Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

luận văn thạc sĩ Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển công nghệ cao ở hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.3 KB, 110 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ CAO...............7
1.1.Khái niệm FDI và phát triển công nghệ cao................................................7
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào phát triển công nghệ cao. .24
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố trong việc thu hút FDI để phát
triển công nghệ cao.........................................................................................30
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ CAO CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG NHỮNG NĂM QUA......................................................................40
2.1. Tình hình thu hút FDI của Thành phố Hà Nội.........................................40
2.2. Đánh giá chung về tác động FDI đến phát triển công nghệ cao ở Thành
phố Hà Nội......................................................................................................53
2.3. Những vấn đề đặt ra trong thu hút FDI đến phát triển công nghệ cao ở Hà
Nội hiện nay....................................................................................................74
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA FDI ĐẾN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ CAO Ở THÀNH
PHỐ HÀ NỘI.................................................................................................76
3.1. Mục tiêu và phương hướng thu hút FDI vào phát triển công nghệ cao ở
Thành phố Hà Nội...........................................................................................76
3.2. Những giải pháp để nâng cao hiệu quả của FDI đến phát triển công nghệ
cao ở Thành phố Hà Nội.................................................................................81
KẾT LUẬN..................................................................................................104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................106


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Phân loại các ngành công nghiệp chế tạo theo hàm lượng công
nghệ toàn cầu
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu tăng trưởng Kinh tế - Xã hội Hà Nội


Bảng 2.2. Tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá hiện hành
Bảng 2.3: Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Thủ đô Hà Nội và các
tỉnh Đồng Bằng Sông Hồng năm 2014.
Bảng 2.4: Số các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao được cấp phép
Bảng 2.5: Danh mục các dự án FDI đầu tư vào CNC theo lĩnh vực CNC giai
đoạn 2010 - 2014.
Bảng 2.6: Các hình thức FDI vào lĩnh vực công nghệ cao phân theo hình thức
đầu tư
Bảng 2.7: Các dự án đầu tư vào thành phố Hà Nội
Bảng 2.8: Trình độ công nghệ, thiết bị của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội (tỷ trọng % tính theo giá trị)
Biều đồ 2.1: Cơ cấu ngành theo quy mô vốn đầu tư các dự án FDI


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qúa trình toàn cầu hóa đang thúc đẩy mạnh mẽ sự hội nhập của các nước
vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Có thể nói, hiện nay hầu như không quốc
gia nào đứng ngoài quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không muốn tự cô
lập mình và rơi vào nguy cơ tụt hậu. Trong đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) là một hoạt động chiếm vị trí ngày càng quan trọng đối với cả nước đầu
tư và nước tiếp nhận đầu tư. Việc khai thác sử dụng FDI có hiệu quả, đang là
mục tiêu hàng đầu của nhiều nước trên thế giới, nhất là với các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam.
Hà Nội là Thủ đô của Việt Nam, là trung tâm chính trị, văn hóa-xã hội và
kinh tế của cả nước. Trong những năm qua lãnh đạo thành phố Hà Nội đã và
tiếp tục ban hành nhiều chính sách phát triển thủ đô, trong đó có chính sách
thu hút và sử dụng FDI một cách có hiệu quả để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Tính đến hết tháng 9/2014 có 294 dự án cấp mới và
điều chỉnh tăng vốn, tăng gần 11% so với năm 2013 và số vốn đạt gần 900
triệu USD tăng 8,6% so với năm 2013, đóng góp cho ngân sách đạt trên 12

ngàn tỷ đồng trong 9 tháng và ước chiếm 12% tổng thu ngân sách toàn thành
phố, nhóm DN nước ngoài đang dẫn đầu, chiếm tỷ trọng áp đảo trong xuất
khẩu với gần 4 tỷ USD và chiếm trên 48% lượng hàng hóa xuất khẩu của
thành phố. Khối DN này cũng là khối duy nhất xuất siêu từ giữa năm 2013 và
trong 9 tháng qua xuất siêu đạt 104 triệu USD.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh thu hút vốn quan trọng để thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. FDI cũng được đánh giá là kênh
quan trọng để thu hút công nghệ nguồn từ các nước có nguồn công nghiệp
tiên tiến vào Việt Nam nói chung và đối với Thủ đô Hà Nội nói riêng, góp

1


phần không nhỏ vào việc đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất –
kinh doanh và toàn bộ nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Theo
đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ, thời gian qua FDI đã góp phần thúc
đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ cao vào Thủ đô Hà Nội, từng bước
nâng cao năng lực sản xuất của một số ngành trong nước. Thông qua FDI,
trình độ công nghệ sản xuất của Thủ đô đã được nâng cao một cách rõ rệt so
với trước đây. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến với trình độ
hiện đại của thế giới như: bưu chính – viễn thông, dầu khí, xây dựng, cầu
đường…Đồng thời, nhiều doanh nghiệp của Thủ đô đã đổi mới hoặc nâng cấp
các trang thiết bị đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao của nền kinh tế.
Tuy hoạt động chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI đã có đóng
góp tích cực đối với đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực
công nghệ của các doanh nghiệp tại Thủ đô Hà Nội song vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp
trong toàn nền kinh tế. Hoạt động thu hút FDI vào phát triển công nghệ cao ở
Hà Nội hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Định hướng thu hút
công nghệ cao, công nghệ khuyến khích đầu tư chưa đạt mục tiêu đặt ra; mặc

dù công nghệ đưa vào qua kênh này hầu hết có trình độ bằng hoặc cao hơn
công nghệ sẵn có ở Việt Nam một chút, nhưng mới chỉ đạt mức trung bình
hoặc trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực; công tác thẩm định
công nghệ chưa được quan tâm đúng mức…
Để có thể nâng cao chất lượng và hiệu quả của nguồn vốn đầu tư trực
tiếp đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đối với hoạt động phát triển công nghệ cao
của Hà Nội thì cần có những nghiên cứu để đánh giá đúng thực trạng và đưa
ra những giải pháp mang tính chiến lược lâu dài. Với mong muốn góp phần
vào việc giải quyết vấn đề có ý nghĩa quan trọng thiết thực và mang tính cấp
bách này, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát

2


triển công nghệ cao ở Hà Nội hiện nay”. Để làm luận văn tốt nghiệp chuyên
ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang đóng vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng. Do đó,
chủ đề này đã trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài.
Một số công trình tiêu biểu đó là:
+ “FDI vào ngành công nghiệp trên địa bàn Hà Nội”(2006), luận văn
thạc sĩ của học viên Trần Văn Lưu, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu này chủ yếu đi sâu phân tích đánh giá thực trạng thu hút và sử
dụng FDI vào ngành công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
+ “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng phát
triển bền vững” (2008), luận văn thạc sĩ của học viên Trần Thị Tuyết Lan,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này tập trung đánh giá
thực trạng thu hút FDI ở tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng bền vững nhằm chỉ ra

những mặt mạnh, mặt yếu và đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở
tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng bền vững.
+ “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển kinh tế - xã hội ở
Thành phố Đà Nẵng”(2006), luận văn Thạc sĩ của học viên Nguyễn Văn Chiến,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này đã đi sâu phân tích
những tác động tích cực và hạn chế của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
ở thành phố Đà Nẵng, từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao tác động tích cực
của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng.
Ngoài ra có thể kế đến một số tác phẩm như:
- Đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu
công nghiệp tập trung Hà Nội”, Khoá Luận tốt nghiệp Vũ Thị Phương Thảo, lớp
CN 43B trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội.

3


- Luận văn Thạc sĩ, Đào Thị Hồng Lam “Thực trạng và giải pháp phát
triển các KCN tại tỉnh Hải Dương”, trường Đại Học Kinh Tế- ĐHQGHN.
- “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp”,
Trần Xuân Tùng,Nxb Chính trị Quốc Gia,Hà Nội-2005.
- “Kinh nghiệm thu hút vốn FDI của các nước ASEAN và vận dụng vào
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huy Thám (Luận án Tiến sĩ Kinh tế, năm 2009).
- Vũ Xuân Bình, “Đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn tiềm năng quan
trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục lý luận,
số 6-2002.
- “Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: Chính sách và
thực tiễn, PGS.TS Phùng Xuân Nhạ, Nxb Đại Học Quốc Gia, Hà Nội-2005
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã có nhiều đóng góp
quan trọng trong việc lam rõ những vấn đề lý luận về FDI, phân tích vai trò
của FDI, đưa ra những giải pháp chung để đẩy mạnh thu hút FDI vào nước ta,

cũng như một số địa phương trong thời gian tới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể về đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào phát triển công nghệ cao ở Hà Nội hiện nay. Vì vậy, việc nghiên
cứu vấn đề này là quan trọng và có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3.Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
3.1.Mục tiêu của luận văn
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào phát triển công nghệ cao ở Hà Nội hiện nay. Đề xuất những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển
công nghệ cao ở Hà Nội hiện nay.
3.2.Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát
triển công nghệ cao Việt Nam nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng

4


- Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát
triển công nghệ cao ở Hà Nội hiện nay, chỉ ra những tác động tích cực cần
phát huy và những tác động tiêu cực cần khắc phục. Nguyên nhân của những
tác động đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển công nghệ cao ở Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm nhiều phương diện, luận văn không
tập trung nghiên cứu FDI nói chung với tất cả các mặt của nó mà chỉ tập trung
nghiên cứu vấn đề tác động của FDI đến phát triển công nghệ cao ở Thành
phố Hà Nội dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị.
4.2.Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: luận văn nghiên cứu tác động của FDI đến phát triển
công nghệ cao trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề tác động của FDI đến phát
triển công nghệ cao củaThành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2009- 2014
và đề xuất những giải pháp đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước; Chủ trương, Chính sách của Thành
ủy, UBND thành phố Hà Nội; là những giá trị về lý luận khoa học của các
công trình nghiên cứu về thu hút vốn FDI.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là các phương pháp triết học duy
vật biện chứng; cụ thể là các phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp
thống kê, đối chiếu, so sánh...

5


6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về FDI, tổng kết những kinh
nghiệm thu hút và sử dụng FDI gắn với phát triển công nghệ cao của một số
tỉnh, thành phố trong nước để tham khảo
- Đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển kinh tế xã hội ở Hà Nội và làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực của FDI đến
vấn đề này ở Hà Nội
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp
nước ngoài đến phát triển công nghệ cao ở Hà Nội tới năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu như sau: ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
phát triển công nghệ cao

Chương 2.Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển công
nghệ cao ở Hà Nội trong những năm qua
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả của FDI đến
phát triển công nghệ cao ở Thành phố Hà Nội

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ CAO
1.1.Khái niệm FDI và phát triển công nghệ cao
1.1.1.Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1.1.1.Khái niệm
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng
quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư
trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu
trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment FDI) xảy ra khi nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản
ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.
Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác.Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản
lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.Trong những trường hợp đó, nhà đầu
tư thường hay được gọi là “công ty mẹ”và các tài sản được gọi là “công ty
con” hay “chi nhánh công ty”.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là một khoản đầu
tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế(nhà
đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền
kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng

trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế quốc gia khác.[2, tr13]
Tổ chức Hợp Tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài là một doanh nghiệp có tư cách

7


pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở
hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt
của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty.Tuy nhiên
không phải tất cả các quốc gia đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định
FDI.Trong thực tế có những trường hợp tỉ lệ sở hữu tài sản trong doanh
nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành
quản lý doanh nghiệp, tuy nhiên trong nhiều trường hợp mức vốn đầu tư lớn
hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp. [2, 13]
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1987 và được
bổ sung hoàn thiện qua 4 lần sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000) “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam
chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc xí nghiệp liên
doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài”
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là
việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào
quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực
thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình”.
1.1. 1. 2. Đặc điểm của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động di chuyển vốn của các cá nhân
và tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn
bộ hay từng phần cơ sở đó.Xuất phát từ khái niệm chúng ta có thể rút ra một

số đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Một là, các nhà đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu
vào vốn pháp định, tùy theo quy định của luật đầu tư mỗi nước. Vốn pháp
định trong dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là vốn tự có của chủ đầu tư được

8


quy định theo luật đầu tư. Sau khi góp vốn hợp lệ, nhà đầu tư có quyền tham
gia vào việc quản lý và điều hành dự án đầu tư. Ở Việt Nam, Luật đầu tư nước
ngoài quy định tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài tối thiểu không dưới 30%
vốn pháp định và không quy định giới hạn vốn tối đa. Ở Mỹ, tỉ lệ này được
quy định là 10%, một số nước khác là 20%.
Hai là, quyền quản lý dự án đầu tư phụ thuộc vào mức độ góp vốn của
mỗi bên. Nếu vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài là 100% thì nhà đầu tư nước
ngoài có toàn quyền quản lý doanh nghiệp.Tuy nhiên việc hoạt động của
doanh nghiệp có vốn góp nước ngoài cho dù dưới bất kì hình thức nào thì
cũng phải tuân theo quy định của nước sở tại.
Ba là, lợi nhuận mà nhà đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết
quả của hoạt động sản xuất kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
Bốn là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua
việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh
nghiệp đang hoạt động hoặc mua cơ phiếu để thôn tính hoặc xát nhập các
doanh nghiệp với nhau
Năm là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với
việc di chuyển vốn mà còn gắn với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến
thức và kinh nghiệm quản lý, tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía
nhận đầu tư.
Sáu là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay gắn liền với các
hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.Các công ty mẹ có

thể thông qua các công ty con để trực tiếp đầu tư vào các quốc gia có công ty
con đó.
1.1.1.3. Các hình thức cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân làm 2 loại là đầu tư theo
chiều ngang và đầu tư theo chiều dọc.

9


+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang (Horizontal FDI): là
một công ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất
họ đang có lợi thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó, với lợi thế này họ
muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính
thị trường nước ngoài. Hình thức này thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền
mà Mỹ, Nhật Bản đang dẫn đầu việc đầu tư này ở các nước phát triển.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc (Vertical FDI): Khác với
các hình thức đầu tư theo chiều ngang, hình thức đầu tư theo chiều dọc với
mục đích khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ
như: lao động, đất đai của các nước nhận đầu tư. Do các nhà đầu tư thường
chú ý khai thác lợi thế cạnh tranh của các yếu tố đầu vào giữa các khâu trong
quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm trong phân công lao động quốc tế nên
các sản phẩm thường được hoàn thiện qua các nước nhận đầu tư. Sau đó các
sản phẩm này lại được nhập khẩu về nước đầu tư hay xuất khẩu sang nước
khác. Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại các nước đang phát triển
- Xét về hình thức sở hữu, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có các
hình thức sau:
+ Doanh nghiệp liên doanh(Joint venture enterprise): đây là hình thức
đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là
doanh nghiệp. Doanh nghiệp mới này do 2 hoặc nhiều bên hợp tác thành lập

tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh cùng góp vốn đầu tư. Hình
thức này có các đặc trưng: Pháp nhân mới được thành lập theo hình thức công
ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ
nhà. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do 2 hay nhiều bên hợp tác
thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh giữa các bên đầu tư để kinh doanh
+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài(Enterprise with one
hundred percent foreign owned capital): đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở

10


hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài được hình thành bằng toàn bộ vốn
nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều
hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này
được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt
Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Vốn
pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài đóng góp, vốn pháp
định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual business co-operation BBC)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có
thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ
việc thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên. Hình thức này là
hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh
doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập pháp
nhân mới
+ Đầu tư theo hợp đồng BOT (Building Operate Tranfer)
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một
số mô hình hay một số cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây dựng
kết cấu hạ tầng vẫn được giành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án
xây dưng BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận

hành một công trình mà thường do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể
là nhà máy điện, cầu, đường…vào cuối giai đoạn vận hành doanh nghiệp tư
nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính phủ.
Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ
quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu
hạ tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp hiện đại hóa công trình) và kinh doanh trong
một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển
giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.

11


+ Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO (Building Tranfer
Operate): Là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và nhà đầu tư để xây dựng một công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng
xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và
được chính phủ nước nhủ nhà giành cho quyền kinh doanh công trình đó hoặc
công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại vốn đầu tư và có lợi nhuận
thỏa đáng về công trình đã xây dựng và chuyển giao.
+ Hợp đồng xây dựng chuyển giao (Building Tranfer): sau khi xây
dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ
nhà và được chính phủ nước nhủ nhà thanh toán bằng tiền hoặc bằng tài sản
nào đó tương xứng với vốn đầu tư đã bỏ ra và một tỉ lệ lợi nhuận hợp lý.
Cùng với sự gia tăng của dòng vốn FDI ngày càng xuất hiện nhiều hình
thức đầu tư mới, đa dạng nhằm đưa lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư và nước
nhận đầu tư. Nguyên nhân cơ bản của sự di chuyển vốn đầu tư dưới hình thức
này là do có sự chênh lệch về tỉ xuất lợi nhuận xuất phát từ lợi thế so sánh khác
nhau giữa các quốc gia. Điều kiện thuận lợi cho di chuyển vốn đầu tư là xu thế
tự do hóa thương mại, đầu tư và tài chính ngày càng tăng trên thế hiện nay.
1.1.2.Phát triển công nghệ cao

1.1.2.1.Khái niệm công nghệ cao
Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD): Tổ chức này đã đưa ra
một khái niệm rất khái quát về CNC như sau: CNC là các công nghệ có tỷ lệ
chi cho NC&PT lớn, có ý nghĩa chiến lược đối với quốc gia, các sản phẩm và
quy trình công nghệ được đổi mới nhanh chóng, có tác động mạnh mẽ đối với
sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế trong NC&PT, sản xuất và chiếm lĩnh thị
trường trên quy mô thế giới.
Tại Mỹ và Nhật Bản công nghệ cao được hiểu là công nghệ tiên tiến,
công nghệ hàng đầu với ba đặc điểm:

12


- Là công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các sản phẩm
giá trị gia tăng, có đổi mới quan trọng;
- Là công nghệ đòi hỏi nhân lực trình độ cao xuyên suốt quá trình từ
nghiên cứu - thiết kế - chế tạo sản phẩm;
- Là công nghệ đòi hỏi chi phí lớn cho nghiên cứu, phát triển, thử
nghiệm, thương mại hoá, sản xuất và phân phối sản phẩm.1
Tại các nước trong khu vực (Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Thái
Lan,...) những nội dung chủ yếu của CNC cũng được thống nhất như khái
niệm của OECD. Tuy nhiên, do trình độ phát triển kinh tế và ý chí của các
nhà lãnh đạo của mỗi nước khác nhau nên những tiêu chí về công nghệ cao
như tỷ lệ chi cho NC&PT, nhân lực nghiên cứu KH&CN được quy định ở
những mức khác nhau.
Khái niệm CNC ở Việt Nam đã được quy định tại một số văn bản như:
Nghị định số 99/2003/NĐ-CP ngày 28/08/2003 về Quy chế khu CNC và Luật
Chuyển giao công nghệ - 2007. Trong Dự thảo Luật Công nghệ cao, những
nội dung chủ yếu của khái niệm CNC vẫn được giữ nguyên, không đổi và
hoàn thiện như sau:

Công nghệ cao là công nghệ được tích hợp từ các thành tựu khoa
học và công nghệ tiên tiến; tạo ra các sản phẩm có tính năng vượt trội,
chất lượng và giá trị gia tăng cao; có khả năng hình thành ngành sản xuất,
dịch vụ mới; tác động mạnh đến sự phát triển nhiều ngành, lĩnh vực kinh
tế, xã hội, quốc phòng và an ninh; đòi hỏi chi phí lớn và nhân lực trình độ
cao cho nghiên cứu và phát triển.
OECD cũng có sự phân loại công nghiệp. OECD có hai cách tiếp cận
khác nhau: tiếp cận theo lĩnh vực, ngành và tiếp cận theo sản phẩm. Tiếp cận
theo ngành hay lĩnh vực là phân loại công nghiệp dựa theo tỉ lệ công nghệ của
1 Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế của Mỹ (CSIS)

13


chúng, trong khi đó tiếp cận theo sản phẩm lại dựa vào sản phẩm cuối cùng.
Việc phân loại của OECD như sau (từ năm 1973):
Tên ngành công nghiệp

Total R&D-intensity
(1999, in %)

ISIC Rev. 3

Công nghệ cao
công nghệ sinh học và dược phẩm

10.46

2423


Máy bay & Tàu vũ trụ

10.29

353

9.69

33

7.48

32

7.21

30

3.60

31

3.51

34

3.11

352+359


Hóa chất & sản phẩm hóa chất

2.85

24 (excl. 2423)

Máy móc và thiết bị

2.20

29

Thiết bị y tế và các dụng cụ quang
học-chính xác
Vô tuyến, truyền hình và các thiết
bị thông tin
thiết bị văn phòng, kế toán & máy
tính
Công nghệ vừa
Máy và thiết bị điện
Xe máy, xe ô tô mooc & xe bán
mooc
Đường sắt & các phương tiện vận
tải

Như vậy, Công nghệ cao là công nghệ vượt lên mức cao nhất của
công nghệ hiện có nhờ đưa vào các kết quả nghiên cứu khoa học tiên tiến.
Sản phẩm công nghệ cao là sản phẩm được tạo ra nhờ áp dụng công nghệ
cao thông qua quá trình thiết kế hoặc sản xuất sản phẩm. Đây là những sản
phẩm luôn được đổi mới, cấu trúc khá phức tạp, sử dụng ít năng lượng và ít

tài nguyên.

14


1.1.2.2.Công nghiệp công nghệ cao
Công nghiệp CNC là ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm CNC.
Công nghiệp CNC được đặc trưng bởi sự đổi mới liên tục về công nghệ, sản
phẩm. Như vậy, doanh nghiệp CNC thường dành nhiều nguồn lực cho cải
tiến, sáng tạo công nghệ và sản phẩm. Ngành công nghiệp CNC có những đặc
điểm chủ yếu sau:
Đặc điểm nổi bật là sự tích hợp các thành tựu KH&CN. Do vậy, trong
lĩnh vực CNC, các ngành công nghiệp gắn liền với nhau và liên quan đến
nhiều lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn, lĩnh vực vật liệu mới liên quan nhiều
đến điện tử, tin học, cơ-điện tử, sinh học và năng lượng mới.
Năng suất lao động tương đối cao do sử dụng hàm lượng trí tuệ, kỹ thuật,
kỹ năng và thông tin, cao hơn hẳn các ngành công nghiệp thông thường.
Cấu trúc sản phẩm khá phức tạp và đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều ngành
công nghiệp nhằm đáp ứng tính đa dạng của công nghệ và sản phẩm đầu
vào. Các ngành công nghiệp hỗ trợ không chỉ bao hàm việc sản xuất hàng
hóa, mà còn cả những dịch vụ khác nhau như thiết kế, kỹ thuật, tư vấn, sản
xuất thử, thử nghiệm, kiểm tra và đánh giá chất lượng sản phẩm, chuyển
giao công nghệ.
Tiềm năng thị trường lớn. Thị trường của sản phẩm CNC được mở rộng
cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng. Vì vậy,
cạnh tranh toàn cầu để xuất khẩu các sản phẩm CNC là điều rất quan trọng.
Quá trình sản xuất công nghiệp CNC và sản phẩm của nó thường sử
dụng rất ít nguyên liệu, năng lượng, bởi lẽ chúng được phát triển với mục tiêu
hạn chế chi phí các nguồn nguyên liệu và năng lượng không tái tạo, cũng như
nhằm bảo vệ môi trường. Cũng vì vậy, phần lớn sản xuất công nghiệp CNC

đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu khá lớn. Hơn nữa, những sản phẩm công nghiệp
CNC thường không cồng kềnh, mà “sáng, mỏng, nhỏ và nhẹ”.

15


Về mặt quản lý kinh doanh, công nghiệp CNC là kinh doanh "mạo
hiểm cao và được bù đắp cao". Việc đổi mới các hoạt động NCPT liên tục
cũng như việc thường xuyên tìm kiếm các thị trường mới là rất tốn kém và
mạo hiểm. Vì vậy, đòi hỏi một sự cạnh tranh gay gắt, tuy nhiên lợi nhuận cao
sẽ là phần bù đắp thỏa đáng cho những hoạt động kinh doanh có độ mạo hiểm
cao này.
1.1.2.3. Khu công nghệ cao
Sự hình thành và phát triển các khu công nghệ (Technology Park) là
yếu tố rất quan trọng và không thể thiếu để thúc đẩy nhanh sự ra đời các
công nghệ mới. Từ khu công nghệ đầu tiên và cũng rất tiêu biểu cho thế hệ
khu công nghệ thứ 1 (thập niên 50 - 60 của thế kỷ XX) là Khu Thung Lũng
Silicon (Mỹ) đến các khu CNC xuất hiện gần đây trong bối cảnh toàn cầu
hóa (Thế hệ thứ 3), đã có nhiều thuật ngữ khác nhau, như: công viên khoa
học, công viên công nghệ, trung tâm công nghệ, trung tâm đổi mới công
nghệ, công viên KH&CN, trung tâm CNC, song về bản chất đều có một số
điểm chung. Thuật ngữ “Khu CNC” được dùng chỉ một trung tâm, một khu
vực riêng biệt, thuộc quyền quản lý và sở hữu của các công ty, trường đại
học, viện nghiên cứu, của địa phương, quốc gia hoặc của nhiều thành phần
khác nhau. Hoạt động của các khu này nhằm mục đích trao đổi, sáng tạo,
phát triển, ươm tạo các công nghệ mới, thúc đẩy hình thành nền công
nghiệp CNC và góp phần quan trọng cho việc xây dựng năng lực công
nghệ của quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, có thể quan niệm một
cách khái quát: Khu CNC là nơi tiếp thu CNC của thế giới, là cửa ngõ nhập
khẩu các CNC của các công ty đa/xuyên quốc gia có CNC hàng đầu thế

giới, là nơi làm việc có đủ điều kiện để sáng tạo của các nhà khoa học quốc
tế và trong nước. Nơi đây, trong giai đoạn đầu sẽ tiếp thu chuyển giao công
nghệ và sau đó là sáng tạo các CNC. Trong vai trò cửa khẩu trên siêu xa lộ

16


thông tin, với môi trường thuận lợi cho việc đầu tư CNC, quá trình chuyển
giao thực hiện tại chính khu vực sản xuất, hoặc NCPT, đào tạo, giúp cho
việc tiếp thu và sử dụng CNC có hiệu quả. Khu CNC thường được quy
hoạch giới hạn trong một vùng lãnh thổ có quy mô lớn nhỏ khác nhau,
nhưng phải là địa điểm có môi trường tốt nhất để:
- Đầu tư công nghiệp CNC
- Sản xuất các sản phẩm CNC
- Chuyển giao, thích nghi CNC
- Dịch vụ-thương mại các sản phẩm CNC
- Nghiên cứu, ươm tạo và phát triển các CNC
- Tăng cường năng lực công nghệ nội sinh của đất nước
- Đào tạo, huấn luyện kỹ năng CNC
1.1.2.2. Phân loại các lĩnh vực và ngành công nghiệp công nghệ cao
Đến nay, trên thế giới đã cơ bản thống nhất với nhau có 6 lĩnh vực công
nghệ cao sau đây để nghiên cứu phát triển trong thế kỷ XXI:
- Công nghệ thông tin - CNTT là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành
khoa học và công nghệ liên quan đến thông tin và các quá trình xử lý thông
tin. Theo đó, CNTT là hệ thống các tri thức khoa học, các kỹ thuật và phương
tiện hiện đại để thu thập, xử lý, lưu trữ, sản xuất và truyền thông tin nhằm
khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin vào mọi lĩnh vực
hoạt động của con người. Công nghệ thông tin chính là lực lượng nòng cốt và
xung kích của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, dẫn dắt nhân
loại bước vào kỷ nguyên trí tuệ.

- Công nghệ sinh học - CNSH là một tập hợp các ngành khoa học
(sinh học phân tử, di truyền học, vi sinh vật, sinh hóa học và công nghệ học)
nhằm tạo ra các công nghệ khai thác ở quy mô công nghiệp các hoạt động
sống của các vi sinh vật, tế bào thực vật và động vật. Sản phẩm đặc trưng là

17


giống cây, con, vi sinh vật có chất lượng cao và các sản phẩm chưa từng có
dùng trong nông nghiệp, công nghiệp, y tế... Cùng với các ngành công nghệ
mũi nhọn khác (công nghệ thông tin và công nghệ vật liệu mới), CNSH sẽ
góp phần khai thác tối ưu các nguồn lực của đất nước phục vụ phát triển sản
xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và chuẩn bị những tiền đề
cần thiết về mặt công nghệ trong thế kỷ XXI.
-Công nghệ vật liệu mới dựa trên khoa học vật liệu, khoa học về cấu
trúc các hệ đông đặc, khoa học mô phỏng hệ nguyên tử. Sản phẩm chủ yếu
của nó là các vật liệu chức năng (ví dụ: vật liệu bán dẫn, siêu dẫn, laze...), vật
liệu siêu bền, siêu cứng, siêu chịu nhiệt, vật liệu compozit, vật liệu nanô v.v..
Với công nghệ nanô, con người có khả năng thao tác vật liệu ở mức
phân tử hay nguyên tử, mở ra khả năng điều khiển cấu trúc vật liệu. Nó cho
phép chế tạo những vật liệu có các chức năng rất đặc thù như thăm dò môi
sinh và xử lý thông tin. Vật liệu được thao tác ở cấp nanô sẽ có tiềm năng rất
lớn do có các tính chất hoàn toàn khác với những vật liệu chế tạo trước đó.
- Công nghệ năng lượng mới bao gồm năng lượng hạt nhân, năng
lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt, năng lượng hải dương v.v..., trong đó
đặc biệt là lợi dụng sự phát triển của năng lượng hạt nhân và năng lượng mặt
trời, nhằm thoát khỏi sự ràng buộc vào loại năng lượng hóa thạch (dầu mỏ và
than đá), mở ra một thời đại năng lượng mới. Song, đến nay hầu hết các nước
trên thế giới rất coi trọng công nghệ năng lượng hạt nhân. Sản phẩm chủ yếu
là nhà máy nhiệt, nhà máy điện hạt nhân, các phương tiện giao thông vận tải

dùng năng lượng hạt nhân, các thiết bị y tế dùng năng lượng hạt nhân v.v…
- Công nghệ hàng không vũ trụ dựa trên các thành tựu hiện đại của
khoa học về Vũ trụ, về vật lý địa cầu, vật lý khí quyển và vùng lân cận trái
đất, vật lý thiên văn của Thái dương hệ. Các sản phẩm điển hình: vệ tinh nhân
tạo, tàu vũ trụ, tàu con thoi v.v..

18


Công nghệ hàng không vũ trụ tạo ra một loạt các sản phẩm, dịch vụ
chưa từng có: thông tin viễn thám, thông tin liên lạc toàn cầu, thông tin địa lý
toàn cầu v.v...
- Công nghệ hải dương bao gồm việc sử dụng, khai thác tài nguyên
sinh vật, khoáng vật, hoá học, động lực v.v.. trong lòng các đại dương.
1.1.1.6. Các ngành công nghiệp công nghệ cao
Công nghiệp CNC được đặc trưng bởi sự đổi mới liên tục các công
nghệ, sản phẩm. Doanh nghiệp công nghệ cao thường dành nhiều nguồn lực
cho việc cải tiến, sáng tạo công nghệ và sản phẩm. Tại các nước công nghiệp
hoá, các ngành công nghệ cao là những nguồn sáng tạo việc làm và thuê
mướn nhân công có năng lực, được trả lương cao hơn so với mức trung bình.
Các ngành này có tỷ lệ tăng trưởng cao hơn so với nền kinh tế nói chung và
chiếm một tỷ trọng ngày càng tăng trong thương mại nội địa và quốc tế, là
phần đóng góp chủ yếu cho xuất khẩu hàng công nghiệp ở hầu hết các nước.
Ngoài ra, các ngành này còn có hàm lượng vốn, NCPT cao và rất có hiệu quả
trong việc sáng tạo ra tri thức và công nghệ mới. Chúng hoạt động dựa trên
một tốc độ phát triển NCPT rất nhanh, thường xuyên tung ra thị trường các
hàng hoá và dịch vụ mới.
Công nghiệp công nghệ cao còn được gọi là công nghiệp dựa trên khoa
học và công nghệ, ở đó khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, sản phẩm có hàm lượng khoa học cao, năng suất lao động rất cao.

Hiện nay, 10 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học cao nhất là:
hoá chất y học và sản phẩm thực vật; sản phẩm sinh học, ngoại trừ sản phẩm
dùng cho chẩn đoán; phần mềm bao gói sẵn; sản phẩm chẩn đoán in vitro và in
vivo; điện thoại và thiết bị truyền thông; dược phẩm; nghiên cứu thương mại;
thiết bị điện dùng trong y học; thiết bị truyền thông máy tính và các dụng cụ
phân tích trong phòng thí nghiệm.
Mặc dù 10 ngành công nghiệp này là các ngành có hàm lượng khoa học
cao, nhưng không nhất thiết tất cả chúng đều có tác động lớn đến nền kinh tế.

19


Một số ít ngành, được coi là các ngành công nghiệp công nghệ siêu cao, đứng
hàng đầu các ngành công nghiệp CNC: dược phẩm; điện thoại và thiết bị
truyền thông, sản phẩm sinh học, ngoại trừ sản phẩm dùng cho chẩn đoán;
thiết bị bán dẫn và thiết bị có liên quan và phần mềm bao gói sẵn. Các ngành
này có cường độ nghiên cứu cao, chi phí NCPT lớn và có tăng trưởng doanh
thu cao hơn tăng trưởng doanh thu bình quân.
Bảng 1.1. Phân loại các ngành công nghiệp chế tạo theo
hàm lượng công nghệ toàn cầu
Công nghiệp Công nghiệp công
công nghệ cao nghệ trung bình cao
Hàng không
vũ trụ
Máy tính,
máy văn
phòng
Điện tử- viễn
thông
Dược phẩm


Thiết bị khoa học

Công nghiệp công
nghệ trung bình
thấp
Sản phẩm cao su và
chất dẻo

Ô-tô
Máy điện
Hóa chất
Các thiết bị vận tải
khác
Máy không dùng
điện

Đóng tàu

Công nghiệp
công nghệ thấp
In ấn, giấy
Dệt, may

Các ngành chế tạo
Thực phẩm, đồ
khác
uống và thuốc lá
Luyện kim màu
Gỗ và đồ gỗ

Sản phẩm khoáng
phi kim loại
Các sản phẩm kim
loại chế tạo
Lọc dầu
Luyện kim đen
Nguồn: Website Bộ KH&CN.

1.1.3.Sự cần thiết phải thu hút FDI vào phát triển công nghệ cao
Trước hết FDI là ngồn bổ xung vốn đầu tư. Giải quyết tình trạng thiếu
vốn ở các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển thường trong vòng
luẩn quẩn như sau:

20


Sản xuất
không hiệu
quả

Thu nhập
thấp

Đầu tư thấp

Tích lũy thấp

Khi có FDI ⇒ Đầu tư tăng ⇒ Quy mô sản xuất, hiệu quả sản xuất tăng
⇒ Thu nhập tăng ⇒ Tích luỹ tăng ⇒ Tạo đà phát triển cho giai đoạn sau.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ gúp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao

thu nhập, ổn định đời sống dân cư:
+ Khi chưa có FDI: Đầu tư thấp ⇒ quy mô sản xuất nhỏ ⇒ Sử dụng ít
lao động ⇒ thất nghiệp
+ Khi có FDI: Đầu tư tăng ⇒ quy mô SX tăng ⇒ Sử dụng nhiều lao
động, tạo nhiều việc làm ⇒ Giảm thất nghiệp
Tăng thu nhập dân cư.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ kích thích quá trình SX: FDI ⇒ đầu tư
tăng ⇒ sản xuất tăng.
Cầu đầu vào tăng (Nguyên vật liệu) tăng dẫn đến tăng sản xuất cung
cấp đầu vào (NVL)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cải thiện cán cần thanh toán, do khoản
mục vốn tăng thêm, mặt khác đầu tư trực tiếp nước ngoài thường hoạt động
trong các lĩnh vực sản xuất khẩu do đó gảm chi ngoại tệ và tăng thu ngoại tệ

21


từ hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do vậy sẽ
làm cán cân thanh toán dịch chuyển theo chiều thặng dư. Hầu hết các nước
đang phát triển ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đẩy nhanh quá trình tiếp nhận công nghệ ở
các nước tiếp nhận đầu tư: Các nước đi đầu tư thường có tiềm lực về vốn, có
điều kiện để nghiên cứu triển khai công nghệ kỹ thuật cao, luôn xuất hện công
nghệ mới dẫn tới xuất hiện công nghệ hạng hai, công nghệ hạng ba. Từ đó
dẫn tới nhu cầu chuyển giao công nghệ. Trong khi nước sở tại khan hiếm vốn
không có điều kiện nghiên cứu nên mặt bằng công nghệ thường thấp hơn,
luôn có nhu cầu tiếp nhận công nghệ song cũng rất hạn chế việc tiếp nhận
công nghệ thông qua con đường quan hệ thương mại vì không có vốn. Nên
thông qua con đường FDI để tiếp nhận công nghệ là chủ yếu. Với hình thức
này nước tiếp nhận có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới và tận dụng được

các công nghệ hạng hai đã lỗi thời ở nước đối tác nhưng còn tiên tiến hơn so
với công nghệ trong nước với chi phí thấp, tiết kiệm được thời gian nghiên
cứu, có điều kiện đi tắt đón đầu rút ngắn khoảng cách về mặt bằng công nghệ
kỹ thuật.
Thông qua FDI các nước nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thể
giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty đa quốc gia thực
hiện mà các công ty có lợi thể về việc tiếp cận với khách hàng bằng những
hợp đồng dài hạn dựa trờn cơ sở những thanh thế và uy tín của họ về chất
lượng, kiểu dáng của sản phẩm và việc giữ đúng thời hạn...
Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài học hỏi được kinh
nghiệm kinh doanh, nâng cao hiệu quả quản lý, và tác phong lao động của các
nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm kinh doanh, có khả năng quản lý hiệu
quả. Trong quá trình hơp tác: kinh doanh, quản lý...Sẽ nâng cao hiệu quả quản
lý, kinh nghệm kinh doanh cho nước tiếp nhận. Ngoài ra đầu tư trực tiếp còn

22


góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nước đang phát thiển thường có cơ
cấu kinh tế bất hợp lý, chủ yếu phát triển khu vực một do không có nhiều vốn.
Vì vậy FDI sẽ cung cấp vốn để đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý hơn,
dần dần mang tính chất của một nền kinh tế phát triển.
Thực tế ở Việt Nam, trong những năm qua, FDI đã góp phần quan trọng
thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ, từng bước nâng cao năng lực sản
xuất trong nước, đặc biệt ở các lĩnh vực dầu khí, giao thông, xây dựng, cơ khí
chế tạo, điện tử - viễn thông - tin học…
 Thông qua FDI Việt Nam đã có nhiều công nghệ mới, tiên tiến, sản
xuất ra các sản phẩm mà trước đây chưa từng có.
 Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài thông qua FDI đã hạn chế
đến mức tối đa nhập khẩu nhiều loại hàng hóa thuộc các lĩnh vực dầu khí, sản

xuất vật liệu xây dựng mới, hàng điện tử gia dụng, phương tiện giao thông,…
 DN FDI tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao với hình thức,
mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu
sản phẩm ra nước ngoài… Có doanh nghiệp FDI đã tổ chức sản xuất sản
phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ cao và xuất khẩu gần 100% sản phẩm ra thị
trường nước ngoài ở các lĩnh vực điện tử, quang cơ - điện tử như Công ty
TNHH Nidec Tosok, Muto, Nissei… Có DN đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu phát triển như Công ty TNHH Renesas Việt Nam với mục tiêu nghiên cứu,
phát triển và thiết kế các phần cứng (vi mạch) và các phần mềm chức năng
cho IC bán dẫn (mạch tích hợp),…
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào phát triển
công nghệ cao
1.2.1. Nhân tố vĩ mô
* Các nhân tố về kinh tế, chính trị và xã hội.

23


×