Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

KINH NGHIEM DAY VVAN NUOC NGOAI 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 31 trang )

Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
MỘT VÀI KINH NGHIỆM ĐỂ DẠY VÀ HỌC TỐT
PHẦN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI – NGỮ VĂN 11
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Bộ phận văn học nước ngoài ở trường Trung học phổ thông (THPT) thật sự là
mảng khó dạy đối với giáo viên, tuy mới nhìn qua tưởng chừng như ngược lại, vì mảng
văn học ít nhiều xa lạ này dễ gây hứng thú cho học sinh; Hơn nữa những tác phẩm tuyển
chọn đưa vào sách giáo khoa toàn là những đỉnh cao nổi tiếng cổ, kim, đông tây đã được
thời gian sàng lọc. Đó thực sự là những áng thơ văn long lanh như châu ngọc cả về hình
thức lẫn nội dung.
Ở trường Đại học, công việc giảng dạy được chuyên môn hóa triệt để. Mỗi thầy
cô chỉ phụ trách một nền văn học, thậm chí chỉ một giai đoạn văn học, một tác giả cụ thể
nên có điều kiện đi sâu, nắm bắt văn học không tách rời với chất liệu ngôn ngữ và bối
cảnh xã hội, lịch sử, văn hóa của mỗi nước hoặc từng khu vực có tính đặc thù trên thế
giới. Boalô có viết trong Nghệ thuật thơ ca: “Điều gì nhận thức rõ thì diễn đạt rõ
ràng”. Ở Trường THPT, người giáo viên môn Ngữ Văn phải đảm đương cả Văn học
Việt Nam lẫn văn học nước ngoài từ Châu Á qua Châu Âu, Châu Mỹ, từ những anh
hùng ca ra đời nhiều thế kỷ trước Công nguyên đến những tác phẩm hiện đại. Với kiến
thức “tràng giang đại hải” như thế, làm sao có thể làm chủ mảng văn học nước ngoài?
Đã thế, chương trình ở THPT những năm gần đây có nhiều đổi mới. Giáo viên
đứng trước những khó khăn mới đối với các tác phẩm văn học nước ngoài. Giáo viên lại
đứng trước một thử thách nữa là tình hình nghiên cứu giảng dạy văn học ở nước ta và
trên thế giới trong những năm vừa qua có nhiều đổi mới. Hướng tiếp cận thi pháp có
nhiều thay đổi. Tất nhiên, vấn đề này không chỉ đặt ra đối với riêng phần văn học nước
ngoài.
Chương trình Ngữ Văn 11đã thừa kế chương trình cũ, giữ lại những tác giả tiêu
biểu: Sếch-pia (Anh), V. Huy-gô (Pháp), Pu-skin, (Nga), Ta-go (Ấn Độ); thêm vào đó là
Sê-Khốp (Nga) và nhà lí luận chính trị, triết học kiệt xuất Ăng-ghen.
Như vậy là vị trí của phần văn học nước ngoài được nâng cao và có chọn lọc, mặc
dù tỉ lệ số bài dạy không nhiều. Số tiết văn học nước ngoài chiếm khoảng 7.8% (10 tiết)
(chương trình văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11).


Trước tình hình ấy, để khắc phục các khó khăn đã nêu, nhằm đáp ứng yêu cầu của
việc dạy và học phần văn học nước ngoài – Ngữ văn 11 được tốt, trong sáng kiến kinh
nghiệm Một vài kinh nghiệm để dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn
11, tôi sẽ trình bày hướng tiếp cận theo thể loại; tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh
sáng tác tác phẩm; hướng triển khai từng bài văn học nước ngoài trên lớp, sao cho giáo
viên chủ động trong giờ dạy và học sinh dễ dàng lĩnh hội tác phẩm.
Qua đề tài này, tôi mong muốn những vấn đề được tiếp cận sẽ góp những kinh
nghiệm nhỏ với đồng nghiệp trong việc giảng dạy phần văn học nước ngoài để giúp học
sinh cảm thụ tốt hơn, đồng thời đảm bảo được trọng tâm nội dung bài học với lượng
thời gian hạn định. Qua đó, người giáo viên có thể tự tin thiết kế bài giảng và học sinh
có thể tiếp thu tốt những tiết học này. Đó là lí do tôi chọn đề tài này.
SKKN: Đào Vân Anh 1
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ TÀI:
1. Thuận lợi:
a. Về phía giáo viên :
Được sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, Sở GD&ĐT Đồng Nai đã tổ chức cho
toàn thể giáo viên THPT trong tỉnh học tập về phương pháp giảng dạy mới; tổ chức
những báo cáo chuyên đề về văn học nước ngoài, cập nhật những nội dung chương trình
mới, những hướng tiếp cận bài mới để giáo viên trong tỉnh có cơ hội trao đổi kinh
nghiệm, học tập và trau dồi kiến thức để cùng nhau tiến bộ, góp phần phát triển nền
giáo dục nước nhà.
Bên cạnh đó, giáo viên trong tổ Văn của trường, nhiều người có tuổi đời cũng như
tuổi nghề, nên có tinh thần trao đổi về kiến thức, kinh nghiệm giảng dạy, biết đoàn kết
giúp đỡ nhau để nâng cao chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm.
b. Về phía học sinh:
Đa số học sinh có tinh thần cầu tiến, ham học hỏi, thích tiếp cận cái hay, cái lạ
của văn học nhân loại.
2. Khó khăn
a. Về phía giáo viên:

Việc thay đổi sách giáo khoa về nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy
có nhiều đổi mới, nên ít nhiều gây sự lúng túng cho giáo viên. Trước đây, giáo viên
giảng dạy theo lối truyền thống, sử dụng phương pháp thuyết giảng là chủ yếu. Hiện
nay, theo yêu cầu đổi mới về phương pháp giảng, giáo viên giữ vai trò chủ đạo, hướng
dẫn học sinh lĩnh hội tri thức, “học sinh là trung tâm”, “học sinh tích cực”. Chương trình
cũng như nội dung bài học có sự thay đổi về thời lượng tiết dạy, cách ghi bảng, hướng
tiếp cận bài dạy, Những yêu cầu đó đòi hỏi người giáo viên phải sáng tạo, chọn lọc tri
thức trong tiết dạy để kích thích sự ham học, tạo tâm thế chủ động lĩnh hội kiến thức
mới, giúp học sinh ngày càng tự tin và hoàn thiện bản thân mình hơn.
Bên cạnh đó, tài liệu tham khảo phần văn học nước ngoài dành cho giáo viên trên
thị trường hiện nay quá nhiều, giáo viên gặp không ít khó khăn trong việc lựa chọn sách
tham khảo.
b. Về phía học sinh:
Học sinh ở trường tôi học lực trung bình chiếm tỉ lệ cao, khả năng tư duy, ý thức
học tập của các em còn hạn chế mà phải thích ứng với phương pháp học tập mới – “học
sinh tích cực, chủ động” nên đã ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Nhiều em còn
nhút nhát, chưa mạnh dạn phát biểu ý kiến, chưa dám chủ động trình bày cách cảm thụ,
cảm nhận của riêng mình. Bên cạnh đó, trong tiết văn học nước ngoài, chúng ta tiếp
nhận ngôn ngữ trên văn bản dịch nên ít nhiều ảnh hưởng đến cảm xúc ở tâm thế tiếp
nhận, đến việc lĩnh hội kiến thức mới của bài học.
3. Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu:
Trước khi nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã tiến hành
khảo sát các tiết dạy và học phần văn học nước ngoài trong chương trình ở khối lớp 11
trong năm học 2007-2008; 2008-2009.
3a. Hình thức và nội dung khảo sát:
SKKN: Đào Vân Anh 2
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
 Tập trung vào mảng kiến thức thuộc phần văn học nước ngoài đã dạy thực tế
trong chương trình ở khối lớp 11 trong năm học 2007-2008; 2008-2009.
 Sử dụng phiếu học tập với những câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra việc nắm

kiến thức bài học, sự hiểu biết của học sinh về tác giả, tác phẩm văn học
nước ngoài.
 Tiến hành cho học sinh làm các bài kiểm tra viết, đánh giá tổng quát khả
năng cảm thụ, phân tích giá trị nghệ thuật và nội dung các tác phẩm văn học
nước ngoài.
3b. Kết quả khảo sát:
Khèi Líp
Sỉ
số
Giái Kh¸ TB YÕu
SL (%) SL (%) SL (%) SL (%)
11
11A4 47 0 0 10 21.3% 22 46.8% 15 31.9%
11A6 48 0 0 12 25% 20 41.7% 16 33.3%
11A10 47 0 0 22 46.8% 20 42.6% 5 10.7%
Qua thực tế và kết quả khảo sát, tôi nhận thấy rằng:
 Sự hiểu biết của học sinh về các tác giả cũng như các tác phẩm văn học nước
ngoài được học trong chương trình còn nhiều hạn chế.
 Khả năng tiếp thu và cảm nhận những tác phẩm văn học nước ngoài chưa
cao.
 Kỹ năng phân tích và cảm thụ những giá trị đặc sắc về nghệ thuật và nội
dung các tác phẩm văn chương còn hời hợt, chưa sâu sắc. Vì vậy số bài đạt
điểm khá chưa cao.
 Kỹ năng phân tích các yếu tố ngôn ngữ, các biện pháp nghệ thuật, chi tiết,
hình ảnh, nhân vật,… trong các tác phẩm văn học nước ngoài của học sinh
còn thiếu sót.
 Qua các tiết dự giờ của đồng nghiệp trong tổ chuyên môn, chúng tôi nhận
thấy ở một vài giáo viên. Sự hiểu biết về phong tục, tập quán, sinh hoạt, quan
niệm thẩm mĩ của dân tộc Anh, Nga, Pháp, Ấn,… chưa thật sâu sắc; chưa có
điều kiện đọc trọn vẹn các tác phẩm có đoạn trích được dạy.

III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận:
Dạy và học văn học nước ngoài ở trường THPT hiện nay là dạy và học qua các
bản dịch. Người dịch văn học thường đứng trước một nhu cầu khó giải quyết, đó là phải
dịch làm sao cho vừa “tín” vừa “nhã”. Có thể nói đấy là một mâu thuẫn. Khó lòng có
được một bản dịch hoàn hảo. Ngôn ngữ mỗi dân tộc lại có những sắc thái riêng biệt, tạo
nên mối quan hệ muôn hình muôn vẻ giữa lớp vỏ từ ngữ và nội dung biểu đạt. Mối quan
SKKN: Đào Vân Anh 3
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
hệ ấy gắn liền với đặc trưng của văn chương, không dễ chuyển dịch sang một ngôn ngữ
khác. Bản dịch văn xuôi hoàn hảo đã khó, bản dịch thơ hoàn hảo càng khó hơn. Dạy
Ngữ Văn là cung cấp kiến thức về ngôn từ, nội dung tác phẩm và tâm hồn tác giả được
biểu hiện qua hệ thống ngôn từ kia, vì vậy dạy qua bản dịch quả là một trở ngại không
dễ vượt qua.
Tuy nhiên, kho tàng văn học nhân loại là vốn quý, do đó chúng ta cần phải giảng
dạy cho học sinh, chủ yếu là qua các bản dịch. Vấn đề cần lưu ý là phải nắm chắc một
số nguyên tắc khi giảng dạy văn học thông qua bản dịch.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài.
2.1 Bản thống kê những tác phẩm văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ
Văn 11: (Ban cơ bản)
Nhìn một cách tổng thể toàn bộ phần văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ
Văn 11, ta có thể phân loại các tác phẩm văn học nước ngoài theo đặc trưng loại thể như
sau:
Qua việc phân loại như vậy, ta sẽ có cái nhìn tổng quát văn học nước ngoài
chương trình Ngữ Văn 11, từ đó đề ra những phương pháp, biện pháp dạy cụ thể cho
từng loại thể một cách hợp lý cũng như việc vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy và
học một cách phù hợp hơn.
2.2 Nội dung thực hiện:
2.2a. Hướng tiếp cận theo thể loại văn học:
2.2a.1 Về thể loại kịch.

Kịch là loại hình nghệ thuật tổng hợp. Kịch bản văn học thường được viết ra để
diễn, nên tác phẩm kịch không thể chứa đựng một dung lượng hiện thực lớn như truyện,
cũng không lắng đọng trong cảm xúc như thơ ca, mà kịch chọn những xung đột trong
đời sống làm đối tượng mô tả.
Xung đột kịch được thể hiện bằng hành động kịch. Hành động kịch được thể
hiện bằng nhân vật kịch.
SKKN: Đào Vân Anh 4
TT Tên bài Thể loại
Tiết chương
trình
1
Tình yêu và thù hận (Trích Rô-mê-ô và Giu-
li-ét)- U.Sếch-Xpia.
Kịch 66-67
2 Tôi yêu em – A.X.Pu-Skin.
Thơ
98 HK2
(8tiết)
3
Bài thơ số 28 (trong tập Người làm vườn) –
R.Ta-Go.
99
4
Người trong bao – A.P.Sê-Khốp. Truyện
ngắn
101-102
5
Người cầm quyền khôi phục uy quyền (trích
Những người khốn khổ) – V.Huy-Gô.
Tiểu

thuyết
104-105
6
Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác – Ăng-
Ghen.
Nghị
luận
110-111
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
Ngôn ngữ kịch: đối thoại, độc thoại. Ngôn ngữ kịch mang tính hành động và tính
khẩu ngữ cao.
Có ba loại kịch: bi kịch, hài kịch, chính kịch.
Trong chương trình Ngữ Văn 11, bài giảng về trích đoạn kịch của Sêcxpia “Tình
yêu và thù hận” nằm ở tiết 66, 67. Khi giảng kịch, chúng ta nên chú ý đến đặc trưng của
loại hình nghệ thuật này trong lúc phân tích để làm sáng tỏ nội dung ý nghĩa đoạn trích,
không gian và thời gian, đặc thù, tính chất lời thoại của các nhân vật, hành động và xung
đột kịch, các chỉ dẫn sân khấu… Bài giảng chủ yếu dựa trên văn bản dịch, nhưng đồng
thời cũng phải giúp cho học sinh hình dung được thái độ, sắc thái biểu cảm của Rômêô
và Juliet.
Trong đoạn trích “Tình yêu và thù hận” – trích Rômêô và Juliét của Sếch –xpia-
người ta dễ nghĩ là có xung đột giữa tình yêu của đôi nam nữ thanh niên Rômêô, Juliét
và mối thù hận giữa hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-let. Thực ra không phải như
vậy, mà chỉ là tình yêu trong trắng của đôi nam nữ thanh niên ấy diễn ra trên cái nền của
sự thù hận kia mà thôi. Vấn đề đặt ra trong đoạn trích là vấn đề tình yêu và thù hận (chứ
không phải “xung đột” giữa tình yêu và thù hận). Ở phạm vi đoạn trích này, chúng ta
cần làm sáng tỏ vấn đề tình yêu và thù hận trong mười sáu lời thoại của hai nhân vật chứ
không phân tích sâu mâu thuẫn xung đột kịch.
Các chỉ dẫn sân khấu là những lời chỉ dẫn của tác giả kịch bản thường được thể
hiện bằng những chữ in nghiêng hoặc đặt trong ngoặc đơn ( ), dùng để giới thiệu không
gian, thời gian, cách bài trí sân khấu, trang phục, và cách diễn xuất…Các chỉ dẫn sân

khấu là cầu nối kịch bản với sân khấu, biểu hiện “vai trò kép” của nhà văn - vừa là tác
giả kịch bản, vừa tham gia đạo diễn dàn dựng. Điều này cũng góp phần thể hiện phong
cách sáng tác kịch bản của từng nhà văn.
Các chỉ dẫn sân khấu nằm trong thành phần của kịch bản văn học, nhưng khi
giảng cho học sinh, chúng ta thường bỏ qua yếu tố này, khiến tính sinh động, cụ thể của
bài giảng về kịch bị giảm sút.
Khi giảng kịch, phải làm sao để học sinh cảm nhận được đặc trưng của thể loại,
tránh học kịch mà như học tiểu thuyết hoặc truyện ngắn. Nhiều người thường nghĩ là
phải khai thác xung đột kịch. Tuy nhiên, không phải vở kịch nào cũng được xây dựng
trên cơ sở xung đột kịch (nhất là kịch hiện đại). Hơn nữa, ngay trong những vở kịch có
xung đột làm nòng cốt, thì không phải cảnh nào cũng có xung đột.
Để làm nổi bật đặc trưng của thể loại kịch, ta nên cùng học sinh hình dung trích
đoạn kịch ấy trên sàn diễn, với khung cảnh thời gian, không gian của các nhân vật…
Cho các em nhập vai vào những nhân vật trong tác phẩm, hoặc ít nhất cũng phải để cho
các em đọc hiểu, đọc diễn cảm bằng cách phân vai để giúp các em phân biệt tính chất
của các lời thoại trong cảnh này.
Đặc trưng của kịch là nhân vật tự bộc lộ mình qua đối thoại (hoặc độc thoại) nên
tác giả sử dụng lời thoại trực tiếp của họ để miêu tả về nhau và tự bộc lộ bản thân. Đoạn
trích chỉ bao gồm các độc thoại và đối thoại giữa hai nhân vật Rô-mê-ô và Ju-li-ét,
nhưng lại chia làm hai phần. Phần một là độc thoại (từ đầu đến lời thoại thứ sáu): hai
nhân vật đều nói nhưng lời nói của họ không hướng về nhau mà hướng ra công chúng.
Phần hai bao gồm các lời thoại còn lại là lời hai nhân vật đối thoại với nhau.
SKKN: Đào Vân Anh 5
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngồi – Ngữ Văn 11
Trong sáu lời thoại ở đoạn độc thoại của hai nhân vật này, Rơ-mê-ơ nói ba lần,
Ju-li-ét nói ba lần. Rơ-mê-ơ nồng nhiệt ca ngợi sắc đẹp của Ju-li-ét mà khơng hề bận
tâm đến mối thù của hai dòng họ (thái độ đối với mối thù ấy cũng thống nhất trong tồn
bộ hệ thống nhân vật của vở kịch. Sếch –xpia ln để nhà Ca-pu-let hằn học với nhà
Mơn-ta-ghiu, còn nhà Mơn-ta-ghiu thì giữ thái độ ơn hòa hơn. Bằng chứng là Ti-bân
(nhà Ca-piu-let) gây trước với gia nhân và bằng hữu nhà Mơn-ta-ghiu).

Sáu lời thoại đầu xuất hiện với hình thức độc thoại nội tâm (các nhận vật nói về
nhau chứ khơng phải nói với nhau). Đó là lời thổ lộ chân thật của hai trái tim đang u.
Họ nói trong một khơng gian ước lệ trên sân khấu kịch, nên dù người này có nói to thì
người kia cũng khơng nghe được ( họ nói cho khán giả nghe). Từ lời thoại thứ bảy trong
văn bản, Rơ-mê-ơ và Ju-li-ét mới bắt đầu đối thoại với nhau, tức là các lời thoại ấy
hướng vào nhau, các nhân vật nói cho nhau nghe. Tính chất hỏi đáp, đối đáp xuất hiện.
Sếch-xpia ln sử dụng yếu tố dự cảm trong kịch. Có hai cách biểu lộ chính:
hoặc là ơng để nhân vật tự nói ra điều mình dự cảm hoặc thơng qua miêu tả sắc thái
ngơn ngữ, hành động,… của nhân vật để gián tiếp nhắc đến những điều xảy ra. Hình
thức dự cảm này được thể hiện qua sắc thái tâm lí trong độc thoại của Juliét ở văn bản
Tình u và thù hận, người đọc vẫn mơ hồ cảm nhận được điều gì đó bất an ẩn sau ngơn
từ. Ngay sau lời thốt “ơi chao!” của juliet, lời nói ẩn chứa nhiều dự cảm khơng tốt lành:
“Ơi Rơmêơ, chàng Rơmêơ! Sao chàng lại mang tên đó nhỉ? Chàng hãy khước từ cha
chàng và từ chối dòng họ của chàng đi; hoặc nếu khơng thì chàng hãy thề là u em đi,
và em sẽ khơng là con cháu của nhà Ca-pu-let nữa”; “Chàng làm sao mà tới được chốn
này? Và chàng tới làm gì? Tường vườn này cao, vượt qua thật khó. Và chàng thử nghĩ lại
xem mình là ai? Nếu bị họ hang nhà em bắt gặp nơi đây thì chàng khó lòng thốt chết.”;
“Em cầu mong cho họ đừng bắt gặp chàng nơi đây” của Juliet chất chứa nhiều lo âu về
mối thù dòng họ. Rõ ràng nhân vật được đặt trong sự xung đột giữa tình u chân chính
và sự ngăn cản thảm khốc của mối huyết thù. Nhiệm vụ của cả hai là phải vượt qua định
kiến ấy để bảo vệ tình u và hạnh phúc của mình. Dự cảm mất mát được ẩn sâu ở chỗ
này.
Trong đoạn trích Tình u và thù hận, tình u khơng mâu thuẫn với thù hận ( vì
thù hận là hồn cảnh thử thách phải vượt qua). Thù hận được nhắc tới ở đây khơng phải
để khơi dậy, kht sâu mâu thuẫn của hai dòng họ; mà chỉ để hướng tới, cổ vũ sức mạnh
để đơi bạn trẻ vượt qua.
Từ tình u vượt lên thù hận của đơi trẻ, tác giả đã ca ngợi, khẳng định vẻ đẹp
tình người, tình đời theo lý tưởng của chủ nghĩa nhân văn. Rô-mê-ô và Ju-li-ét là
những hình tượng đẹp của văn học Phục Hưng ở Tây Âu, đã phản ánh được khát
vọng sống của con người thời ấy. Theo ý tơi, nên chăng phải đặt cho đoạn trích một

tiêu đề khác: Tình u vượt lên trên thù hận.
2.2a.2 Về thể loại thơ.
Trong chương trình Ngữ Văn 11 có thơ trữ tình của Puskin (Nga) thế kỷ XIX và
thơ Targo (Ấn Độ) thế kỷ XX. Bên cạnh bản dịch thơ đều có kèm theo bản dịch sát
nghĩa từng câu. Chúng ta khơng nên q sa đà vào việc so sánh ngun bản với bản dịch
thơ, hay bản dịch nghĩa với bản dịch thơ, trừ những trường hợp ngoại lệ, thật đặc biệt.
SKKN: Đào Vân Anh 6
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
Như vậy, chúng ta tạm hài lòng với viêc giảng thơ qua bản dịch. Nhiều yếu tố
hình thức của thơ như thể thơ, vần điệu, âm hưởng… thường bị mất đi khi chuyển dịch
qua một ngôn ngữ khác. Nội dung của thơ gắn liền với ngôn ngữ thơ nên thường cũng
không giữ được nguyên vẹn. Những gì bản dịch giữ lại được, nhất là về mặt hình thức,
chúng ta nên chú ý khai thác cho hết, nhất là khi những dấu hiệu hình thức ấy nói lên
đặc điểm nghệ thuật mang tính dân tộc của nguyên bản, hoặc liên quan đến nội dung thơ
và ý đồ sáng tạo của nhà thơ. Như vậy khi giảng thơ qua bản dịch (tác phẩm nước
ngoài) ta cần chú ý đến hình tượng, hình ảnh nổi bật trong bài thơ.
Bài thơ Tôi yêu em của Puskin trong nguyên tác chỉ viết: “Tôi yêu em, tình yêu, có
lẽ, - Còn chưa hoàn toàn lụi tắt trong lòng tôi” nhưng bản dịch thơ lại có hình ảnh thơ
“ngọn lửa tình” mãnh liệt, chân thành, say đắm “ Tôi yêu em: đến nay chừng có thể -
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai”. Phải chăng hình ảnh ấy ”ngọn lửa tình” được gợi
ra bởi từ “tắt”. Hình ảnh ngọn lửa khẳng định tình yêu vẫn còn nồng nàn, tha thiết,vẫn
còn chân thành, mãnh liệt, say đắm. Mạch cảm xúc cuộn chảy, không kìm nén được, bật
lên như một điệp khúc Tôi yêu em. Xét về trật tự logic, ta thấy lí trí mách bảo hãy rút lui,
chối bỏ, dập tắt. Nhưng về tình cảm thì không hề giảm mà tăng lên, ngọn lửa tình yêu
còn ngùn ngụt cháy: Tôi yêu em đến nay chừng có thể / Tôi yêu em âm thầm không hi
vọng / Tôi yêu em chân thành đằm thắm.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ có diễn biến tâm lí tâm trạng phức tạp. Điều đó
giúp ta cảm nhận được tình cảm chân thành, mãnh liệt, sự vị tha, nhân hậu của tác giả.
Tình yêu đôi khi không phải là đón nhận mà là sự hy sinh vì người mình yêu.“Cầu cho
em được người tình như tôi đã yêu em” Vơ vào chứ không ngãng ra, câu thơ còn như là

lời nhắn nhủ: em hãy sáng suốt phân biệt vàng, thau, chọn lựa cho đúng người yêu với
tình yêu. đằm thắm, chân thành. Bài thơ thể hiện tình yêu chân thành trong sáng, cao
thượng vì nhân vật tôi đã vượt qua thói thường ích kỷ: chỉ biết ghen tuông. Câu kết bài
thơ làm cho nhân cách con người sáng chói, vị tha, cao thượng.
Thơ tình của Puskin thường viết về các mối tình dở dang, trắc trở, vì vậy thường
buồn; Puskin yêu rất nhiều. Ông là con người có cách yêu riêng về vẻ đẹp người phụ nữ,
có văn hóa tình yêu riêng, độc đáo. Tất cả các nhà phê bình lỗi lạc đều thừa nhận: đây là
bài thơ diễm lệ. Bài thơ xúc động vì trong tác phẩm trữ tình này chứa đựng những giá trị
tinh thần chung của loài người, đó là tình yêu và vẻ đẹp ứng xử trong tình yêu.
Thơ tình là bài học của lòng nhân ái, là trường học của lòng nhân đạo. Tôi yêu em
là một bài học tình yêu mãnh liệt, tình yêu có văn hóa lành mạnh, nó biểu hiện cái
chung của con người. Đây là thi phẩm của mọi thời đại.
Về kết cấu, bài thơ Tôi yêu em gồm tám dòng thơ với hai dấu chấm ở cuối dòng
thứ tư và dòng cuối cùng, chia bài thơ thành hai phần đều nhau. Qua bản dịch thơ cũng
như bản dịch sát nghĩa, cả hai phần đều có cấu trúc ngữ pháp đơn giản giống như hai
câu văn xuôi dài được tách ra để tạo thành một bài thơ hòan chỉnh. Có thể xem Tôi yêu
em là một bức thư tình được viết bằng thơ, rất gần với văn xuôi nghệ thuật, mà nguời
gửi là nhân vật trữ tình.
Như vậy là toàn bộ bài thơ có hai câu. Cả hai câu đều được mở đầu bằng cụm từ
tôi yêu em. Cụm từ này tiếp tục được lặp lại lần thứ ba. Quả là một mật độ dày đặc, bởi
bài thơ chỉ có 66 chữ (căn cứ theo bản dịch). Xem ra, xuyên suốt bài thơ, âm hưởng
SKKN: Đào Vân Anh 7
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
vang vọng nhất vẫn là tôi yêu em. Dịch giả Thúy Toàn dùng ngay cụm từ này đặt nhan
đề cho bài thơ (trong nguyên bản, bài thơ không có nhan đề). Nhan đề do người biên
dịch đặt, đứng trước bốn khả năng: Tôi yêu chị, Tôi yêu em, Tôi yêu cô, Anh yêu em.
Chọn Tôi yêu em là hợp lí nhất vì nó vừa gần vừa xa, vừa đằm thắm vừa dở dang, rất
phù hợp với nội dung bài thơ.
Về hình thức, bài thơ cũng có điểm đặc biệt. Nếu ở bốn dòng thơ đầu, dấu phẩy
(,) phân chia hai phần thì ở bốn dòng sau, hai nửa của câu thơ lại được ngăn cách bằng

dấu chấm phẩy(;). Sự thay đổi dấu câu thể hiện hai mối quan hệ khác nhau. Ở câu thơ
đầu, hai vế câu có quan hệ đối lập được nối với nhau bởi quan hệ từ “nhưng” (theo bản
dịch), nghĩa là ở phương diện nào đó giữa hai vế câu có sự ngược nghĩa. Đó là sự xác
nhận và chấp nhận một sự thực, chỉ bày tỏ tình cảm chứ không phải là sự đòi hỏi được
đáp lại. Còn ở câu thơ sau dấu (;) thể hiện mối quan hệ đẳng lập, bổ sung nghĩa cho
nhau. Sự tăng tiến của tình cảm, cảm xúc khiến câu thơ có khả năng truyền tải tình cảm
mãnh liệt. Có rụt rè, có ghen tuông thì đích thị là tình yêu. Nhưng sự hờn ghen và
không hy vọng ấy không làm giảm đi vẻ đẹp của tình cảm mà nhân vật trữ tình dành cho
“em”. Đó là một lời bày tỏ chân thành, rất người. Nhịp thơ dồn dập, liên tiếp xuất hiện
các tính từ chỉ trạng thái cảm xúc, đã bộc lộ mức độ mãnh liệt của tình yêu. Trong bài
thơ có tới ba cụm từ “tôi yêu em” thì hai cụm tập trung ở câu thứ hai và được gắn với
những tính từ chỉ cảm xúc (âm thầm, không hy vọng, chân thành, đằm thắm), trong đó
“chân thành”, “đằm thắm” là hai phẩm chất mà mọi tình yêu đều muốn đạt tới, đó là tiêu
chuẩn lý tưởng của mọi mối tình.
Bài thơ là lời bộc bạch của chàng trai về mối tình không trọn vẹn của mình. Ta
thấy ngay cả khi không được đền đáp, con tim ấy vẫn luôn thổn thức vì tình. Hai dòng
đầu chuyển tải thông điệp: tôi đã yêu em từ trước đến nay. Đấy là tình yêu sâu đậm, bền
vững qua thời gian. Lấy thời gian làm thước đo tình yêu, Pu-skin ngầm khẳng định đó là
tình yêu lớn. Bốn dòng cuối, chàng trai bộc lộ sự tha thiết của lòng mình. Tình yêu của
chàng trai chân thành, hồn nhiên, đa sắc thái, đa cung bậc như bản chất của tình yêu.
Tình yêu ấy là có thật và đến bây giờ vẫn chưa tàn phai, vẫn còn nồng nàn say đắm lắm.
Nhưng bày tỏ tình yêu theo các cung bậc thì ai cũng có thể. Chỉ có điều này là rất Pus-
kin: dẫu bị người mình tôn thờ hờ hững, trái tim ấy vẫn không hề thù hận hay ghét bỏ
mà càng thương hơn. Đỉnh điểm của tình yêu là sự hy sinh. Chàng trai mang trái tim
thổn thức, trước khi rút lui trong đau khổ còn có lời nguyện ước: “Cầu em được người
tình như tôi đã yêu em”.
Bên cạnh việc thay đổi sắc thái, cung bậc tình yêu, bài thơ còn có sự thay đổi
“điểm nhìn” dẫn đến giọng điệu thơ cũng có sự đổi thay:
Hai dòng đầu: nhà thơ tự “đọc” tâm trạng mình: Đến nay tôi vẫn còn yêu em.
Tình yêu em chưa phai nhạt trong lòng tôi.

Hai dòng 3,4: nhà thơ hướng cái nhìn sang “em”, “đọc” cảm xúc của “em” theo
cái nhìn của tôi. Tôi không muốn em bận lòng thêm nữa. Tôi không muốn em buồn vì
bất cứ lẽ gì.
Ba dòng 5,6,7: nhà thơ bộc bạch tâm sự của mình: Tôi còn yêu em, yêu trong âm
thầm, không hi vọng, có cả hờn ghen nữa…
SKKN: Đào Vân Anh 8
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
Như thế, lời thơ dẫu chỉ của một người nhưng nhờ cách di chuyển điểm nhìn này
nên luôn có sự hiện diện của người thứ hai (em). Dòng thơ cuối lại có sự hiện diện của
“người thứ ba”- Người ấy là “nguyên cớ” làm cho tôi phải chấp nhận xa em. Pu-skin
thật thiên tài khi bộc bạch tình yêu theo kiểu thay thế - tương phản ngầm này. Pu-skin
đã khắc họa thành công một trái tim biết yêu, yêu đến mức ngậm ngùi cả tấm chân tình.
Tinh thần cao thượng của Pu-skin được diễn tả theo nhịp độ tăng cấp: chấp nhận
rút lui cũng là vì yêu em và vì yêu em nên luôn cầu chúc cho “em” (người đã từ chối
mình) được sống trong hạnh phúc, trong tình yêu. Minh triết tình yêu đó là điều hết sức
mới mẻ, tạo ra sự hấp dẫn lạ thường. Đấy là nhân cách cao thượng của Pus-kin, đấy
cũng chính là tinh hoa của nền văn học Nga, một nền văn học nhân đạo lí tưởng. Ta phải
gọi đây là văn hóa tình yêu, một điều không phải ai cũng có được, cũng nói được, làm
được.
Bài thơ Tôi yêu em thể hiện nhiều nét nghệ thuật tài hoa của thơ Pu-skin. Lời thơ
giản dị, giản dị đến sức trong suốt: hàm súc, mực thước, ít dùng mĩ từ mà vẫn gợi cảm.
Sức mạnh của bài thơ dồn ở cấu tứ lạ lùng đã chuyển tải tình cảm, tư tưởng mới mẻ của
thi nhân. Thơ tình của nhân loại chưa bao giờ được chứng kiến một thiên tình sử trong
hình thức bé nhỏ như vậy. Pu-skin xứng đáng với lời ca ngợi của nhân dân Nga: “thi sĩ
thiên tài và là nhà tư tưởng lỗi lạc, người mở đường cho văn học Nga, người đặt nền
móng cho tư tưởng nhân văn cao quý trong văn học Nga”.
Về Bài thơ số 28 của R.Ta-go. Ta-go là nhà thơ Ấn Độ, nổi tiếng ở loại thơ triết
luận. Từ những điều bình dị, dễ gặp trong cuộc đời, qua thơ ông, chúng bỗng nhuốm
hương vị đậm đà của cái nhìn sâu thẳm mang tính triết học về con người, về cuộc đời.
Bài thơ số 28 là một bài thơ tình. Nhưng những gì Ta-go gửi gắm không chỉ giới hạn

trong phạm vi tình yêu mà còn mở rộng hơn về phía những cảm xúc, những suy tư sâu
lắng về con người và cuộc đời.
Thể loại ở văn bản này là thơ viết bằng hình thức văn xuôi (cần phân biệt với thơ
viết tách ra từng dòng như đơn vị nhịp điệu). Nó có cấu tứ độc đáo và hình ảnh mới lạ,
bộc lộ tình cảm trực tiếp, thường sử dụng hình ảnh ngụ ý, tượng trưng, nghịch lí, những
hình ảnh ảo giác, mộng tưởng để khơi gợi những tư tưởng sâu sắc, những suy tư triết lí.
Đặc điểm của nó không bị hạn chế bởi cách phân dòng và hiệp vần, cho nên cách biểu
đạt tự do hơn thơ ca nhiều.
Bài thơ rút từ tập Người làm vườn (gồm 85 bài). Tagore dịch từ tiếng Bangale
sang tiếng Anh bằng thể thơ văn xuôi (xuất bản năm 1914). Đây là một tác phẩm tiêu
biểu cho chủ đề tình yêu đằm thắm của tác giả. Bắt đầu từ sự cảm nhận về đôi mắt của
người con gái- không phải trong trạng thái bình thường - mà là đôi mắt ở trạng thái trắc
ẩn, u buồn, dường như thấp thoáng nỗi bất lực: Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng
của anh. Như trăng kia muốn vào sâu biển cả (bản dịch nghĩa). Đó là hình ảnh thể hiện
khao khát được tìm hiểu, được khám phá thế giới tâm hồn người yêu.
Nhưng thế giới tâm hồn của con người, nhất là những người đang yêu, lại là cả
một thế giới bí ẩn, phức tạp, khó khám phá và tìm hiểu rõ được. Nhà thơ triển khai ý tư-
ởng này qua những so sánh - đối lập đặc sắc:
Nếu đời anh chỉ là viên ngọc...
SKKN: Đào Vân Anh 9
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
Nếu đời anh chỉ là một đoá hoa...
Mỗi so sánh là một đối lập thi vị giữa hai phạm trù khái quát và cụ thể, vô cùng và
hữu hạn. Khi cái khái quát có trị số bằng cái cụ thể, cái vô hạn có giá trị bằng cái hữu hạn
- thì hệ quả ý nghĩa của nó thật giản đơn (đời = viên ngọc, = chuỗi hạt nữ trang, = đoá
hoa, = trang điểm mái tóc). Tuy nhiên, cuộc đời là rộng lớn, là cõi vô biên nhưng cuộc
đời ở đây là cuộc sống có nghĩa. Tác giả sau những diễn giải đi đến quy nạp:
Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim
Từ cuộc đời đến trái tim, nhà thơ đã thực hiện một sự chuyển nghĩa linh hoạt từ
cấp độ này sang cấp độ khác, thực chất là chuyển thái độ tình cảm từ bình diện hình

thức sang bình diện nội dung làm tiền đề cho đoạn thơ tiếp theo, vẫn với bút pháp so
sánh - đối lập:
Nếu trái tim anh chỉ là một giây phút lạc thú...
Nếu trái tim anh chỉ là khổ đau...
Không thể là cụ thể, không chỉ giới hạn là niềm sướng vui hay bất hạnh - trái tim
bao hàm tất cả những cung bậc phong phú, phức tạp, tinh tế, kì diệu nhất của cuộc đời -
chính vì thế tác giả khái quát:
Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu
Sự khái quát này cũng chính là một lần chuyển nghĩa: chuyển từ lượng sang chất.
Tình yêu là “tiếng nói” của trái tim; những biểu hiện của tình yêu là vô cùng rộng lớn.
Nếu xét về quá trình, sự quy nạp từ đầu bài thơ ngày càng xác định về hình thức,
nhưng thực chất lại càng mở rộng về nội dung. Cả bài thơ là sự triển khai các tầng hàm
nghĩa của triết lý tình yêu: Cuộc đời - trái tim - tình yêu - nỗi vui sướng khổ đau vô
biên - sự thiếu thốn và giàu có bất tận.Ý nghĩa cuộc sống cao đẹp là một tình yêu lớn,
không bị giới hạn bến bờ; tình yêu không chỉ là phút giây sướng vui hay buồn khổ mà
còn chan chứa ý vị nhân văn. Hai câu kết là một khái quát biện chứng. Trái tim - tình
yêu nói tới ở trên đã và đang nhịp cùng nhịp đập trái tim – tình yêu - cuộc sống của cô
gái. Sự đồng điệu và giao hoà đến dường như không khoảng cách nên đâu dễ nhận ra!
Cả bài thơ, qua những trường đoạn luận lý nếu - nhưng trở đi trở lại đã thể hiện
đặc sắc tình cảm dồn nén mỗi lúc mỗi gia tăng của một tâm hồn lớn. Với giọng điệu
triết lý, Bài thơ số 28 vừa bản lĩnh vừa trữ tình sâu sắc, thể hiện quan niệm cuộc đời -
đồng thời là khát vọng của tình yêu cao đẹp, xứng đáng được xem là một trong những
bài thơ tình hay nhất của Tagore và kho tàng thơ tình nhân loại.
Mục đích đặt ra trong Bài thơ số 28 giúp học sinh hiểu về quan niệm tình yêu của
Ta-go, mà ở đây có thể liên hệ đến tình yêu lứa đôi. Song bằng hình thức cấu trúc câu
thơ theo lối giả định – khẳng định – phủ định, tác giả đã chỉ ra những nghịch lí của
tình yêu. Bài thơ diễn tả một nội dung triết lí về tình yêu, từ đó mở rộng ra ý nghĩa của
cuộc đời.
Thơ tình chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác của Targo. Những bài thơ tình
của ông đều thể hiện quan niệm yêu đương rất đúng đắn và tiến bộ. Trong tập thơ

Người làm vườn, như một lão nông tri điền, Targo dồn sinh lực vào “khu vườn nghệ
SKKN: Đào Vân Anh 10
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
thuật” của mình. Targo cho rằng trong tình yêu, sắc đẹp của thể xác giống như hoa hồng
chóng phai tàn, chỉ có tâm hồn mới bền lâu. Cũng giống các nhà thơ tình lãng mạn khác,
Targo còn cho rằng tình yêu tuy có đau khổ nhưng không chịu khóc than rên xiết, không
hủy hoại thân mình một cách vô ích, mà vẫn mang một niềm tin tưởng.
Như vậy đối với thể loại thơ (thơ dịch) cái đích cần hướng đến là nội dung tình
cảm của chủ thể trữ tình - hình tượng thơ, nhưng nội dung ấy toát lên từ nghệ thuật được
thể hiện qua các dấu hiệu hình thức như thể thơ, số câu thơ, vần thơ,...Nhiều đặc điểm
nghệ thuật của nguyên bản đã mất đi qua bản dịch, nhưng có những yếu tố còn giữ lại
được, nhất là số câu thơ trong bài.
2.2a.3 Về thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết.
Khác với thơ mang tính chủ quan, truyện ngắn phản ánh đời sống trong tính
khách quan của nó, qua con người, hành vi, sự kiện được miêu tả bởi người kể chuyện
(trần thuật). Ở đây cốt truyện với một chuỗi các tình tiết, sự kiện, biến cố xảy ra liên tiếp
tạo nên sự vận động của hiện thực được phản ánh, góp phần khắc họa rõ nét tính cách
các nhân vật, số phận từng cá nhân nhân vật…
Tiểu thuyết chứa đựng nhiều tiếng nói; nó đa âm, nó là văn bản tổng hợp những
ngôn từ của nhiều tầng lớp người trong xã hội. Xen với tiếng nói của tác giả, là tiếng nói
người kể truyện, tiếng nói của các nhân vật, mỗi nhân vật là một thế giới riêng biệt.
Cũng như thơ và kịch, học sinh tiếp xúc với các trích đoạn truyện ngắn và tiểu
thuyết qua các bản dịch, không có bản dịch sát nghĩa kèm theo để giáo viên đối chiếu.
Đối với văn xuôi, điều này có lẽ chẳng cần, miễn sao có được bản dịch tốt, trung thành
tối đa với nguyên bản. Các đoạn trích giảng đưa vào sách giáo khoa đều sử dụng những
bản dịch có sẵn. Truyện ngắn và tiểu thuyết thường có cốt truyện, đó là yếu tố tương đối
bền vững, ít bị biến dạng sang một ngôn ngữ khác.
Ngoài những yếu tố chung cho nhiều thể loại văn học, tiểu thuyết, truyện ngắn là
loại hình tự sự trong đó các thủ pháp kể và tả, việc lựa chọn nhân vật người kể chuyện
và điểm nhìn của người kể chuyện, nghệ thuật xây dựng không gian và thời gian của

truyện đóng vai trò hết sức quan trọng. Khi phân tích cho học sinh, ta cần bám chắc vào
những cơ sở này, xem chúng góp phần vào sự hình thành nội dung mang tính nghệ thuật
của tác phẩm như thế nào để bài giảng mang sắc thái đặc thù của thể loại.
Cốt truyện là yếu tố dễ thấy và cũng dễ làm cho bài giảng trở nên sinh động. Học
sinh thường chỉ chú ý đến cốt truyện mà không thấy vai trò của người sáng tạo. Cốt
truyện không tự nó sinh ra. Từ các đường nét lớn đến cách tổ chức, sắp xếp các diễn
biến, chi tiết đều có dụng ý của nhà văn. Khi tiếp cận những văn bản này, chúng ta nên
chú ý đến “cách viết” của tác giả, không đơn giản là để chỉ trả lời câu hỏi: “chuyện xảy
ra như thế nào?” mà phải làm sáng tỏ vấn đề “Tại sao tác giả lại để cho câu chuyện xảy
ra như thế?”
Truyện ngắn Người trong bao của A.P.Sê-Khốp ra đời trong bối cảnh xã hội Nga
đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nặng nề của chế độ phong kiến cuối thế
kỷ XIX. Môi trường ấy đã sản sinh ra nhiều con người kì quái, đã phơi bày lối sống hèn
nhát, “mũ ni che tai”, thủ tiêu đấu tranh, tự hạ thấp nhân phẩm và nhân cách con người
của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Cả xã hội Nga thời ấy là một cái bao
SKKN: Đào Vân Anh 11
Một vài kinh nghiệm dể dạy và học tốt phần văn học nước ngoài – Ngữ Văn 11
khổng lồ trói buộc, tù hãm, vây bủa, ngăn chặn tự do dân chủ của nhân dân Nga; trí thức
Nga chân chính.
Sự trì trệ, thụ động, lối sống co mình được thể hiện qua các nhân vật mà ông miêu
tả trong truyện ngắn này là sản phẩm gắn liền với thời kì lịch sử đó. Lối sống này đã hạ
thấp giá trị nhân phẩm của con người, biến con người thành một nô lệ tự nguyện, chỉ
răm rắp phục tùng mà không hề biết phân biệt đúng - sai, thật - giả, tạo ra một cơ chế
sống giả tạo, máy móc, rập khuôn. Nhà văn cho rằng “không thể sống như thế mãi
được”. Ông phủ nhận xã hội đương thời và nhiệt tình cổ vũ cho một xã hội mới tốt đẹp
hơn.
Truyện ngắn Người trong bao của A.P.Sê-Khốp có dáng vẻ độc đáo riêng. Đó là
hình thức nhỏ, nhưng chứa đựng nội dung lớn, ý thì sâu sắc, có sức gợi lớn. Trong đoạn
trích, nhân vật chủ yếu (được tái hiện ở góc nhìn của người kể chuyện, của tác giả và
người nghe chuyện) là Bê-li-cốp. Qua cuộc trò chuyện giữa hai trí thức – một thầy giáo

trường làng Bu-rơ-kin và bạn ông ta, bác sĩ thú y I-van I-va-nứt – nhân vật Người trong
bao xuất hiện. Đó là thầy giáo dạy tiếng Hy lạp cổ Bê-li-cốp. Tác giả dường như chỉ là
người ghi chép lại một cách tình cờ câu chuyện nghe được. Chính cách vào truyện, dẫn
chuyện độc đáo này đã tạo cho câu chuyện sự khách quan như thật.
Trong việc khắc họa chân dung nhân vật. Sê-Khốp thường chú ý đến những chi
tiết “vặt vãnh”, “nhỏ nhặt” như giày, ô, mũ,… đặc biệt là hình ảnh “cái bao”. Có thể
phân tích hình ảnh cái bao qua ba cấp độ: hình ảnh “cái bao” qua các vật dụng hằng
ngày của Bê-li-cốp; hình ảnh “cái bao” qua công việc hằng ngày; hình ảnh “cái bao”
thường trực trong tư tưởng.
Đọan trích được trần thuật từ ngôi thứ ba. Người kể dẫn dắt câu chuyện của bác sĩ
I-van và thầy giáo Bu-rơ-kin đi săn về muộn, phải ở lại nhà ông trưởng xóm. Sau đó
người kể chuyện ở ngôi thứ ba này nhường lời cho Bu-rơ-kin, kể câu chuyện về Bê-li-
cốp. Việc thay đổi điểm nhìn, đặc biệt là việc để một nhân vật đứng ra kể câu chuyện
của mình có ưu thế là khiến người nghe tin cậy hơn vào câu chuyện của người kể. Với
cách kể này, ta thấy có sự trùng khớp từ điểm nhìn, giọng điệu của hai người kể cùng ở
ngôi thứ nhất kể về người ở ngôi thứ ba.
Giọng điệu điềm tĩnh, chậm rãi, thể hiện qua giọng văn mỉa mai, toát lên cái nhìn
nhân đạo, lạc quan của nhà văn về cuộc đời. Tính chất mỉa mai trong lời văn của Sê-
Khốp không quá nặng nề. Nó thiên về hài hước, diễu cợt. Điều đó chứng tỏ Sê-Khốp rất
ưu ái con người, cuộc đời. Ông phê phán nhẹ nhàng những thói hư tật xấu, cốt để họ ý
thức rõ để từ bỏ chúng. Với Bê-li-cốp cũng vậy. Hành động thu mình trong bao của hắn
quả thực là quái gở. Người đọc chỉ cần dõi theo đoạn trích trong sách giáo khoa là đã
bật cười. Biện pháp gây cười ở đây được đặt trên sự trùng điệp và tăng cấp. Từ vật dụng
nhỏ nhất cho tới mọi hành vi, tư duy,… Bê-li-cốp lúc nào cũng ở trong bao.
Tiếng cười của Sê-Khốp được thể hiện trong văn bản là tiếng cười đa thanh đa
cực. Có lúc tiếng cười ấy là tiếng cười trào phúng, có lúc là tiếng cười mỉa mai, nhưng
dẫu ở sắc độ nào thì tiếng cười của Sê-Khốp cũng hàm chứa trong đó sự chua xót. Đây
chính là yếu tố quan trọng tạo nên chất nhân văn trong sáng tạo nghệ thuật của ông.
Về mặt nghệ thuật, tác phẩm đã rất thành công ở nghệ thuật xây dựng hình tượng
nhân vật điển hình, cùng với ngôn ngữ, giọng điệu kể chuyện tự nhiên. linh hoạt. Khi là

SKKN: Đào Vân Anh 12

×