hạn 75
năm kể từ khi tác phẩm kiến trúc khuyết danh được công bố lần đầu tiên đủ để xác định
danh tính tác giả, chủ sở hữu tác phẩm khuyết danh thì các quyền đối với tác phẩm đó
thuộc về họ và sẽ được bảo hộ kể từ ngày danh tính của họ được xác định cho đến 75
năm sau khi họ chết.Việc quy định thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm như vậy một mặt
nhằm đảm bảo quyền, lợi ích cho tác giả trong việc khai thác giá trị kinh tế của tác phẩm
để mang lại thu nhập cho mình cũng như được lại tác phẩm như một di sản thừa kế và
người thừa kế sẽ tiếp tục khai thác giá trị kinh tế của tác phẩm này cho đến khi nó hết
thời hạn bảo hộ. Mặt khác, bằng việc quy định sau khi hết thời hạn bảo hộ thì tác phẩm
hoàn toàn thuộc về công chúng, quy định này cũng đã cân bằng được quyền, lợi ích của
tác giả với lợi ích của xã hội. Việc công chúng được sở hữu tác phẩm hết thời hạn bảo hộ
góp phần thúc đẩy các tác giả (các kiến trúc sư) tiếp tục sáng tạo ra những tác phẩm mới
độc đáo hơn, có sức sống hơn, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành khoa
học kiến trúc nói riêng và thúc đẩy sự phát triển của xã hội nói chung.
1.2.4. Nội dung QTG đối với tác phẩm kiến trúc
Về nguyên tắc, QTG đối với tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật nói chung
phát sinh ngay khi tác phẩm được hình thành. Tác giả với tư duy và khả năng sáng tạo,
bằng sức lao động trí óc của mình sáng tạo ra một tác phẩm do đó đương nhiên được
hưởng những quyền lợi nhất định. QTG của tác phẩm phát sinh ngay sau khi tác phẩm
được hình thành, không phụ thuộc vào việc tác phẩm đã đăng ký hay chưa đăng ký, tác



phẩm đã bảo hộ hay chưa được bảo hộ. Theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ
Việt Nam, QTG, trong đó có QTG đối với tác phẩm kiến trúc được tạo thành bởi các
quyền nhân thân và các quyền tài sản. Nội dung QTG được quy định tại Điều 19 đến 20
LSHTT, Điều 22 và Điều 23 của NĐ số 100/2006/NĐ-CP, khoản 5 Điều 1 NĐ số
85/2011/NĐ-CP. Theo đó, quyền nhân thân bao gồm : quyền được đặt tên cho tác phẩm
kiến trúc; quyền được đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm kiến trúc, được nêu tên
thật hoặc bút danh khi tác phẩm công bố hoặc sử dụng; quyền công bố tác phẩm kiến trúc
hoặc cho người khác công bố tác phẩm; quyền được bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm,
không cho người khác cắt xén, sửa chữa hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức
nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Quyền tài sản bao gồm : quyền
được làm tác phẩm phái sinh; quyền sao chép tác phẩm; quyền phân phối, nhập khẩu bản
gốc hoặc bản sao tác phẩm; quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện
hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác
Tùy theo vị trí và vai trò của mình đối với tác phẩm kiến trúc, mỗi một chủ thể sẽ
được hưởng các quyền nhất định. Không phải chủ thể nào của QTG cũng được hưởng
đầy đủ tất cả những quyền nêu trên. Chỉ có tác giả đồng thời là chủ sở hữu của QTG mới
có đầy đủ quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm kiến trúc
1.2.5. Chuyển giao quyền giao QTG đối với tác phẩm kiến trúc
Đối tượng của QTG là kết quả sáng tạo do con người tạo ra, có đặc trưng là khả
năng tiếp cận và truyền bá rộng rãi trong cộng đồng. Ví dụ: Một tác phẩm có thể được
phổ biến toàn cầu để công chúng thuộc các dân tộc, tôn giáo, quốc gia khác nhau tiếp
cận. Bên cạnh một số lượng rất nhỏ các hành vi sử dụng với mục đích phi thương mại
(như để giảng dạy, nghiên cứu, sử dụng cá nhân), hầu hết các hành vi sử dụng của các
chủ thể khác đều với mục đích kinh doanh.
Xét về góc độ kinh tế, QTG được coi như một loại tài sản, là đối tượng của các giao
dịch chuyển giao quyền sở hữu hay chuyển giao quyền sử dụng. Trong 02 nhóm quyền là
quyền nhân thân và quyền tài sản thì chỉ có quyền nhân thân là mang yếu tố tinh thần,
luôn gắn liền với tác giả (ngoại trừ quyền công bố) nên các quyền này được bảo hộ vĩnh

viễn và không thể chuyển giao được. Vì vậy, đối tượng của các giao dịch chuyển giao
QTG, quyền liên quan chủ yếu chỉ bao gồm các quyền tài sản. QTG đối với tác phẩm
kiến trúc là một loại QTG. Theo quy định của LSHTT, có hai hình thức chuyển giao QTG
đối với tác phẩm kiến trúc như sau :
Chuyển nhượng QTG đối với tác phẩm kiến trúc
Chuyển nhượng QTG là việc chủ sở hữu QTG chuyển giao quyền sở hữu đối với các
quyền tài sản thuộc QTG, quyền liên quan (riêng QTG còn bao gồm cả chuyển giao
quyền công bố tác phẩm) cho tổ chức, cá nhân khác theo hợp đồng hoặc theo quy định


của pháp luật. QTG với tư cách là một loại tài sản, Điều 45 và Điều 46 của LSHTT có thể
được chuyển nhượng cho người khác qua các hình thức: Để lại thừa kế; tặng cho; trao đổi
và mua bán. Theo đó, hình thức chuyển nhượng QTG phổ biến nhất là hợp đồng chuyển
nhượng QTG (Điều 46). Bản chất của hợp đồng này giống như hợp đồng mua bán tài sản.
Thông qua hợp đồng chuyển nhượng, chủ sở hữu QTG chuyển giao quyền sở hữu của
mình cho tổ chức, cá nhân khác.
Chuyển quyền sử dụng QTG đối với tác phẩm kiến trúc
Chuyển quyền sử dụng QTG đối với tác phẩm kiến trúc là việc chủ sở hữu QTG
đối với tác phẩm kiến trúc cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng có thời hạn một, một
số hoặc toàn bộ các quyền tài sản bao gồm cả quyền công bố tác phẩm của chủ sở hữu
QTG. So với hình thức chuyển nhượng QTG thì chuyển quyền sử dụng QTG là hình thức
giao dịch phổ biến hơn. Nếu như bằng việc chuyển nhượng QTG, chủ sở hữu sẽ chấm
dứt hoàn toàn QTG thì với việc chuyển quyền sử dụng QTG, chủ sở hữu có thể cho phép
nhiều chủ thể khác nhau cùng sử dụng, khai thác mà không bị mất quyền. Việc chuyển
quyền sử dụng QTG đối với tác phẩm kiến trúc được quy định tại Điều 47 và Điều 48 của
LSHTT.
1.2.6. Xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
Các dạng hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
Trong thực tế, hành vi vi phạm QTG đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ
thuật rất phức tạp và xảy ra thường xuyên với nhiều hình thức và mức độ khác nhau.

Pháp luật Việt Nam chưa có những quy định cụ thể về hành vi xâm phạm QTG đối với
tác phẩm kiến trúc mà chỉ có những quy định về hành vi xâm phạm QTG nói riêng do
vậy, những hành vi xâm phạm QTG được ghi nhận tại Điều 28 LSHTT cũng chính là cơ
sở để xác định một hành vi có phải là hành vi xâm phạm QTG đối với tác phẩm kiến trúc
hay không.
Trước khi LSHTT được ban hành các văn bản pháp luật không quy định cụ thể các
căn cứ xác định hành vi xâm phạm QTG đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa
học nên trong nhiều trường hợp việc xác định hành vi xâm phạm gặp khó khăn, vướng
mắc do thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng. Từ khi LSHTT và các văn bản hướng dẫn được ban
hành thì các căn cứ xác định hành vi xâm phạm và yếu tố xâm phạm QTG được quy định
cụ thể trong LSHTT và NĐ 105/2006/NĐ-CP đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý
các hành vi xâm phạm QTG. Theo quy định tại Điều 5, Điều 6 và Điều và Điều 7 của NĐ
105/2006/NĐ-CP thì bị coi là hành vi xâm phạm
QTG đối với tác phẩm kiến trúc khi có đủ các căn cứ sau đây:


Thứ nhất, đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể là tác phẩm kiến trúc được quy định tại
Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét
Thứ ba, người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu trí
tuệ và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo
quy định của LSHTT
Thứ tư, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.
Các biện pháp bảo vệ QTG đối với tác phẩm kiến trúc
Biện pháp bảo vệ QTG đối với tác phẩm kiến trúc là những cách thức được chính tác
giả, chủ sở hữu QTG của tác phẩm kiến trúc hoặc được Nhà nước sử dụng để bảo vệ
QTG đối với tác phẩm kiến trúckhi quyền này bị xâm phạm. Pháp luật nước ta quy định
việc bảo vệ QTG đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật nói chung và QTG
đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng bằng các biện pháp như biện pháp dân sự, biện pháp
hành chính, biện pháp hình sự và biện pháp kiểm soát biên giới. Việc quy định nhiều

biện pháp bảo vệ khác nhau xuất phát từ chính sự phong phú, đa dạng của các hành vi
xâm phạm QTG. Hơn nữa, quy định nhiều biện pháp bảo vệ QTG còn nhằm xử lý hiệu
quả hành vi xâm phạm bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu
tác phẩm.Các biện pháp bảo vệ QTG đối với tác phẩm kiến trúc được quy định trong
LSHTT và các văn bản pháp luật khác như BLDS, Bộ luật Hình sự, Luật Thương mại
v.v... Khi có hành vi xâm phạm QTG đối với tác phẩm kiến trúc, việc xác định biện pháp
nào sẽ được áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu dựa vào sự lựa chọn của chủ thể của QTG
bị xâm phạm và tính chất, mức độ xâm phạm.
1.3. Các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả
1.3.1. Nguyên tắc bảo hộ tự động
Đây được coi là nguyên tắc đặc thù trong lĩnh vực quyền tác giả, theo đó quyền
tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm định hình dưới dạng vật chất nhất định mà không lệ
thuộc vào bất kì thủ tục nào như đăng ký cấp giấy chứng nhận, nộp lưu chiểu hoặc các
thủ tục tương tự khác. Nguyên tắc này được cụ thể hoá tại khoản 2 Điều 5 Công ước quy
định: “Sự thụ hưởng và thực hiện các quyền này không lệ thuộc vào một thể thức, thủ tục
nào; sự thụ hưởng và thực hiện này hoàn toàn độc lập không phụ thuộc vào việc tác phẩm
có được bảo hộ hay không ở Quốc gia gốc của tác phẩm”. Theo đó ta có thể hiểu quyền
tác giả được định hình dưới dạng vật chất nhất định. “Hình thức vật chất” ở đây được
hiểu là bất kỳ thể hiện nào mà qua đó, công chúng thấy được sự tồn tại của tác phẩm. Bản
chất của việc bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ pháp lý đối với hình thức chứa đựng nội
dung tác phẩm thông qua các phương thức thể hiện khác nhau (ngôn ngữ, hình khối, màu
sắc,…). Do đó khi con người sáng tạo và thể hiện ý tưởng đó dưới một hình thức khách


quan nhất định thì cũng đồng nghĩa phát sinh quyền tác giả mà không cần một điều kiện
hay thủ tục nào. Đây cũng là điểm khác biệt giữa bảo hộ quyền tác giả và bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hướng tới bảo hộ nội dung sáng
tạo, chống lại việc sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp mà không được chủ sở hữu cho
phép, với mục đích bù đắp chi phí cho chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp, đảm
bảo cho họ có thể độc quyền sử dụng trong một thời gian nên phát sinh quyền sở hữu

công nghiệp, chủ sở hữu phải làm các thủ tục hành chính nhất định. Nhưng với quyền
bảo hộ tác giả, xuất phát từ tính duy nhất hay tính nguyên gốc của tác phẩm văn học nghệ
thuật chỉ có thể được cảm thụ thông qua sự thể hiện tác phẩm mà không thể đem ra áp
dụng trong các tác phẩm văn học nghệ thuật sau đó. Chính vì vậy mà tác phẩm văn học
nghệ thuật được bảo hộ ít nhất là suốt cuộc đời tác giả. Nguyên tắc bày đã dành cho các
tác giả sáng tạo ra các tác phẩm văn học nghệ thuật sự ưu đãi lớn để họ có thể tập trung
sáng tạo mà không phải chú ý đến các thủ tục hành chính.
Sau đây là một ví dụ để làm rõ hơn về nguyên tắc: Ngày 16/1/2012, nhà văn H đã
hoàn thành tập truyện ngắn “Mùa hoa cỏ”. Sau đó ông để tập bản thảo vào trong ngăn
kéo bàn làm việc của mình. Theo quy định của công ước Berne, thời điểm mà truyện
ngắn được hoàn thành, quyền tác giả của nhà văn H với truyện ngắn đó đã phát sinh.
Cũng từ thời điểm này, nếu có ai đó sao chép, sử dụng truyện ngắn trên mà không có sự
đồng ý của nhà văn H thì hành vi đó sẽ bị coi là bất hợp pháp. Nguyên tắc này có ý nghĩa
rất to lớn đối với các tác giả sáng tạo ra các tác phẩm văn học nghệ thuật, dành sự tôn
trọng rất lớn cho các tác giả. Để các tác giả tập trung sáng tạo tác phẩm mà không phải để
ý đến các thủ tục hành chính khác mới thiết lập được tư cách sáng tạo của mình.
1.3.2. Nguyên tắc bảo đảm tính không trùng lặp của tác phẩm
Tác phẩm được pháp luật bảo hộ phải có tính sang tạo, không phải là cách sắp xếp diễn
đạt đơn thuần, bắt trước cách diễn đạt thể hiện ngôn từ, màu sắc khuôn mẫu. Tác phẩm
được bảo hộ phải là bản gốc (bản đầu tiên của tác phẩm do tác giả sang tạo ra). Điều đó
không có nghĩa là chủ đề, nội dung hay ý tưởng của tác phẩm phải mới mà đặt ra cho
người sáng tác hình thức thể hiện mới của ý tưởng đó và do tác giả sang tạo ra.
Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu cần phải bảo đảm tính toàn vẹn của tác phẩm. Trong
các quyền nhân thân của tác giả có quyền bảo vệ tính toàn vẹn của tác phẩm. Xâm phạm
đến sự toàn vẹn của tác phẩm là xâm phạm đến quyền nhân than của tác giả, bởi vì trong
quá trình sáng tạo tác phẩm, tác giả đã có tư tưởng độc lập, những tư duy riêng của mình
trong tác phẩm, cách sắp xếp, trình bày diễn đạt ý tưởng của tác giả theo ý của mình.
Bằng tài năng sáng tạo nên tác phẩm hay công trình khoa học của mình, các tác giả của
những sản phẩm trí tuệ đó đều có các quyền về tinh thần và về vật chất như nhau. Các tác
giả hoàn toàn có quyền định đoạt các quyền của mình có được từ tác phẩm. Pháp luật về



quyền tác giả luôn bảo đảm cho các chủ thể sử dụng, khai thác tác phẩm một cách hiệu
quả nhất. Khi có hành vi xâm phạm đến quyền tác giả thì cơ quan nhà nước có thẩm
quyền sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế để khôi phục lại tình trạng ban đầu như
trước khi bị xâm phạm về quyền tác giả.
1.3.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân
Quyền tự do sáng tạo của cá nhân được xây dựng trên nguyên tắc: “Công dân có quyền
nghiên cứu khoa học và tham gia các hoạt động văn hoá khấc. Nhà nước bảo hộ quyền
tác giả, quyền sở hữu công nghiệp” (Điều 60 Hiến pháp năm 1992). Những quy định tại
Điều 30 và Điều 32 Hiến pháp năm 1992 cũng thể hiện sự bảo đảm bằng pháp luật với
những cá nhân sáng tạo các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Các quy định này
bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân trên cơ sở loại trừ các tác phẩm có nội dung
phản động, đồi trụy; mê tín, hủ tục.
Nhà nước đã tạo thế chủ động và ghi nhận quyền tự do sáng tạo của cá nhân trong đạo
luật cơ bản là Hiến pháp – một đạo luật được coi là cơ sở pháp lí của cả hệ thống pháp
luật. Luật dân sự và Luật sở hữu trí tuệ cũng phải dựa vào quy định của Hiến pháp và cụ
thể hoá những quy định của Hiến pháp, đồng thời tuân thủ những nguyên tắc chung của
luật dân sự, đặc biệt là nguyên tắc “tự do, tự nguyện cam kết thoả thuận”. Với các quy
định trên đây thì quyền tự do sáng tạo của cá nhân luôn được tôn trọng và bảo đảm thực
hiện, khuyến khích tự do sáng tạo, cấm cản trở, hạn chế quyền tự do sáng tạo của cá
nhân. Pháp luật bảo đảm cho người sáng tạo có quyền tự do trong việc chọn đề tài, hình
thức thể hiện, đặt tên tác phẩm, đứng tên tác giả, giao kết hợp đồng chuyển giao tác
phẩm…
1.3.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng, tự định đoạt của các chủ thể.
Nguyên tắc này là tư tưởng chỉ đạo và định hướng cho tất cả các ngành luật khi ghi nhận
và bảo đảm quyền lợi chính đáng của cá nhân. Pháp luật quy định về quyền tác giả nói
chung và quyền của người sang tác văn học, nghệ thuật nói riêng. Mọi các nhân đều có
quyền hoạt động, sang tạo để tạo nên tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học kể cả cá
nhân đó là người nước ngoài. Tác giả hoàn toàn có quyền định đoạt các quyền của mình

có được từ tác phẩm. pháp luật về quyền tác giả luôn bảo đảm cho các chủ thể sử dụng,
khai thác tác phẩm một cách hiệu quả nhất. khi có hành vi xâm phạm đến quyền tác giả
thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế để khôi phục
lại tình trạng ban đầu như trước khi bị xâm phạm về quyền tác giả.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
BẢO HỘ TÁC PHẨM KIẾN TRÚC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG
TY CỔ PHẦN TƯ VẤN THIẾT KẾ XÂY DỰNG NAM CƯỜNG


2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến các quy định của pháp luật
về hoạt động bảo hộ tác phẩm kiến trúc
2.1.1. Tổng quan tình hình các quy định của pháp luật về hoạt động bảo hộ quyền
tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
Từ sau Đại hội đảng khóa IX năm 1986, nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới,
Đảng và Nhà nước quan tâm đến sự phát triển khoa học, công nghệ, lấy khoa học công
nghệ là động lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Nhà nước
tạo mọi điều kiện về vật chất và tinh thần để cá nhân phát huy tối đa khả năng nghiên cứu
khoa học, công nghệ để sáng tạo những công trình khoa học có giá trị khoa học và kinh tế
cao.
Để góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, LSHTT
với 222 điều đã tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi và phù hợp cho việc bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Ngày 19/6/2009 tại kì họp thứ 5
Quốc hội khóa XII đã thông qua LSĐBSLSHTT với 33 điều sửa đổi, bổ sung nhằm khắc
phục một số hạn chế nhất định của LSHTT. Ngoài ra, để đảm bảo hội nhập quốc tế sâu
rộng nhằm phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ toàn cầu hóa, trong giai đoạn này Việt
Nam cũng đã tham gia Hiệp định Trips về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ ngày 11 tháng 1 năm 2007.
Nhìn chung, tính đến thời điểm hiện tại các quy định của pháp luật Việt Nam đã
quy định khá đầy đủ các khía cạnh của QTG nói chung và QTG đối với tác phẩm kiến
trúc nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động bảo hộ QTG không chỉ là

bảo vệ các quyền cơ bản của con người mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động
kinh tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, Đảng và Chính phủ cũng chủ trì
nhiều cuộc hội thảo, tổ chức hội đàm về QTG và các quyền liên quan trong môi trường
kỹ thuật số, với các doanh nghiệp đối tác nước ngoài, từ đó làm cơ sở cho việc sửa đổi,
bổ sung hoàn thiện pháp luật sau này.
Tuy nhiên, song song với những dấu hiệu tích cực về bảo hộ QTG và quyền liên
quan của Đảng và nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế, những quy
định của pháp luật Việt Nam vẫn còn nhiều những vấn đề bất cập, thiếu sót chưa giải
quyết được, đặc biệt khi so sánh với các chuẩn mực quốc tế. Theo Hội KTS Việt nam,
QTG đối với tác phẩm kiến trúc cần được bổ sung và làm rõ, với những quy định đối với
tác phẩm kiến trúc là công trình xây dựng hay việc sao chép các tác phẩm kiến trúc và hệ
quả của nó. Bởi trên thực tế, trên thế giới đã có tiền lệ nhiều công trình kiến trúc sao chép
bị đưa ra tòa án và yêu cầu trả tiền bản quyền hoặc bị phá dỡ. Trong khi đó, ở Viêt Nam
chưa từng có một vụ tranh chấp về bản quyền kiền trúc. Không có tranh chấp về bản


quyền kiến trúc không phải vì ở nước ta không có hiện tượng sao chép, nhân bản các
công trình kiến trúc, mà là do thiếu cơ sớ pháp lý để thực hiện. Ngoài việc quy định
chung những quy định về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc gắn liền với bảo hộ
QTG và quyền liên quan đối với tác phẩm văn học, khoa học nghệ thuật nói chung,
những quy định chi tiết về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc chỉ được quy định tại
2 điều luật tại NĐ 100/2006/NĐ-CP. Với lịch sử phát triển còn non trẻ, QTG đối với tác
phẩm kiến trúc cần được quan tâm nhiều hơn nữa để Nhà nước có những điều chỉnh, bổ
sung phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế nói chung và với các cá nhân, doanh
nghiệp nói riêng.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến các quy định của pháp luật về hoạt động bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
2.1.2.1. Nhân tố kinh tế - chính trị
Sự vận hành, phát triển của nền kinh tế - chính trị mỗi quốc gia có tác động trực
tiếp đến pháp luật của quốc gia đó. Bởi pháp luật ra đời trước tiên là để phục vụ cho giai

cấp thống trị, phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Thông qua công cụ là pháp luật,
Đảng và Nhà nước điều chỉnh các quan hệ diễn ra trong môi trường kinh tế vận hành theo
đúng ý chí của mình và ngược lại, sự phát triển của nền kinh tế sẽ thúc đẩy các quy định
của pháp luật phải được điều chỉnh để phù hợp với nó. Thực tế, dù có khác biệt về thời kỳ
lịch sử hay thể chế chính trị - pháp luật của mỗi quốc gia thì vấn đề xây dựng cơ sở hạ
tầng vật chất đều được chú trọng như nhau. Do đó, việc quy định pháp luật về tác phẩm
kiến trúc không chỉ phụ thuộc vào tình hình kinh tế - chính trị của nội bộ quốc gia mà cần
xem xét trong bối cảnh các quy định của pháp luật quốc tế, vừa là cơ sở để tham khảo,
hoàn thiện các quy định của pháp luật vừa là để phù hợp với các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên. Sự thay đổi về thể chế kinh tế - chính trị, ví dụ như việc gia nhập
của Việt Nam vào một hiệp ước quốc tế đa phương, song phương đều có thể ảnh hưởng
đến các cá nhân, doanh nghiệp trong nước do đó việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp
luật là tất yếu.
2.1.2.2. Nhân tố văn hóa – xã hội
Các nhân tố văn hóa xã hội có thể bao gồm phong tục, tập quán, thói quen của
con người tác động đến hành vi của họ, từ đó tác động đến ý thức pháp luật của mỗi
người, đặc biệt với một đất nước nhiều dân tộc anh em với nền văn hóa phong phú,
phong tục tập quán cũng đa dạng như nước ta, chính vì thế mà nó cũng quyết định một
phần tới quan niệm sống, thói quen tập tục trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Thực tế đã
cho thấy, nền kinh tế càng phát triển, các doanh nghiệp kinh doanh hướng đến mục tiêu
lợi nhuận cao. Chính các mục tiêu này đôi khi khiến cho các doanh nghiệp chệch hướng
khỏi quy định của pháp luật. Do đó, các quy định của pháp luật vừa phải đảm bảo phù


hợp với ý chí nhà nước (là điều tất yếu) đồng thời cũng phải đảm bảo phù hợp với ý chí
của doanh nghiệp, của cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật nói chung, và về QTG
đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng.
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm kiến trúc
2.2.1. Nội dung pháp luật về chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chủ thể QTG đối với tác phẩm kiến trúc
bao gồm tác giả và chủ sở hữu QTG. Việc quy định tác giả tác phẩm là chủ thể QTG đối
với tác phẩm đó là hoàn toàn tất yếu bởi tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm do
đó đương nhiên có những quyền theo pháp luật quy định đối với tác phẩm đó, điều này
cũng phù hợp với tư tưởng của công ước Berne và trên thế giới. Tác giả của tác phẩm có
thể là cá nhân hoặc đồng tác giả. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam cũng quy định song song
một chủ thể nữa cũng được hưởng QTG đó là những pháp nhân phi tự nhiên như các tổ
chức, hiệp hội, công ty – đây là những chủ thể không có khả năng trực tiếp sáng tạo ra tác
phẩm mà được hưởng QTG thông qua hợp đồng hoặc thừa kế. Điều này dường như đi
ngược lại với ý nghĩa, mục đích của bảo hộ QTG đó là bảo hộ những quyền của cá nhân
đã bỏ ra công sức và lao động trí tuệ để tạo ra tác phẩm, thì quyền nhân thân của các tác
giả là những pháp nhân phi tự nhiên cũng vô cùng bất hợp lý. Hệ quả là sẽ dẫn đến những
mâu thuẫn khó thể xử lý khi áp dụng luật cho những trường hợp tác giả là công ty bị phá
sản, bị sáp nhập, … trong khi pháp luật Việt Nam còn chưa có những quy định pháp lý cụ
thể để giải quyết vấn đề như vậy.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xem các pháp nhân phi tự nhiên là một chủ thể của
QTG cũng là một yêu cầu tất yếu của quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, nhưng
đồng thời pháp luật Việt Nam cần phải có những quy định chặt chẽ và cụ thể hơn về vấn
đề này để đảm bảo những nguyên tắc của luật QTG không đi chệch hướng. Tại Hoa Kỳ,
luật QTG chỉ công nhận tác giả không phải là cá nhân như một ngoại lệ.
Theo pháp luật Việt Nam, chủ thể QTG không phải là cá nhân bao gồm :
Thứ nhất, tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm kiến trúc cho tác giả.
Trường hợp này, tác giả được giao nhiệm vụ sáng tạo và tác giả sử dụng nguồn tài chính,
cơ sở vật chất - kỹ thuật của tổ chức, cá nhân quản lý mình để sáng tạo tác phẩm. Do đó,
chủ sở hữu QTG là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ sáng tạo cho tác giả. Ví dụ: Tổng
công ty X giao nhiệm vụ cho anh A là kiến trúc sư của Tổng công ty thiết kế một tòa nhà
chung cư thì chủ sở hữu QTG đối với bản vẽ thiết kế tòa nhà chung cư đó là Tổng công
ty X.
Thứ hai, tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả. Trường hợp này, tác giả
sáng tạo ra tác phẩm trên cơ sở hợp đồng thuê sáng tạo sản phẩm được giao kết giữa tác



×