Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại và thực tiễn áp dụng tại công ty Cổ phần Thương mại Đầu tư Công nghệ Châu Âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.88 KB, 84 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

TÓM LƯỢC
Trong đời sống xã hội của chúng ta, nhu cầu giao lưu, trao đổi hàng hóa,... gọi
chung là giao dịch dân sự là một nhu cầu tất yếu khách quan. Để điều chỉnh và đảm
bảo tính hiệu lực của các giao dịch đó, pháp luật về hợp đồng đã ra đời và ngày càng
chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình. Hợp đồng chính là sự thỏa thuận giữa các
bên về xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Pháp luật về
hợp đồng hiện nay đã cơ bản hoàn thiện với những quy định ràng buộc chặt chẽ.
Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình thực hiện hợp đồng đặc biệt là hợp đồng
đại lý thương mại mới được quy định mở rộng từ hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
trong Luật thương mại 2005 luôn nảy sinh những vấn đề rắc rối do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Pháp luật chưa điều chỉnh triệt để làm cho việc giao kết, thực hiện hợp
đồng hoặc thanh lý hợp đồng trở nên khó khăn, trong nhiều trường hợp dẫn đến tranh
chấp phải đưa đến cơ quan pháp luật hoặc cơ quan trọng tài để giải quyết.
Qua quá trình thực tập tại công ty Cổ phần Thương mại Đầu tư Công nghệ
Châu Âu. Em tìm hiểu được lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty là hoạt động
trong lĩnh vực xây dựng chuyên dụng. Công ty là đại lý cho hãng Fike của Mỹ ở Việt
Nam. Do đó, em muốn đi sâu vào nghiên cứu vấn đề về hợp đồng đại lý tại công ty để
hiểu rõ hơn thực tiễn áp dụng hợp đồng đại lý tại công ty cũng như trải nghiệm những
kiến thức đã học được trong chuyên ngành luật thương mại.

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

Lớp: K49P3


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học Thương mại, em
đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và giảng dạy nhiệt tình của các thầy cô giáo trong
trường. Qua quá trình học tập em đã tích lũy được một phần kiến thức để vận dụng vào
công việc của mình trong tương lai. Với đề tài khóa luận “ Pháp luật về hợp đồng đại
lý thương mại và thực tiễn áp dụng tại công ty Cổ phần Thương mại Đầu tư Công
nghệ Châu Âu ”, em đã có cơ hội vận dụng những kiến thức của mình đã học tại
trường vào thực tế đểcủng cố thêm vốn kiến thức và hiểu biết của mình.
Sau thời gian thực tập tại Công ty đến nay em đã hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp của mình. Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong trường đại học
Thương mại, đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến ThS. Trần Ngọc Diệp người
đã hết lòng hướng dẫn em hoàn thành khóa luận của mình.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giám đốc công ty Đào Việt Hồng cùng
toàn thể nhân viên trong công ty Cổ phần Thương mại Đầu tư Công nghệ châu Âu đã
tạo điều kiện giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do còn hạn chế về lý luận và kinh nghiệm
thực tế nên khóa luận của em còn có nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý
của các thầy cô, các chú và anh chị trong công ty để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thu Hương

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

Lớp: K49P3


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG...............................................8
ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI..........................................................................................................8
1.1.1 Khái niệm Đại lý thương mại......................................................................................8
1.2.3. Các hình thức đại lý thương mại.............................................................................26
1.3. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về hợp đồng đại lý trong thương mại............27
1.3.2: Nội dung pháp luật về hợp đồng đại lý....................................................................29
1.3.2.1. Chủ thể giao kết hợp đồng đại lý thương mại......................................................29
1.3.2.2. Nguyên tắc giao kết hợp đồng đại lý thương mại.................................................31
1.3.2.3. Nội dung giao kết hợp đồng đại lý thương mại....................................................32
1.3.2.4. Hình thức giao kết hợp đồng đại lý thương mại...................................................34
1.3.2.5. Trình tự thủ tục giao kết hợp đồng đại lý thương mại..........................................35
1.3.2.6. Thực hiện hợp đồng đại lý thương mại................................................................36
1.3.2.6.1.. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng đại lý thương mại...........................................36
1.3.2.6.2. Thực hiện hợp đồng về nội dung.......................................................................36
1.3.2.6.3. Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng đại lý thương mại.........................37
1.3.2.6.4. Sửa đổi, chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại................................................38
1.3.2.7. Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng..........................................................40
1.3.2.7.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng..........................................................................40
1.3.2.7.2. Phạt vi phạm hợp đồng.....................................................................................40
1.3.2.7.4. Bồi thường thiệt hại..........................................................................................41
1.3.2.7.5. Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng..........................................................41
1.3.2.7.6. Giải quyết tranh chấp hợp đồng đại lý thương mại...........................................42
1.3.2.7.7. Giải quyết bằng thương lượng hòa giải............................................................42
1.3.2.7.8. Giải quyết bằng trọng tài hoặc Tòa án...............................................................42
2.3. Khái quát về hoạt động đại lý thương mại tại công ty cổ phần Thương mại Đầu tư

Công nghệ Châu Âu...........................................................................................................53
2.4. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại tại công
ty Cổ phần Thương mại Công nghệ Châu Âu.....................................................................53
2.4.1. Chủ thể giao kết......................................................................................................53
2.4.2. Nguyên tắc, căn cứ giao kết hợp đồng....................................................................54
2.4.3. Nội dung giao kết hợp đồng....................................................................................55

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

Lớp: K49P3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

2.5. Thực trạng thực hiện các điều khoản về hợp đồng đại lý thương mại tại Công ty.......57
2.5.1. Thực hiện các điều khoản về số lượng, chủng loại...................................................57
2.5.2. Thực hiện các điều khoản về trách nhiệm và quyền hạn của mỗi bên.......................57
2.5.3. Thực hiện các điều khoản về thanh toán tiền hàng..................................................57
2.5.4. Thực hiện các điều khoản về thời hạn và phụ lục hợp đồng.....................................58
2.5.5. Thực hiện các điều khoản khác trong hợp đồng......................................................58
2.6. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu..................................................................58
2.6.1. Những kết quả đạt được.........................................................................................59
2.6.2. Khó khăn.................................................................................................................59
KẾT LUẬN............................................................................................................................1

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

Lớp: K49P3



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thương mại hàng hóa và dịch vụ càng phát triển, vai trò của trung gian thương
mại càng được coi trọng vì nó hỗ trợ đắc lực cho thương nhân trong khâu phân phối,
tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ được nhanh chóng, ít rủi ro, chi phí thấp và dễ dàng gia
nhập hoặc từ bỏ thị trường. Là một loại hình động trung gian thương mại nhưng khái
niệm đại lý thương mại ở Việt Nam có sự khác biệt và đặc thù so với các hình thức
trung gian thương mại trong pháp luật các nước. Ở Việt Nam, bắt đầu từ thời kỳ kinh
tế kế hoạch hóa tập trung mô hình đại lý thương mại ngày càng được được sử dụng
phổ biến. Trong những năm gần đây, hoạt động đại lý thương mại ngày càng phát triển
và số lượng đại lý hoạt động tại Việt Nam tăng nhanh. Đại lý thương mại có mặt trên
toàn quốc từ nông thôn đến thành thị, từ trung du đến miền núi hoặc những khu vực xa
xôi hẻo lánh. Đại lý thương mại đa dạng về loại hình và phát triển nhanh chóng trong
hầu hết mọi lĩnh vực và ngành nghề, cả về doanh số bán hàng và phạm vi cung cấp
dịch vụ.
Để thừa nhận về mặt pháp lý sự tồn tại của loại hình hoạt động thương mại này,
để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý cũng như
bảo đảm cho việc giao kết, thực hiện hợp đồng đại lý thương mại trong một trật tự ổn
định, cần có pháp luật điều chỉnh hoạt động đại lý thương mại và hợp đồng đại lý
thương mại. Xét về mặt nội dung, pháp luật về hoạt động trung gian thương mại nói
chung và về đại lý thương mại nói riêng điều chỉnh không tách rời hai nhóm quan hệ:
quan hệ hợp đồng giữa bên thuê dịch vụ (bên giao đại lý) với bên đại lý và quan hệ
giữa bên giao đại lý với bên đại lý và bên thứ ba.
Hợp đồng đại lý là căn cứ pháp lý cho thỏa thuận đại lý thương mại được thực

hiện trong một hành lang pháp lý an toàn vì nó ghi nhận sự tự do thể hiện ý chí của các
bên trong quan hệ hợp đồng, đồng thời là căn cứ pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên đối với tranh chấp phát sinh trong và liên quan tới quá trình thực
hiện hoạt động đại lý. Hiện nay ngoài Luật thương mại 2005, pháp luật điều chỉnh hoạt
động đại lý ở Việt Nam còn được đề cập trong nhiều văn bản luật như Bộ luật Hàng
Hải, Luật kinh doanh bảo hiểm…và các văn bản dưới luật khác. Không thể phủ nhận
những đóng góp nhất định trong việc xây dựng và ban hành hệ thống các quy định nêu
trên, tuy nhiên hiện nay nhận thức của thương nhân và nhiều chủ thể khác về hoạt
động đại lý còn khá mơ hồ, chưa hiểu rõ bản chất pháp lý của đại lý thương mại và
mối quan hệ của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý với bên thứ ba.
Mặt khác, hệ thống pháp luật hiện hành về hoạt động đại lý chưa đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu thực tiễn đặt ra. Các quy định pháp luật điều chỉnh đại lý thương mại còn
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

1

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

bộc lộ nhiều mâu thuẫn, chồng chéo. Một số quy định còn thiếu tính cụ thể hoặc chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là một trong những nguyên nhân làm ảnh hướng tới
sự phát triển của hoạt động đại lý của nước ta. Trước nhu cầu của hội nhập kinh tế
quốc tế, trước thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động đại lý ở Việt Nam đang cần
bổ sung, hoàn thiện đồng hành với thời gian thực tập ở Công ty Cổ phần Thương mại
Đầu tư Công nghệ Châu âu, em đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về hợp đồng đại lý
thương mại và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Thương mại Đầu tư Công nghệ

Châu Âu” cho khóa luận với mong muốn nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ các
vấn đề lý luận cũng như thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh lĩnh
vực hợp đồng này.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
- Các công trình nghiên cứu trên thế giới
Căn cứ vào pháp luật thực định của các nước theo truyền thống luật Châu Âu lục
địa (điển hình là Cộng hòa Pháp và Cộng hòa liên bang Đức) cho thấy, các nước này
có quy định tương đối cụ thể về những loại người trung gian chuyên nghiệp với chức
năng giúp đỡ, tạo điều kiện để các bên thiết lập giao dịch thương mại với nhau. Luật
thương mại của nước Cộng hòa Pháp năm 2005 quy định về 03 loại người hành nghề
dịch vụ trung gian thương mại chuyên nghiệp là: người môi giới, người nhận ủy thác
và đại diện thương mại.
+ Bộ luật Thương mại Đức năm 1908 là bộ luật đầu tiên đưa ra các quy định đặc
biệt về “đại lý thương mại” (Handlungsagenten) – là tiền thân của chế định về đại diện
thương mại ngày nay. Rất nhiều quốc gia trên thế giới đã đi theo xu hướng này trong
đó có Thụy Điển, Na uy, Đan Mạch năm 1914, Áo năm 1921, Hà Lan năm 1936,Italy
năm 1942, Thụy Sỹ năm 1944…Sau khi ra đời, các quy định về “đại lý thương mại”
đã đòi hỏi phải được sửa đổi vì không xác định rõ ràng được địa vị pháp lý của người
đại lý với các quan hệ pháp lý gần gũi với nó như người giúp việc thương mại hoặc đại
diện thương mại với tính chất giống như người làm công…Vì vậy, hầu hết các quy
định về đại lý thương mại đã được sửa đổi ở Châu Âu và chế định đại diện thương mại
ra đời.
+ Ở một nghiên cứu khác, TS. Nguyễn Thị Vân Anh cho rằng khó có thể tìm thấy
một định nghĩa chính thức về hoạt động trung gian thương mại nói chung cũng như
khái niệm đại lý thương mại nói riêng trong pháp luật nước ngoài .
Đại diện thương mại có thể là thể nhân hoặc pháp nhân. Đối với các nước cùng
theo hệ thống pháp luật này như Bỉ, Nhật Bản, Thái Lan đều có những quy định tương
tự về người đại diện ủy quyền, người môi giới và người nhận ủy thác hoa hồng. Bộ
luật dân sự của Liên Bang Nga (phần 2 ban hành năm 1995) có nhiều quy định về
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương


2

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

người đại diện thương mại, người nhận ủy thác thương mại và đại lý. Khác với cá
nước theo hệ thống luật Châu Âu lục địa, các nước Anh, Mỹ, Australia theo truyền
thống thông luật (Common law) không có sự phân biệt rõ rệt từng loại người trung
gian trong hoạt động thương mại. Luật Anh – Mĩ gọi những người này là “agency” .
Theo đó, hoạt động agency được hiểu là việc một người (thụ ủy) tiến hành các hoạt
động thương mại (trong phạm vi ủy quyền) nhân danh người giao đại diện/đại lý (chủ
ủy) hay nhân danh chính mình, vì lợi ích của người giao đại điện, thông qua thỏa thuận
(agreement), được tạo ra và xác định bởi các nghĩa vụ (obligations) giữa các bên.
- Các công trình nghiên cứu ở Việt nam
Trong quá trình nghiên cứu và tìm kiếm tài liệu qua thư viện, tạp chí, sách báo,
internet,… để thực hiện đề tài, em tìm thấy rất ít tài liệu nghiên cứu trực tiếp pháp luật
về hợp đồng đại lý thương mại mà chủ yếu là những công trình liên quan đến pháp luật
về hợp đồng nói chung. Các chuyên đề, bài nghiên cứu, luận án tiến sĩ liên quan đến
khóa luận nghiên cứu là:
- Bài nghiên cứu “ Hòa giải, thương lượng trong việc giải quyết tranh chấp hợp
đồng kinh tế” của TS. Trần Đình Hảo đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật năm
( 2000).
- Chuyên đề “Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng đại lý bán hàng tại công ty
TNHH Nhà nước 1 thành viên Thực phẩm Hà Nội” tại www. Zbook.vn (2011).
- Bài nghiên cứu “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam” của PGS.TS

Dương Đăng Huệ đăng tại tạp chí Nhà nước và Pháp luật (2002).
- Luận án tiến sĩ “ Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hiệu quả của hợp đồng kinh tế vô
hiệu” của Lê Thị Bích Thọ tại Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội (2002). - Bài
nghiên cứu “Chế định hợp đồng kinh tế - Tồn tại hay không tồn tại” của GS.TS Lê
Hồng Hạnh đăng tại tạp chí Luật học ( 2003).
- Bài nghiên cứu “Điều kiện thương mại chung và nguyên tắc tự do khế ước”
của PGS.TS Nguyễn Như Phát đăng tại tạp chí Nhà nước và pháp luật (2003). - Bài
nghiên cứu “Một số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi pháp luật Việt Nam về hợp
đồng” đăng tại tạp chí Nhà nước và pháp luật (2004) và “Hoàn thiện pháp luật về biện
pháp đảm bảo nhìn từ quyền tự do hợp đồng” của TS. Nguyễn Am Hiểu đăng tại tạp
chí Dân chủ và pháp luật (2004).
- Bài nghiên cứu “ Dự thảo Bộ luật dân sự ( sửa đổi) và vấn đề cải cách pháp luật
hợp đồng ở Việt Nam” của PGS.TS Phạm Hữu Nghị đăng tại
http//www.vibonline.com,vn//vi-VN/Topic Deltaivaspx? TopicID251 (2005).
- Bài nghiên cứu “Hoàn thiện chế định hợp đồng” của TS Phan Chí Hiếu đăng
tại tạp chí nghiên cứu lập pháp ( 2005).
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

3

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

- Bài nghiên cứu “ Những quy định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng trong Bộ luật
Dân sự 2005” của TS. Nguyễn Thúy Hiền đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật
(2006). Ngoài ra còn một số sách chuyên khảo liên quan đến một số khía cạnh của vấn

đề khóa luận nghiên cứu như:
- Quyển “ Chế định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS.
Nguyễn Ngọc Khánh, Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội (2007).
- Quyển “ Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án” của TS. Đỗ
Văn Đại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội ( 2008).
Những công trình nghiên cứu trên là tài liệu vô cùng quý giá giúp em có thêm
nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp. Những
vấn đề bao quát chung thì được nghiên cứu nhiều nhưng những vấn đề nhỏ trong nó
đang ngày càng không phù hợp thì như chưa được tìm hiểu, nghiên cứu sâu, trong khi
đó hoạt động đại lý ngày càng phát triển mạnh pháp luật quy định về hợp đồng đã có
nhiều chỗ không thỏa đáng gây mâu thuẫn giữa các bên nên pháp luật về hợp đồng đại
lý cần phải được nghiên cứu nhiều hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn để từ đó đưa ra
những phương hướng, giải pháp hoàn thiện nó giúp cải thiện pháp luật khi mà pháp
luật hiện nay chưa đáp ứng được những yêu cầu của hoạt động đại lý thương mại.
3. Mục đích nghiên cứu
-Mục đích nghiên cứu: nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp
đồng đại lý cũng như vai trò và ý nghĩa của hợp đồng đại lý đối với hoạt động kinh
doanh, thương mại và sự phát triển của nền kinh tế. Mặt khác, đề tài nghiên cứu và
phân tích một số vấn đề liên quan đến bản chất pháp lý của hợp đồng đại lý theo quy
định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật một số nước và
thực trạng pháp luật điều chỉnh về hợp đồng đại lý để đề xuất các giải pháp bước đầu
góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về hợp đồng đại lý ở nước ta. Hợp đồng đại lý
xuất hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về hợp đồng đại lý thương mại và pháp luật
điều chỉnh loại hợp đồng này.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý trong tương quan
so sánh với pháp luật một số nước điều chỉnh về vấn đề hợp đồng trung gian thương
mại, từ đó đánh giá những ưu nhược điểm và những vấn đề còn tồn tại của pháp luật
hiện hành.
- Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh

hợp đồng đại lý, đưa ra một số đề xuất cụ thể để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp
đồng đại lý ở Việt Nam.

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

4

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:Các quan điểm, tư tưởng luật học và pháp luật về hợp
đồng cụ thể lag hợp đồng đại lý. Đối tượng nghiên cứu còn bao gồm các quy định của
pháp luật Việt nam và các nước về hợp đồng đại lý. Những vấn đề lý luận chung về
pháp luật hợp đồng đại lý trong thương mại và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần
Thương mại Đầu tư Công nghệ Châu Âu. Từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng pháp luật về hợp đồng đại lý trong tương
quan so sánh với pháp luật một số nước điều chỉnh về vấn đề hợp đồng trung gian
thương mại, từ đó đánh giá những ưu nhược điểm và những vấn đề còn tồn tại của
pháp luật hiện hành.Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp
luật điều chỉnh hợp đồng đại lý, đưa ra một số đề xuất cụ thể để hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh hợp đồng đại lý trong thương mại.
Về không gian: Đề tài nghiên cứu các quy phạm pháp luật trên lãnh thổ nước Việt
nam, do nhà nước Việt nam ban hành. Trong quá trình nghiên cứu, pháp luật của các

quốc gia.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu các quy định hiện hành của Việt nam liên quan
đến nội dung nghiên cứu của đề tài, cụ thể là Luật thương mại 2015, Bộ luật dân sự
2015 và các văn bản hướng dẫn có liên quan khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu trên, đề tài được thực hiện sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: phương pháp tổng hợp và
phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp nghiên
cứu lý luận với thực tiễn. Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện
trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng và các quan điểm,
đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Cách phân tích vấn đề theo “ chiều dọc” nhằm làm rõ toàn bộ nội dung pháp lý
liên quan đến hợp đồng đại lý trong mối quan hệ biện chứng từ khi giao kết hợp đồng,
xác lập và tuyên bố hợp đồng, thực hiện hợp đồng, cho đến khi sửa đổi, chấm dứt hợp
đồng. Mặt khác, trong mỗi vấn đề, em cũng sử dụng cách thức truyền thống là đi từ
nghiên cứu lý thuyết cơ bản cho đến thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng
và cuối cùng là các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
6. Đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận khóa luận là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối
toàn diện về hợp đồng đại lý dưới giác độ luật học với những điểm mới chủ yếu sau:
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

5

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp


- Khóa luận đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động đại lý và
hợp đồng đại lý, theo đó phân tích kỹ về khái niệm, đặc điểm pháp lý và đã so sánh,
luận giải một cách có hệ thống và chiều sâu giữa hoạt động đại lý với các hoạt động
trung gian thương mại khác nhằm làm rõ bản chất pháp lý của đại lý thương mại trong
mối liên hệ với ủy quyền hay đại diện, vấn đề mà từ trước đến nay còn nhiều ý kiến
khác nhau trong quá trình giải thích và áp dụng luật, từ đó lý giải được vấn đề trách
nhiệm pháp lý của chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý với bên thứ ba phù hợp
với pháp luật quốc tế.
- Khóa luận đã chỉ ra được các quy định hiện hành điều chỉnh hoạt động đại lý ở
Việt Nam còn một số nội dung không thống nhất: khái niệm đại lý trong các luật
chuyên ngành được hiểu khác với khái niệm đại lý trong Luật Thương mại; Các quy
định về hình thức của hợp đồng, quyền hưởng thù lao của bên đại lý cũng như các quy
định về sở hữu hàng hóa, hạn chế cạnh tranh, chấm dứt hợp đồng phát sinh trong hoạt
động đại lý còn bộc lộ một số bất cập, chưa đảm bảo quyền tự do giao kết, thực hiện
hợp đồng cũng như lợi ích của các bên tham gia quan hệ hợp đồng.
-Khóa luận đã nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng đại lý thương mại theo quy
định của luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước theo
hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới, Common Law và Civil Law để phát hiện
những điểm tương đồng và khác biệt, chỉ ra những kinh nghiệm pháp lý làm cơ sở
quan trọng cho việc đề xuất một số kiến nghị bước đầu góp phần hoàn thiện chế định
pháp luật về hợp đồng đại lý ở Việt Nam.
- Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực trạng thực thi pháp luật về hợp đồng đại lý
ở Việt Nam, luận văn đã chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại trong hệ thống pháp
luật hiện hành cũng của những tranh chấp trong giao kết và thực hiện hợp đồng đại lý,
từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp cụ thể để tiếp tục hoàn thiện pháp
luật về đại lý thương mại và hợp đồng đại lý ở Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển và xu thế hội nhập của thị trường. Về mặt thực tiễn
- Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham
khảo giúp cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chế định pháp luật về hợp đồng đại

lý ở Việt Nam hiện tại và trong tương lai.
7. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục các bảng, biểu, hình, khóa luận được
kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ
THƯƠNG MẠI.
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

6

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

THƯƠNG MẠI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI ĐẦU TƯ CÔNG NGHỆ
CHÂU ÂU
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI.

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

7

Lớp: K49p3



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI.
1.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại Đại lý thương mại
1.1.1 Khái niệm Đại lý thương mại
Mô hình đại lý thương mại được sử dụng phổ biến hơn khi nhu cầu mua bán
hàng hóa của các nhà sản xuất từ quy mô nhà máy, xí nghiệp đến các công ty, tập đoàn
lớn đòi hỏi nguồn cung nguyên, nhiên liệu hay tiêu thụ sản phẩm ổn định và có hệ
thống . Ngoài ra, trong các lĩnh vực vận tải đường biển, bảo hiểm, nông nghiệp cũng
xuất hiện các đại lý tàu biển, đại lý bảo hiểm, đại lý thu mua nông sản….
Dưới giác độ pháp lý, hiện tượng thương nhân nhận ủy quyền của người khác để
tiến hành các hoạt động vì lợi ích của bên ủy quyền để mua, bán hàng hóa hoặc cung
ứng dịch vụ thương mại được pháp luật một số nước khái quát bằng khái niệm “trung
gian tiêu thụ” hoặc “đại diện thương mại”.
So với pháp luật của nhiều nước trong việc xác định các hình thức hoạt động
trung gian thương mại, pháp luật Việt Nam ngoài việc quy định ba hình thức hoạt động
trung gian thương mại là đại diện, ủy thác và môi giới, Luật thương mại 2005 của Việt
Nam còn quy định thêm một hình thức là đại lý thương mại. Điều này đồng nghĩa với
việc khó để tìm thấy khái niệm tương ứng và chuẩn xác về loại hình đại lý thương mại
của pháp luật Việt Nam trên thế giới. Khi dịch ra tiếng Anh, mặc dù mang bản chất
khác hoàn toàn với hoạt động agency (đại diện thương mại theo luật của các nước
nhân danh bên giao đại diện để quan hệ với bên thứ ba trong phạm vi ủy quyền, còn
bên đại lý nhân danh chính mình để quan hệ với bên thứ ba theo yêu cầu của bên giao
đại lý) nhưng thuật ngữ đại lý thương mại vẫn được dịch là commercial agency. Do đó,
khi nghiên cứu các khía cạnh pháp lý liên quan đến đại lý thương mại và hợp đồng đại
lý (HĐĐL) ở luận văn này, chúng tôi đề cập tới khái niệm và bản chất pháp lý của đại
lý thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với các

hình thức đại diện nói chung và đặc biệt là đại diện thương mại (agency) và ủy thác
thương mại.
Ở Việt Nam, khái niệm hoạt động trung gian thương mại được hiểu là hoạt động
của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương
nhân xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thươngnhân, môi giới thương mại, ủy
thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại” (Khoản 11 Điều 3 Luật thương mại
2005). Như vậy, với tính chất là một loại hình hoạt động trung gian thương mại, khái
niệm “đại lý thương mại” được ghi nhận tại Điều 166 Luật thương mại 2005 như sau:
“Đại lý thương mại là hoạt động thương mại theo đó bên giao đại lý và bên đại
lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

8

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao”.
Định nghĩa đại lý thương mại theo Luật thương mại 2005 đã thể hiện rõ đại lý
thương mại là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức thuê và nhận làm dịch vụ
mua bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ trong đó bên giao đại lý là bên có nhu cầu
mua bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ nhưng không trực tiếp thực hiện công việc
này mà giao cho một bên khác (bên đại lý) thay mặt mình mua bán hàng hoá hoặc
cung ứng dịch vụ hộ mình. Đại lý thương mại là khái niệm có ngoại diên bao gồm
nhiều đại lý trong nhiều lĩnh vực như đại lý mua bán hàng hoá, đại lý cung ứng các
loại dịch vụ bảo hiểm, quảng cáo, du lịch, vận tải, bưu chính, viễn thông…do vậy, tại

các luật chuyên ngành có những định nghĩa khác nhau về khái niệm đại lý, ví dụ: Luật
Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định: “Đại lý bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được
doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền trên cơ sở lập hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện
hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan”. Bộ Luật Hàng hải Việt Nam định nghĩa đại lý tàu biển là dịch vụ
mà người đại lý tàu biển nhân danh chủ tàu hoặc người khai thác tàu tiến hành các
dịch vụ liên quan đến tàu biển hoạt động tại cảng.
Qua khái niệm của Luật, có thể thấy khi thực hiện hoạt động, bên đại lý là chủ
thể trung gian nhân danh chính mình để mua bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ với
bên thứ ba, vì lợi ích của bên giao đại lý và được hưởng thù lao. Do đó, trong hoạt
động đại lý thương mại tồn tại hai nhóm quan hệ: quan hệ giữa bên giao đại lý và bên
đại lý; quan hệ giữa bên đại lý và bên thứ ba. Theo quy định của Luật thương mại
2005, đại lý thương mại có phạm vi hoạt động rất rộng, bao gồm hoạt động đại lý được
thực hiện trong nhiều lĩnh vực hoạt động thương mại đó là: mua bán hàng hoá cho bên
giao đại lý và các hoạt động đại lý cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho bên thứ ba
như đại lý bảo hiểm, đại lý du lịch lữ hành…Như vậy, Luật thương mại 2005 đã mở
rộng phạm vi hoạt động đại lý chứ không bó hẹp ở hoạt động đại lý mua bán hàng hoá
như quy định tại Luật thương mại 1997. Mặt khác, phạm vi của hoạt động đại lý mua
bán hàng hoá được mở rộng hơn so với Luật thương mại 1997, bởi khái niệm hàng hoá
trong Luật thương mại 2005 cũng đã mở rộng, theo đó đại lý mua bán hàng hoá không
chỉ giới hạn ở hoạt động đại lý mua bán máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu
dùng, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán, mà bao gồm hoạt
động đại lý mua bán các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và
những vật gắn liền với đất đai. Nguyên nhân của sự thay đổi này bắt nguồn từ sự
chuyển biến của nền kinh tế đất nước ta sang nền kinh tế thị trường từ sau Đại hổi
Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Luật thương mại 1997 ra đời quy định cơ bản về
hoạt động đại ý và một số hoạt động trung gian thương mại khác, tuy nhiên sau hơn 7
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

9


Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

năm thi hành Luật thương mại 1997 đã bộc lộ nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung
để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của thương mại trong nước bắt nhịp cùng
thương mại quốc tế.
Đại lý cung cấp dịch vụ là trung gian thương mại dịch vụ, theo đó một thương
nhân nhân danh chính mình để cung cấp dịch vụ cho nhà cung cấp dịch vụ đến với
khách hàng. Đây là hành vi trung gian rất phổ biến trong thương mại dịch vụ, được
xem như cánh tay nối dài của nhà cung cấp dịch vụ đến cho khách hàng. Với tính chất
của dịch vụ là vô hình, không lưu kho bãi, quá trình cung cấp dịch vụ diễn ra đồng
thời, nên đại lý trong thương mại dịch vụ là trung gian giúp nhà cấp dịch vụ cung ứng
dịch vụ cho người sử dụng dịch vụ, điều này khác với đại lý trong thương mại hàng
hóa luôn gồm đại lý mua hàng và đại lý bán hàng. Đại lý bảo hiểm, đại lý du lịch lữ
hành, địa lý dịch vụ bưu chính, đại lý dịch vụ viễn thông, đại lý làm thủ tục hải quan,
đại lý xăng dầu, đại lý sổ xố…Ứng với mỗi loại hình dịch vụ, pháp luật chuyên ngành
quy định khác nhau về cách thức thực hiện hành vi đại lý cung cấp dịch vụ. Thương
mại hàng hóa và dịch vụ càng phát triển, vai trò của trung gian thương mại càng được
coi trọng vì nó hỗ trợ đắc lực cho thương nhân trong khâu phân phối, tiêu thụ sản
phẩm, dịch vụ được nhanh chóng, ít rủi ro, chi phí thấp và dễ dàng gia nhập hoặc từ bỏ
thị trường. Đại lý, đại diện hay ủy thác được quy định khác nhau ở mỗi nước tuy nhiên
hầu hết pháp luật các nước đều thừa nhận về bản chất, chúng đều là hành vi thương
mại được thực hiện qua trung gian. Theo đó, người thụ ủy thực hiện công việc mua
bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ vì lợi ích của bên chủ ủy để nhận thù lao theo
thỏa thuận. Mang bản chất của hoạt động trung gian nhưng đặt chúng trong mối liên

hệ giữa người chủ ủy và người thụ ủy, giữa người thụ ủy và bên thứ ba cho thấy, các
loại hình trung gian thương mại này không đồng nhất. Là một dạng hoạt động trung
gian thương mại nhưng khái niệm đại lý thương mại ở Việt Nam có sự khác biệt và
đặc thù so với các hình thức trung gian thương mại trong pháp luật các nước. Vì vậy,
để có cái nhìn toàn diện, luận văn sẽ nghiên cứu cụ thể các đặc điểm của đại lý thương
mại.
1.1.2 Một số đặc điểm của đại lý thương mại
1.1.2.1 Đặc điểm
Là một loại hình hoạt động trung gian thương mại theo luật thương mại của Việt
Nam, do đó đại lý thương mại trước hết mang những đặc điểm chung của trung gian
thương mại. Nói đến đặc điểm của đại lý thương mại, ta sẽ xem xét đặc điểm pháp lý
của trung gian thương mại. Chế định trung gian thương mại ở các nước không hoàn
toàn giống nhau do sự khác biệt về điều kiện kinh tế, chính trị và truyền thống lập
pháp. Ở Việt Nam, Luật thương mại 2005 đưa ra định nghĩa về hoạt động trung gian
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

10

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

thương mại, đó là cơ sở pháp lý để xác định các hoạt động đại diện chi thương nhân,
môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại. Căn cứ định
nghĩa tại Luật và các điều khoản quy định về từng loại hoạt động trung gian thương
mại (chương V Luật thương mại 2005) thì có thể rút ra những đặc điểm tương đồng
của hoạt động trung gian thương mại theo pháp luật Việt Nam và các nước như sau:

*Hoạt động trung gian thương mại là loại hoạt động cung ứng dịch vụ thương
mại, người trung gian được bên thuê dịch vụ trao quyền tham gia vào việc xác lập,
thực hiện giao dịch thương mại với bên thứ ba vì lợi ích của bên thuê dịch vụ để
hưởng thù lao . Hoạt động trung gian thương mại trước hết có nội hàm là hoạt động
cung ứng dịch vụ thương mại. Bên thuê dịch vụ là bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ và
phải có nghĩa vụ trả thù lao cho bên thực hiện dịch vụ còn bên cung ứng dịch vụ (bên
trung gian) là bên có nghĩa vụ thực hiện một số công việc cho bên thuê dịch vụ và
được nhận thù lao. Qua đó ta thấy sự khác biệt giữa cung ứng dịch vụ trong dân sự và
hoạt động trung gian thương mại là ở chỗ, trong dân sự, việc trả thù lao thực hiện dịch
vụ không phải là nghĩa vụ bắt buộc đối với bên thuê dịch vụ trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận tại hợp đồng. Tuy nhiên, các hoạt động trung gian thương mại có điểm khác
biệt so với các hoạt động cung ứng dịch vụ khác ở phương thức thực hiện. Các hoạt
động cung ứng dịch vụ theo phương thức giao dịch trực tiếp, tức là chỉ cần có sự tham
gia của hai bên. Các bên tham gia quan hệ trực tiếp giao dịch với nhau, bàn bạc thỏa
thuận nội dung giao dịch. Trong hoạt động dịch vụ trung gian thương mại có sự tham
gia của ba bên, trong đó bên trung gian nhận sự ủy nhiệm của bên thuê dịch vụ để
quan hệ với bên thứ ba. Điều này có nghĩa là bên trung gian làm cầu nối giữa bên thuê
dịch vụ và bên thứ ba. Trong các hoạt động dịch vụ trung gian thương mại này, bên
được thuê làm dịch vụ là người trung gian nhận sự ủy nhiệm của bên thuê dịch vụ và
có thể thay mặt bên thuê dịch vụ thực hiện các hoạt động thương mại với bên (hoặc
các bên) thứ ba. Khi giao dịch với bên thứ ba, thương nhân trung gian có thể sử dụng
danh nghĩa của mình hoặc danh nghĩa của bên thuê dịch vụ, tùy theo loại hình dịch vụ
mà họ cung ứng. Theo quy định của Luật thương mại năm 2005, trong trường hợp
thực hiện dịch vụ đại lý thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa hoặc môi giới thương
mại, thương nhân trung gian sử dụng danh nghĩa của chính mình khi giao dịch với bên
thứ ba.
Trong các hoạt động trung gian thương mại, bên thuê dịch vụ sẽ yêu cầu bên thực
hiện dịch vụ thay mặt mình hoặc giúp mình quan hệ với bên thứ ba để mua, bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ thương mại. Do đó, bên trung gian sẽ có nhiệm vụ tìm hiểu thị
trường, tìm hiểu đối tác, đàm phán giao dịch với bên thứ ba để thực hiện việc mua bán

hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho bên chủ ủy (bên thuê dịch vụ) theo yêu cầu của họ.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

11

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

Hoạt động dịch vụ trung gian thương mại khác với các hoạt động dịch vụ có liên quan
đến bên thứ ba như: Dịch vụ vận tải, dịch vụ giao nhận hàng hóa…ở chỗ những dịch
vụ này được thực hiện trực tiếp giữa bên làm dịch vụ với bên thuê dịch vụ mà không
có sự tham gia của bên trung gian. Bên trung gian lúc này có chức năng làm cầu nối
giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba. Tùy từng giao dịch và tùy theo mức độ tham gia
của bên trung gian vào giao dịch, người trung gian có thể chỉ hỗ trợ cho bên thuê dịch
vụ trong việc gặp gỡ, trao đổi để làm việc với bên thứ ba, hoặc cũng có thể được ủy
quyền để thay mặt bên thuê dịch vụ quan hệ với bên thứ ba (trong hoạt động đại diện
thương mại). Trong hoạt động dịch vụ trung gian thương mại, bên trung gian có vai trò
làm cầu nối giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba, do đó họ không thực hiện việc mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ với bên thứ ba vì lợi ích của bản thân mình mà vì lợi
ích của bên thuê dịch vụ. Tuy nhiên, bên trung gian sẽ được hưởng thù lao khi hoàn
thành nhiệm vụ mà bên chủ ủy giao phó. Do đó, mục đích của bên trung gian trong các
hoạt động trung gian thương mại là nhằm tới thù lao mà bên thuê dịch vụ sẽ trả cho họ
chứ không mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ nhằm lợi ích của bản thân họ.
*Trong hoạt động trung gian thương mại, bên trung gian phải là thương nhân, có
tư cách pháp lý độc lập với bên thuê dịch vụ và bên thứ ba.
Người thực hiện dịch vụ trung gian thương mại là những người chuyên nghiệp,

có tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập với bên thuê dịch vụ và bên thứ ba, Họ cung ứng
một dịch vụ thương mại cho bên chủ ủy/bên thuê dịch vụ chứ không phải người làm
công ăn lương. Điều này thể hiện ở việc người trung gian có trụ sở riêng, tự định đoạt
thời gian làm việc, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Đặc điểm này của
người trung gian khác với các chi nhánh, văn phòng đại diện do thương nhân lập ra là
những người không có tư cách pháp lý độc lập và chỉ được hoạt động trong phạm vi,
quyền hạn theo quy định nội bộ của thương nhân đó. Pháp luật một số nước như Anh,
Mỹ quy định trong hoạt động trung gian thương mại, bên trung gian phải là chủ thể
độc lập với các bên còn lại và có thể là bất cứ tổ chức, cá nhân nào có khả năng độc
lập thực hiện dịch vụ. Trong khi đó, luật Việt Nam quy định bên trung gian phải là
thương nhân (Điều 6 Luật thương mại 2005). Theo điều này, thương nhân phải là tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, đối với một số dịch vụ trung gian
thương mại như ủy thác mua bán hàng hóa, ngoài điều kiện là thương nhân, bên trung
gian còn phải đáp ứng điều kiện kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hóa được ủy
thác (Điều 156 Luật thương mại 2005).
*Hoạt động trung gian thương mại luôn song song tồn tại hai nhóm quan hệ: (i)
quan hệ giữa bên thuê dịch vụ và bên trung gian thực hiện dịch vụ; (ii) quan hệ giữa
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

12

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

bên thuê dịch vụ, bên trung gian thực hiện dịch vụ với bên thứ ba. Các quan hệ này

phát sinh trên cơ sở hợp đồng.
Xuất phát từ đặc trưng quan trọng nhất của hoạt động trung gian thương mại là
hoạt động trong đó bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ của người trung gian (bên chủ ủy)
và bên cung ứng dịch vụ trung gian phải thiết lập quan hệ mà trong đó, nội dung thỏa
thuận về công việc cần thực hiện (mua bán hàng hóa/cung ứng dịch vụ), quyền và
nghĩa vụ giữa các bên trên cơ sở tự do ý chí. Bởi vậy, có thể thấy trong hoạt động
trung gian thương mại, quan hệ giữa bên chủ ủy và bên thụ ủy thực hiện dịch vụ trung
gian có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó biểu hiện dưới hình thức hợp đồng ghi nhận sự
thỏa thuận. Đó là các hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng môi giới, hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa, HĐĐL. Các hợp đồng này có tính chất là hợp đồng
song vụ, ưng thuận và có tính đền bù. Hình thức của các hợp đồng này bắt buộc phải
được thể hiện bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương
với văn bản, bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (là thông tin được tạo ra,
được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử) và các hình thức
khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động trung gian thương mại sẽ
không thể thực hiện được nếu như chỉ tồn tại quan hệ giữa bên thuê dịch vụ và bên
trung gian. Để thực hiện hoạt động này, bên thụ ủy cần phải giao dịch với bên thứ ba
để hoàn thành yêu cầu mà bên chủ ủy đã giao. Khi giao dịch với bên thứ ba, tư cách và
vai trò của người trung gian có thể khác nhau, bởi họ có thể nhân danh bên chủ ủy
(trong quan hệ đại diện thương mại) để giao dịch với bên thứ ba hoặc hân danh chính
mình tạo ra quan hệ với bên thứ ba (trong quan hệ ủy thác hoặc đại lý thương mại),
hoặc cũng có thể chẳng thiết lập quan hệ với bên thứ ba mà chỉ thực hiện nhiệm vụ
giới thiệu bên thứ ba với bên chủ ủy. Điều này dẫn đến hệ quả pháp lý trực tiếp là xác
định trách nhiệm trong quan hệ với bên thứ ba thuộc về bên thuê dịch vụ hay bên trung
gian, hay nói cách khác trong hoạt đông trung gian thương mại, bên thứ ba sẽ có quan
hệ pháp lý với bên chủ ủy hay trực tiếp với bên thụ ủy. Trong trường hợp bên trung
gian thực hiện các hoạt động thương mại với bên thứ ba nhân danh bên thuê dịch vụ
(trong phạm vi được ủy quyền) sẽ làm phát sinh quan hệ hợp đồng giữa bên thuê dịch
vụ và bên thứ ba. Ngược lại, trường hợp bên trung gian nhân danh chính mình (như
quan hệ của người nhận ủy thác, người đại lý với bên thứ ba) thực hiện các hoạt động

thương mại với bên thứ ba thì quan hệ hợp đồng sẽ phát sinh giữa bên trung gian với
các bên thứ ba đó. Tùy thuộc vào đối tượng của hợp đồng giao kết với bên thứ ba mà
các hợp đồng đó có thể là hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng cung ứng dịch
vụ. Như vậy, từ những đặc điểm pháp lý của hoạt động trung gian thương mại nêu
trên, ta thấy hoạt động đại lý thương mại cũng có những đặc điểm như sau:
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

13

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

Đại lý thương mại là một loại hình hoạt động cung ứng dịch vụ, theo đó bên giao
đại lý là bên thuê dịch vụ của bên đại lý để mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ
và phải có nghĩa vụ trả thù lao cho bên đại lý. Trong hoạt động đại lý thương mại có sự
tham gia của ba bên: bên giao đại lý, bên đại lý và bên thứ ba và theo đó bên đại lý có
nhiệm vụ thực hiện giao dịch với bên thứ ba thay cho bên giao đại lý. Ở đây tồn tại
song song hai nhóm quan hệ:
- quan hệ giữa bên giao đại lý và bên đại lý;
- quan hệ giữa bên bên giao đại lý, bên đại lý với bên thứ ba.
Các quan hệ này phát sinh trên cơ sở HĐĐL.
Hoạt động đại lý thương mại được thực hiện trong các lĩnh vực thương mại, mà
căn cứ theo danh mục phân loại các hoạt động dịch vụ theo quy định của Tổ chức
thương mại thế giới, hoạt động đại lý được thực hiện không chỉ trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa mà ở cả những ngành dịch vụ như: dịch vụ của đại lý hưởng hoa hồng
trong các nhóm dịch vụ phân phối; dịch vụ đại lý bảo hiểm; môi giới bảo hiểm, môi

giới tiền tệ trong các nhóm dịch vụ tài chính, dịch vụ lữ hành trong các nhóm dịch vụ
du lịch và lữ hành….Để thực hiện hoạt động đại lý, bên đại lý được quyền tự do lực
chọn bên thứ ba để giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng cung ứng dịch
vụ theo những quy định cụ thể trong HĐĐL. Tuy có nhiều đặc điểm chung so với các
hoạt động trung gian thương mại như đại diện, ủy thác mua bán hàng hóa nhưng đại lý
thương mại cũng có một số đặc điểm pháp lý khác biệt so với những loại hình trung
gian thương mại khác:
Trong quan hệ đại lý thương mại, chủ thể của quan hệ là bên giao đại lý và bên
đại lý, cả hai đều phải là thương nhân. Bên giao đại lý giao hàng hóa cho đại lý bán
hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc ủy quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý
cung ứng dịch vụ cho bên thứ ba. Ngược lại, bên đại lý nhận hàng hóa để làm đại lý
bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua, hoặc là bên nhận ủy quyền để cung ứng
dịch vụ. Nội dung của hoạt động đại lý bao gồm việc giao kết, thực hiện HĐĐL giữa
bên giao đại lý và bên đại lý, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc cung ứng
dịch vụ giữa bên đại lý và bên thứ ba theo yêu cầu của bên giao đại lý. Theo quy định
của Luật Thương mại Việt Nam, khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với bên thứ
ba, bên đại lý sẽ nhân danh chính mình để thực hiện giao dịch, còn trong quan hệ cung
ứng dịch vụ thì bên đại lý là bên nhận ủy quyền. Vậy giữa đại lý mua bán hàng hóa và
đại lý cung ứng dịch vụ phải chăng có sự khác nhau về bản chất pháp lý bởi quy định
của luật về tư cách của bên đại lý trong giao dịch với bên thứ ba?
Hiện nay, do quy định của luật không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau
trong các tài liệu và công trình nghiên cứu. Có quan điểm cho rằng “nhân danh chính
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

14

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

mình” nghĩa là khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với
bên thứ ba, các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng sẽ ràng buộc trách nhiệm
giữa bên đại lý và bên thứ ba chứ không ràng buộc trách nhiệm của bên giao đại lý.
Tuy nhiên quan điểm này sẽ không hợp lý khi giải thích về tính chất ủy quyền trong
mối quan hệ giữa bên giao đại lý và bên đại lý cung ứng dịch vụ mà Luật thương mại
đã quy định. Theo Bộ luật Dân sự 2005 bên chủ ủy (bên ủy quyền) vẫn phải chịu trách
nhiệm về cam kết do bên được ủy quyền thực hiện trong phạm vi ủy quyền (Điều
586). Vậy ủy quyền và nhân danh có nhất thiết phải gắn liền với nhau? Để lý giải cho
điều này, chúng tôi cho rằng việc nhận ủy quyền và hành động nhân danh hay bằng tên
của chính mình không phải là một, bởi bản thân các nguyên tắc của Unidroit về hợp
đồng thương mại quốc tế 2004 cho phép người đại diện hoặc hành động bằng tên của
chính mình hoặc hành động bằng tên của người được đại diện (the agent acts in its
own name or in that of the principal) . Việc người đại diện ở đây (bao gồm đại diện
theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền mà được hiểu chung là bên thụ ủy) hành động
nhân danh người chủ ủy hay trên danh nghĩa của chính mình là cơ sở để phân biệt giữa
“đại diện trực tiếp” hoặc “đại diện gián tiếp”, tuy nhiên để thiết lập mối quan hệ trực
tiếp giữa người được đại diện và bên thứ ba, chỉ cần người được đại diện hành động
trong phạm vi được ủy quyền và bên thứ ba biết hoặc phải biết rằng người đại diện
hành động nhân danh một người khác. Người đại diện không nhất thiết phải hành động
nhân danh người được đại diện (Điều 2.2.1Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng
thương mại quốc tế 2004). Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về đại lý cung cấp dịch vụ,
PGS.TS Nguyễn Như Phát và TS. Phan Thảo Nguyên đã viết: đại lý dịch vụ là cánh
tay nối dài của nhà cung cấp dịch vụ đến cho khách hàng. Với tính chất của dịch vụ là
vô hình, không lưu kho bãi, quá trình cung cấp dịch vụ diễn ra đồng thời, nên đại lý
trong thương mại dịch vụ có nhiều điểm khác so với đại lý trong thương mại hàng hóa.
Đại lý dịch vụ không nhân danh chính mình mà vẫn nhân danh nhà cung cấp dịch vụ
theo hình thức ủy quyền hoặc đại diện để cung cấp dịch vụ tới khách hàng . Đồng tình

với hai quan điểm trên, một số tác giả cho rằng “Quan hệ đại lý thực chất là một quan
hệ ủy quyền - ủy quyền mua, bán hàng hóa hoặc ủy quyền cung ứng dịch vụ. Điểm
khác biệt của quan hệ đại lý so với quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa chính là tính
chất của sự ủy quyền. Trong quan hệ đại lý, các bên thỏa thuận một quan hệ ủy quyền
thường xuyên trong khi trong quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa các bên thỏa thuận ủy
quyền mua, bán hàng hóa theo từng lần” . Để thấy rõ hơn những đặc điểm pháp lý của
đại lý thương mại, em sẽ phân tích và so sánh đại lý thương mại với những loại hình
trung gian thương mại khác ở phần sau của khóa luận.
1.1.2.2 Phân loại
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

15

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các dạng đại lý mà mỗi một dạng có
những đặc thù và tác dụng nhất định đối với các bên khi tham gia hoạt động trung gian
thương mại này. Các hình thức đại lý mua bán hàng hóa lần đầu tiên được quy định
trong Quy chế đại lý mua bán hàng hóa ban hành kèm theo Nghị định số 25-CP của
Chính phủ ngày 25/4/1996, theo đó đại lý mua bán hàng hóa gồm 6 hình thức: đại lý
mua hàng, đại lý bán hàng, đại lý hoa hồng, đại lý bao tiêu, đại lý độc quyền, tổng đại
lý. Những hình thức đại lý này cũng được quy định trong Luật thương mại năm 1997.
Hiện nay theo Điều 169 của Luật thương mại, đại lý bao gồm các hình thức sau: Đại lý
bao tiêu: là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn vẹn một khối
lượng hàng hóa hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại lý. Trong hình

thức đại lý này, bên giao đại lý ấn định giá giao đại lý, bên đại lý quyết định giá bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng, do đó, thù lao mà bên đại lý được hưởng
là mức chênh lệch giá giữa giá mua, giá bán thực tế so với giá mua, giá bán do bên
giao đại lý quy định. Hình thức đại lý này thích hợp với những hợp đồng ngắn hạn,
những hoạt động theo mùa vụ như thu mua nông sản ở thời điểm vụ thu hoạch. Đại lý
độc quyền: là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên giao đại lý chỉ
giao cho một đại lý mua bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung ứng một hoặc một
số dịch vụ nhất định. Hình thức đại lý này tạo cho bên đại lý không gian hoạt động mà
không bị đại lý khác cùng bên giao đại lý cạnh tranh.
Tổng đại lý mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ: là hình thức đại lý mà bên đại
lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý là đối tác trực tiếp của bên giao đại lý,
làm đại diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực thuộc hoạt động dưới sự
quản lý của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý. Hình thức này giúp cho bên
giao đại lý giảm số đầu mối phải quản lý xuống song vẫn có thể mở rộng được mạng
lưới bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của mình với một số lượng lớn, trên phạm vi
rộng. Các hình thức đại lý khác mà các bên có thể thỏa thuận: các bên tham gia quan
hệ đại lý có thể thỏa thuận các hình thức đại lý khác. Trên thực tế xuất hiện các hình
thức đại lý khác với quy định của Luật thương mại, ví dụ như: Căn cứ vào cách chi trả
thù lao đại lý có thể có hình thức đại lý hoa hồng. Đây là hình thức đại lý mà bên đại
lý thực hiện việc mua, bán hàng theo giá mua, giá bán do bên giao đại lý ấn định để
được hưởng hoa hồng. Mức hoa hồng được tính theo tỷ lệ phần trăm do các bên thỏa
thuận trên giá mua, giá bán hàng hóa.
Trên thực tế hiện nay còn tồn tại dạng đại lý cấp 1 và đại lý cấp 2, theo đó đại lý
cấp 1 giống như dạng đại lý độc quyền của một doanh nghiệp nhập hàng trực tiếp từ
doanh nghiệp sản xuất còn đại lý cấp 2 là đại lý cấp dưới của đại lý cấp 1, nhập hàng
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

16


Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

của doanh nghiệp thông qua đại lý cấp 1 và có thể nhập nhiều loại hàng từ các doanh
nghiệp khác nhau. Đại lý cấp 1 vì là độc quyền trong Tỉnh nên phải đạt chỉ tiêu doanh
số bán hàng mỗi tháng rất cao, bù lại họ hưởng hoa hồng cao nhất trong hệ thống tiêu
thụ sản phẩm và được ưu tiên về số lượng khi mặt hàng đang khan hiếm trên thị
trường ( ví dụ như khan hiếm xi măng hiện nay ). Đại lý cấp 2 được phân phối sản
phẩm từ đại lý cấp 1 và tất nhiên đã qua chiết khấu. Đại lý cấp 2 mạnh hay yếu tùy
thuộc vào số lượng tiêu thụ hàng tháng cao hay thấp mà đc sự ưu ái giao sản phẩm khi
mặt hàng khan hiếm trên thị trường. Chính vì cơ chế tiêu thụ sản phẩm này mà thị
trường Việt Nam hay bị đầu cơ ghìm hàng tạo cơn sốt giả tạo khi các đại lý cấp 1 bắt
tay thông đồng với nhau, điển hình thời gian trước là sắt thép hay xi măng. Trong một
số lĩnh vực còn tồn tại hình thức đại lý thu mua nông sản, phế liệu...Đại lý thua mua
nói chung có quan hệ lâu dài với những người mua của mình và thu mua cho họ những
mặt hàng cần thiết, tiếp nhận, kiểm tra, nhập kho rồi chuyển đến cho người mua. Một
trong những hình thức của đại lý thu mua là những người thu mua địa phương, tìm
kiếm những mặt hàng thích hợp mà những người bán lẻ nhỏ có thể kinh doanh. Họ
hiểu biết và cung cấp cho khách hàng của mình những thông tin bổ ích về thị trường
cũng như tìm kiếm cho họ những nguồn hàng tốt với giá hời. Vì hoạt động thương mại
trên thực tế diễn ra rất phong phú và đa dạng, nhận thức pháp luật của đại bộ phận
cộng đồng còn chưa cao nên dẫn đến tình trạng có nhiều loại hình hoạt động thương
mại gần giống nhưng bị nhầm lẫn với đại lý, ví dụ như hoạt động bán buôn, bán lẻ
(bán sỉ), bán hàng đa cấp, nhượng quyền thương mại.
a. Đại lý mua bán hàng hóa khác với hoạt động bán buôn, bán lẻ hàng hóa ở
chỗ: nhà bán buôn, bán lẻ hàng hóa bỏ vốn mua hàng hóa để bán lại cho người khác

(các nhà bán lẻ, nhà bán buôn khác hoặc cho người tiêu dùng cuối cùng), do đó họ có
quyền sở hữu đối với hàng hóa họ đã mua. Trong khi đó, người đại lý mua bán hàng
hóa không sở hữu hàng hóa họ nhận mua, bán. Họ thường chuyên môn hóa theo loại
hàng hóa hay loại khách hàng, và thực hiện chức năng chủ yếu là tạo điều kiện thuận
lợi cho việc mua bán, và hưởng một tỉ lệ phần trăm tiền hoa hồng trong giá bán.
b. Đại lý thương mại cũng cần được phân biệt với với hoạt động bán hàng đa
cấp. Cùng là phương thức tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ đến người tiêu dùng cuối cùng
qua trung gian, nhưng giữa hai loại hình này có sự khác nhau cơ bản. Bán hàng đa cấp
là hoạt động bán hàng qua phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa thực hiện qua mạng
lưới người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau. Bên đại
lý được hưởng thù lao do thực hiên dịch vụ mua bán hộ hàng hóa hoặc cung ứng hộ
dịch vụ cho bên giao đại lý. Trong khi đó, người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng
tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

17

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới thuộc mạng lưới do mình tổ
chức.
c. Đại lý thương mại và nhượng quyền thương mại: không nằm trong nhóm các
hoạt động trung gian thương mại, nhưng hoạt động nhượng quyền thương mại có liên
quan đến việc kinh doanh, phân phối các sản phẩm/dịch vụ bằng một hệ thống các cửa
hàng bán lẻ giống nhau nhưng thuộc quyền sở hữu và được quản lý bởi các chủ thể

khác nhau. Đại lý bán hàng nhận hàng của bên giao đại lý và hưởng thù lao theo thỏa
thuận giữa các bên trong HĐĐL. Trong quan hệ đại lý, sản phẩm được phân phối
thuộc sở hữu của bên giao đại lý nên bên giao đại lý chịu hoàn toàn trách nhiệm đối
với chất lượng và các yếu tố liên quan đến sản phẩm, trừ một số ngoại trừ được Luật
thương mại quy định. Mặt khác, do thực hiện dịch vụ cho bên giao đại lý nên bên đại
lý không phải trả phí cho bên giao đại lý khi được thuê làm đại lý. Trong khi đó,
nhượng quyền thương mại là một phương thức kinh doanh mà theo đó bên giao quyền
cho phép bên nhận quyền được sử dụng các bí quyết kĩ thuật, bí mật kinh doanh, các
chỉ dẫn, tiêu chuẩn chất lượng…Đổi lại, bên giao quyền sẽ nhận được các khoản phí
do bên nhận quyền trả. Ngoài ra, nhượng quyền thương mại được đặc trưng bởi sự
tuân thủ tuyệt đối mô hình sản xuất kinh doanh, sự kiểm soát nghiêm ngặt về tiêu
chuẩn chất lượng của bên nhượng quyền. Còn đối với hoạt động đại lý, bên đại lý
không bị phụ thuộc vào bên giao đại lý về cách thức tổ chức kinh doanh và có quyền
tự do nhiều hơn trong hoạt động của mình. Mặt khác, trong hoạt động nhượng quyền
thương mại chỉ có sự tham gia của 02 chủ thể: bên nhượng quyền, bên nhận quyền còn
tham gia quan hệ đại lý có 03 loại chủ thể: bên giao đại lý, bên đại lý và bên thứ ba.
Pháp luật cũng đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn khác nhau đối với các chủ thể của
hai dạng hoạt động thương mại này.
Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, luôn tồn tại trên thực tế rất nhiều hình thức
đại lý như đại lý bán vé máy bay, đại lý bảo hiểm, đại lý cung cấp dịch vụ bưu chính
viễn thông. Luật thương mại 2005 và các luật chuyên ngành đều có những quy định
điều chỉnh hành vi đại lý trong cung cấp dịch vụ. So với Luật thương mại năm 1997,
Luật thương mại năm 2005 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh các loại hình đại lý bao
gồm đại lý bao tiêu, đại lý độc quyền, tổng đại lý và các hình thức đại lý khác như đã
nêu trên, nhưng các quy định này khó áp dụng được trong cung ứng dịch vụ, vì dịch vụ
không lưu kho bãi được. Giải quyết vấn đề này, các văn bản luật chuyên ngành có xu
hướng quy định chi tiết hình thức đại lý được áp dụng cho ngành dịch vụ đó, ví dụ như
Nghị định về kinh doanh xăng dầu của Chính phủ và Quy chế đại lý doanh xăng dầu
của Bộ Công thương năm 2009 quy định hệ thống đại lý kinh doanh xăng dầu gồm có
tổng đại lý và các đại lý bán lẻ xăng dầu (khoản 1, Điều 5 Quy chế đại lý kinh doanh

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

18

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

xăng dầu ban hành kèm theo thông tư số 36/2009/TT-BCT của Bộ trưởng Bộ Công
thương). Các nước theo truyền thống thông luật (common law) không có sự phân biệt
rõ rệt từng loại người trung gian trong hoạt động thương mại. Ở các nước này khái
niệm “Agency” dịch ra tiếng Việt là “đại lý” hoặc “đại diện” như đã phân tích ở phần
trên. Nếu căn cứ vào phạm vi ủy quyền thì đại lý theo đó được chia làm ba loại: Đại lý
toàn quyền (universal agent) là người được phép thay mặt người chủ ủy làm mọi công
việc mà người chủ ủy có thể làm.Tổng đại lý (general) là người được ủy quyền làm
một phần việc nhất định của người được đại diện. Đại lý đặc biệt (special agent) là
người được ủy quyền chỉ làm một việc cụ thể, như mua một loại hàng hóa cụ thể với
giá cả xác định. Nếu căn cứ vào nội dung quan hệ giữa người đại lý và người chủ ủy,
luật những nước này chia làm ba loại: Đại lý thụ ủy (mandatory) là người được chỉ
định để hành động thay người chủ ủy với danh nghĩa và chi phí của người thụ ủy. Thù
lao của người đại lý này có thể là một khoản tiền hoặc một phần trăm tính trên giá trị
công việc. Đại lý hoa hồng (commission agent) là người được ủy nhiệm tiến hành trên
danh nghĩa của mình nhưng với chi phí của người chủ ủy, thù lao của người đại lý hoa
hồng là một khoản tiền hoa hồng do người đại lý và người chủ ủy thỏa thuận tùy theo
đối khối lượng và tính chất công việc. Đại lý kinh tiêu (Merchant agent) là người đại
lý hoạt động với danh nghĩa và chi phí của mình, thù lao của người này là khoản chênh
lệch giữa giá bán và giá mua. Ngoài ra, ở những nước theo truyền thống common law

còn có nhiều loại đại lý khác như đại lý gửi bán (consignee hoặc agent carrying stock),
đại lý đảm bảo thanh toán (del credere agen), đại lý độc quyền (sole agent), đại lý bán
buôn (factor hoặc mercantile agent)…
Đại lý thương mại với vai trò là một loại hình hoạt động trung gian thương mại
theo luật thương mại của Việt Nam mang những đặc điểm của trung gian thương mại
nói chung nhưng cũng có những đặc điểm pháp lý riêng biệt. Các dạng đại lý thương
mại trong thực tế đa dạng và phong phú hơn so với quy định của Luật thương mại
2005. Quy định của Luật thương mại Việt Nam về đại lý thương mại về khái niệm
cũng như cách thức phân loại là khác biệt so với các nước trên thế giới nhưng chưa rõ
ràng về tư cách của bên đại lý và trách nhiệm pháp lý của bên đại lý với bên thứ ba, do
đó cần chú ý khi nghiên cứu về đại lý mua bán hàng hóa và đại lý cung ứng dịch vụ,
đặc biệt khi xác lập quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể tham gia giao dịch gồm bên
giao đại lý, bên đại lý và bên thứ ba. Để lý giải quy định đặc thù của Luật thương mại
Việt Nam về đại lý thương mại và so sánh đặc điểm pháp lý nổi bật của đại lý thương
mại so với các loại hình trung gian thương mại khác, luận văn sẽ phân biệt đại lý
thương mại với đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng
hóa.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

19

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

1.2. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hợp đồng đại lý trong thương mại
1.2.1 Khái niệm Hợp đồng đại lý

Giống với các hoạt động trung gian thương mại khác, bản chất đại lý thương mại là
một quan hệ hợp đồng, đó là sự xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ pháp
lý của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Luật thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa
chính xác về HĐĐL, tuy nhiên quan hệ đại lý thương mại giữa thương nhân giao đại lý và
thương nhân làm đại lý được xác lập trên cơ sở hợp đồng là sự thỏa thuận giữa bên giao đại
lý và bên đại lý về việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên đại lý
hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao. Xét về bản
chất, HĐĐL là một hợp đồng dịch vụ.
Theo quy định tại Điều 518 Bộ luật dân sự 2005: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn
bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”. Theo đó, đối tượng của
hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái
đạo đức xã hội. Cụ thể ở đây, đó là việc bên đại lý nhận sự ủy quyền của bên giao đại lý
trong việc định đoạt hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ vì lợi ích của bên giao đại lý. HĐĐL
thương mại được xác lập trên cơ sở có đề nghị giao kết và có chấp nhận đề nghị giao kết
hay thỏa thuận và được tạo ra và xác định bởi nghĩa vụ về công việc mua, bán hàng hóa có
điều kiện giữa bên giao đại lý và bên đại lý. Đối tượng, công việc mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ cho bên thứ ba, cùng các thỏa thuận về thời hạn, thù lao…đối với bên đại lý là
các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng dịch vụ.
Tuy mang đặc điểm của hợp đồng dịch vụ trong dân sự (hợp đồng dịch vụ dân sự
trong thương mại) nhưng về bản chất HĐĐL có những dấu hiệu của hợp đồng ủy quyền.
Bên đại lý, thực thể cung ứng dịch vụ trung gian thương mại chuyên nghiệp được thuê thực
hiện công việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ nhân danh chình mình cho bên thuê và
được trả thù lao theo thỏa thuận. Yếu tố ủy quyền thể hiện ở nghĩa vụ thực hiện công việc
của bên đại lý (người thụ ủy) trong phạm vi được ủy quyền và được nhận thù lao theo thỏa
thuận. Mặc dù vậy, ủy quyền trong dân sự là hành vi giao cho người khác sử dụng một số
quyền mà pháp luật đã trao cho mình trong khi đại lý thương mại là hành vi giao cho người
khác làm thay công việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của mình. Do đó, về tư cách
chủ thể khi thực hiện hành vi, bên được ủy quyền hay bên bên nhận đại diện thực hiện công
việc được ủy quyền nhân danh bên chủ ủy, bên giao đại diện; bên đại lý thực hiện công việc

được giao nhân danh chính mình. Về phạm vi, bên được ủy quyền có thể được ủy quyền
thực hiện một hoặc một số hành vi trong khi đại lý thương mại thu hẹp trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Về năng lực pháp lý, bên được ủy quyền trong hợp đồng
ủy quyền có thể là cá nhân, thương nhân hay tổ chức tùy thuộc vào hành vi được ủy quyền.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

20

Lớp: K49p3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: THS. Trần Ngọc Diệp

Trong khi đó, các chủ thể tham gia HĐĐL gồm bên giao đại lý và bên đại lý đều phải là
thương nhân. HĐĐL có thể được giao kết dưới hình thức HĐĐL bao tiêu, HĐĐL độc
quyền, tổng đại lý và các hình thức đại lý khác mà các bên thỏa thuận, song về cơ bản
HĐĐL phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương (Điều 168 Luật thương mại 2005).
*Phân biệt giữa hợp đồng múa bán hàng hóa, hợp đồng phân phối và HĐĐL:
Phân phối là một hoạt động thương mại phổ biến trong quá trình tiêu thụ hàng hóa của
các thương nhân, nhưng Luật thương mại 2005 lại không quy định cụ thể về việc điều chỉnh
hoạt động này. Khái niệm phân phối trong hoạt động thương mại quốc tế được hiểu là việc
nhà phân phối mua hàng hóa từ nhà sản xuất trong phạm vi hợp đồng dài hạn được ký kết
giữa nhà phân phối và nhà sản xuất và nhà phân phối nhân danh chính mình bán lại hàng
hóa trong phạm vi một thị trường nhất định đã thỏa thuận trong hợp đồng đó. Hợp đồng
phân phối trong trường hợp này được hiểu là sự thỏa thuận giữa người bán (nhà sản xuất,
nhà xuất khẩu) và người mua (nhà phân phối), trong đó người bán giao cho người mua
quyền kinh doanh một loại hàng nhất định trên một phạm vi lãnh thổ xác định.

Hợp đồng phân phối mang bản chất pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng
có những đặc trưng nhất định để phân biệt với một hợp đồng mua bán cụ thể. Hợp đồng nhà
phân phối là một hợp đồng dài hạn và có tính chất là một hợp đồng khung trên cơ sở đó các
bên ký kết các hợp đồng mua bán cụ thể . Theo hợp đồng này nhà sản xuất có nghĩa vụ
thường xuyên bán hàng hóa dưới một nhãn hiệu thương mại nhất định cho nhà phân phối
và tương ứng nhà phân phối có nghĩa vụ mua hàng hóa của nhà sản xuất theo định kỳ và
bán lại hàng hóa đã mua trong một phạm vi lãnh thổ xác định. Đối với hợp đồng mua bán
hàng hóa, quan hệ mua bán trực tiếp không phát sinh qua trung gian. Bất kỳ chủ thể là cá
nhân, thương nhân hay tổ chức nào cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán
hàng hóa. Hợp đồng phân phối khác cơ bản so với HĐĐL ở các điểm sau:
- Thứ nhất: Về bản chất của hợp đồng, hợp đồng phân phối mang bản chất pháp lý
của một hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó nhà phân phối thực hiện việc mua đi bán lại
hàng hóa và khoản chênh lệch từ hành vi mua đi bán lại của nhà phân phối trong trường
hợp này gọi là lợi nhuận. Còn HĐĐL lại mang bản chất của hợp đồng dịch vụ. Bên đại lý
không phải là người mua hàng của bên giao đại lý, mà chỉ thực hiện hành vi bán hàng hóa
trên cơ sở ủy quyền định đoạt của bên giao đại lý, mục đích của bên đại lý không phải là lợi
nhuận từ khoản chênh lệch nhờ hành vi bán hàng của mình mà là khoản thù lao đại lý được
hưởng trên cơ sở HĐĐL.
- Thứ hai: về đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của hợp đồng phân phối là hàng
hóa. Sau khi được chuyển giao cho nhà phân phối hàng hóa này sẽ thuộc sở hữu của nhà
phân phối. Còn trong HĐĐL đối tượng của hợp đồng là công việc mua bán hàng hóa hoặc
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hương

21

Lớp: K49p3


×