Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.51 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ BÁ TÒNG

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ BÁ TÒNG

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THỊ BÍCH THỌ

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các
quý Thầy, Cô của Học viện Khoa học Xã hội đã giúp tôi trang bị kiến thức,
tạo môi trường thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận
văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Cô
PGS.TS Lê Thị Bích Thọ, đã tận tình, tận tâm, khuyến khích, chỉ dẫn cho tôi
trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.
Tôi gửi lời tri ân sâu sắc đến đồng nghiệp và những người bạn đã động
viên hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thiện
luận văn này.
Do hiểu biết hạn chế, thời gian nghiên cứu có giới hạn, nên luận văn sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót, người viết mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các Nhà khoa học, Thầy giáo, Cô giáo và đồng nghiệp để luận văn
được hoàn thiện hơn.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn
trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ
chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Hà Nội, ngày 25 tháng 02 năm 2019
NGƯỜI CAM ĐOAN

LÊ BÁ TÒNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI ....................................................................................... 5
1.1. Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại......................................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời ................................................. 5
1.1.2. Đặc trưng của biện pháp khẩn cấp tạm thời............................................ 6
1.1.3. Thuộc tính của biện pháp khẩn cấp tạm thời .......................................... 7
1.1.4. Sự cần thiết phải có biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại......................................................................... 8
1.2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ................................. 100
1.2.1. Bảo đảm quyền lợi của các bên đương sự .......................................... 100
1.2.2. Bảo đảm tính hiệu quả của biện pháp được áp dụng .......................... 100
1.2.3. Bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự.......................................... .12
1.3. Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong luật trọng tài thương
mại năm 2010………………………………………………………………..13
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ...... 22
2.1. Những điểm mới, thuận lợi trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại .................... 22
2.2. Thực trạng về những bất cập, khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ..... 42
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ TĂNG CƯỜNG NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ...... 47


3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm

thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại theo pháp luật Việt
Nam hiện nay .................................................................................................. 47
3.2. Giải pháp tăng cường nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời ........................................................................... 55
3.2.1. Đối với các cơ quan tư pháp ................................................................. 55
3.2.2. Đối với trọng tài giải quyết tranh chấp ................................................. 56
3.2.3. Đối với các bên tranh chấp.................................................................... 57
3.3. Các giải pháp khác ................................................................................... 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- BLDS: Bộ luật Dân sự năm 2015
- BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
- BPKCTT: Biện pháp khẩn cấp tạm thời
- HĐTT: Hội đồng trọng tài
- Luật mẫu của UNCITRAL: Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài
Thương mại Quốc tế, được thông qua bởi UNCITRAL ngày 21/06/1985 và
được sửa đổi năm 2006
- LTTTM: Luật trọng tài thương mại năm 2010 được Quốc hội thông
qua ngày 17/06/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011
- PLTTTM: Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 được Ủy ban
thường vụ Quốc hội thông qua 25/02/2003, có hiệu lực từ ngày 01/07/2003
- TAND: Tòa án nhân dân.


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Với chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã ký

nhiều Điều ước quốc tế về thương mại, Việt Nam là thành viên của tổ chức
thương mại quốc tế chính thức vào ngày 11/01/2007 , sự mâu thuẩn và xung
đột về lợi ích giữa các doanh nghiệp , các quốc gia với nhau là điều tất yếu,
do đó các tranh chấp phát sinh là điều không tránh khỏi. Việc sử dụng hiệu
quả các phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại, mà đặc biệt là
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại sẽ rất cần thiết để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tranh chấp.
Hiện nay số lượng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại còn
rất khiêm tốn, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại chưa thực sự là
một hình thức giải quyết góp phần giảm tải cho Tòa án vì nó tồn tại những
điều chưa phù hợp. Việc áp dụng BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại
chưa được chú ý khiến cho các doanh nghiệp không tin tưởng vào quá trình
giải quyết cũng như thi hành các phán quyết của trọng tài thương mại.
Luật trọng tài thương mại ra đời năm 2010, bằng việc quy định rõ hơn
về các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại, Luật trọng tài thương mại
năm 2010 đã thổi một luồng gió mới vào hình thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại. Đặc biệt, việc quy định có tính chất mở rộng quyền của
HĐTT trong việc áp dụng các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại.
Tuy được quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục đối với việc áp dụng
BPKCTT nhưng trong quá trình thực hiện tại trọng tài thương mại đã nảy sinh
ra nhiều khó khăn, bất cập và việc thiếu thống nhất với nhau giữa các văn
bản pháp luật điều chỉnh việc áp dụng BPKCTT. Do vậy tác giả chọn đề tài “
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng Trọng

1


tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay”. Làm đề tài nghiên cứu của
luận văn cao học luật, chuyên nghành luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện tại các công trình nghiên cứu và phân tích các BPKCTT từ góc độ
tố tụng của Tòa án hoặc theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự như của các
tác giả: Nguyễn Bích Thảo (2008), Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại tòa án, Tạp chí Nhà nước và
pháp luât (số 9), Trần Phương Thảo (2005), Chế định biện pháp khẩn cấp tạm
thời, Tạp chí Luật học, Số Đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự 2005, Trần
Phương Thảo (2009), Bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Tạp chí Luật học
(số 1). Trách nhiệm do áp dụng BPKCTT không đúng quy định tại điều 101
Bộ luật tố tụng dân sự của Trần Phương Thảo, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
4/2010.
Các nghiên cứu về áp dụng BPKCTT trong tố tụng trọng tài, pháp luật
trọng tài thương mại Việt Nam rất ít nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần hoàn thiện hơn pháp luật quy định về việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương
thức trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận các BPKCTT của Luật trọng tài
thương mại năm 2010, và thực trạng áp dụng các BPKCTT của Hội đồng
trọng tài trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại theo pháp luật
Việt Nam hiện nay
Nhiệm vụ nghiên cứu

2


Phân tích các khái niệm, đặc điểm, phân loại BPKCTT, sự cần thiết
phải có các quy định về áp dụng BPKCTT trong pháp luật về trọng tài thương
mại, quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong tố tụng trọng tài thương

mại đối với việc áp dụng các BPKCTT.
Đánh giá thực trạng các qui định và tình hình áp dụng BPKCTT trong
thời gian qua để hoàn thiện và tăng cường hiệu quả trong áp dụng các
BPKCTT của Hội đồng trọng tài trong gải quyết các tranh chấp thương mại ở
Việt Nam, Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại
Việt Nam năm 2010 về các quy định liên quan đến áp dụng các BPKCTT
trong quá trình tố tụng trọng tài thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật
Việt Nam về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại
chủ yếu các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Luật trọng tài thương mại năm
2010.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm biện chứng và duy
vật của chủ nghĩa Mác- Lênin, quan điểm đường lối chính sách của Đảng,
Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống:
+ Phương pháp phân tích.
+ Phương pháp liệt kê.
+ Phương pháp chứng minh
+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp nghiên cứu tổng hợp
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

3


Luận văn góp phần hoàn thiện hơn pháp luật quy định về việc áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng
phương thức trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Đồng

thời là tài liệu tham khảo tốt cho doanh nghiệp, phục vụ và đáp ứng nhu cầu
hiểu biết cho các doanh nghiệp về trọng tài thương mại, Giúp doanh nghiệp
tin tưởng và sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại bằng trọng tài thương mại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tranh chấp.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu bởi:
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại .
Chương 2: Thực trạng về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện
nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và tăng cường nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

4


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI
1.1. Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại
1.1.1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời

Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam không đưa ra khái niệm về
BPKCTT mà chỉ quy định về điều kiện và thủ tục yêu cầu áp dụng BPKCTT,
theo điều 33 PLTTTM năm 2003 Trong quá trình Hội đồng trọng tài (HĐTT)
giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại
hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa
án cấp tỉnh nơi HĐTT thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số
BPKCTT.
Tác giả Tưởng Duy Lượng định nghĩa trong cuốn sách về “Pháp luật tố
tụng dân sự và thực tiễn xét xử” xuất bản năm 2009, về BPKCTT như sau “
BPKCTT là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng trước khi thụ lý và trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của
đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tranh chấp, tránh gây thiệt hại
không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án” [10, tr.225]. Với
định nghĩa này cũng nêu rõ mục đích của việc áp dụng BPKCTT, đồng thời
cũng chỉ rõ hơn về thời điểm áp dụng BPKCTT trong tố tụng dân sự.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) là những biện pháp khẩn cấp
cần được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt, để tạm thời giải quyết
những vấn đề cấp bách nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên
tranh chấp hoặc nhằm ngăn chặn các sự việc, hiện tượng hoặc hành vi có hại

5


cho các bên, cũng như cho quá trình thụ lý và giải quyết tranh chấp tại trọng
tài thương mại.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) trong tố tụng trọng tài thương
mại là những biện pháp khẩn cấp, cần thiết được trọng tài tạm thời áp dụng
trong quá trình thụ lý và giải quyết tranh chấp, trước khi ra quyết định cuối
cùng về vụ việc tranh chấp, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các
bên trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài cũng như bảo đảm cho

tố tụng trọng tài được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc trưng của biện pháp khẩn cấp tạm thời
Chủ thể yêu cầu HĐTT áp dụng BPKCTT: Trong tranh chấp kinh
doanh, thương mại chỉ có đương sự và người đại diện hợp pháp của đương sự
có quyền yêu cầu HĐTT áp dụng BPKCTT.
Chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPKCTT: Chủ thể có thẩm quyền ra
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT được pháp luật quy định, theo
điều 49 LTTTM thẩm quyền của HĐTT áp dụng BPKCTT.
Chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPKCTT dựa trên cơ sở đơn yêu cầu
áp dụng BPKCTT của đương sự HĐTT giải quyết tranh chấp có thẩm quyền
ban hành quyết định áp dụng BPKCTT trên cơ sở chấp hành pháp luật liên
quan.
Sau khi nhận được quyết định áp dụng BPKCTT thì cơ quan Thi hành
án phải chủ động thi hành ngay trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT.
Đối tượng bị áp dụng: đối tượng của các BPKCTT trong giải quyết
kinh doanh, thương mại là tài sản đang tranh chấp, tài sản của người có nghĩa
vụ và các hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác đối với tài sản đang
tranh chấp.

6


Đơn đề nghị của các bên tranh chấp là điều kiện tiên quyết cần phải có
khi muốn áp dụng BPKCTT và việc áp dụng phải nhằm bảo vệ chứng cứ, bảo
toàn tình trạng tài sản tranh chấp, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục
được hoặc đảm bảo thi hành án.
Quyền và nghĩa vụ của bên liên quan : tranh chấp kinh doanh thương
mại là tranh chấp quyền lợi tư và đối tượng áp dụng BPKCTT là tài sản, các
quyền đối với tài sản nên quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan là bình

đẳng. Do vậy, ngoài người yêu cầu, người bị yêu cầu áp dụng BPKCTT là
đương sự của vụ tranh chấp thì người liên quan đến đối tượng bị áp dụng
cũng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1.1.3. Thuộc tính của biện pháp khẩn cấp tạm thời
Tính “khẩn cấp”: cần được tiến hành, được giải quyết ngay không chậm
trễ, có tính chất nghiêm trọng, đòi hỏi phải có ngay những biện pháp tích cực
để đối phó, không cho phép chậm trễ.
Tính “tạm thời”: thể hiện ở chỗ, quyết định áp dụng BPKCTT không
phải là quyết định cuối cùng giải quyết tranh chấp, chỉ tạm thời được áp dụng
nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bên có liên quan hoặc nhằm giúp cho
thủ tục tố tụng trọng tài được thực thi một cách hiệu quả. Sau khi quyết định
áp dụng BPKCTT, nếu lý do của việc áp dụng không còn nữa thì HĐTT hủy
quyết định này.
Tính khẩn cấp cũng được hiểu là BPKCTT được áp dụng khi quyền lợi
của một bên đương sự đang bị đe dọa, đang trong tình thế cấp bách, hoặc khi
chứng cứ đang có nguy cơ bị tiêu hủy, tài sản tranh chấp đang có nguy cơ bị
tẩu tán. Do vậy tính khẩn cấp của biện pháp này thể hiện ở chổ HĐTT phải ra
ngay quyết định áp dụng BPKCTT và quyết định này phải được thi hành ngay
nếu không thì việc ra quyết định không còn giá trị.

7


Một tính chất không thể thiếu của BPKCTT nữa đó chính là tính có
hiệu lực thi hành ngay, tính “ kịp thời” của quyết định áp dụng BPKCTT tính
chất này xuất phát từ tính khẩn cấp tạm thời và được thi hành ngay mà không
bị kháng cáo kháng nghị, cơ quan thi hành án phải chủ động tổ chức thi hành
quyết định ngay.
Tính khẩn cấp của BPKCTT chỉ được bảo đảm khi và chỉ khi quyết
định áp dụng BPKCTT hợp pháp dựa trên điều kiện, thủ tục, thời hạn áp

dụng, phạm vi áp dụng và chủ thể có quyền áp dụng mà luật đã quy định.
1.1.4. Sự cần thiết phải có biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Giải quyết tranh chấp về thương mại bằng trọng tài là một hình thức
giải quyết tranh chấp mang tính tài phán, cùng tồn tại song song với hình thức
giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án. Ngược lại đây là hình thức
giải quyết tranh chấp ra đời nhằm một mặt giúp Tòa án giải quyết sự quá tải
do sự tồn động quá nhiều các vụ việc, mặt khác tạo cho các doanh nghiệp có
thêm một sự lựa chọn phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình. Với ý
nghĩa đó, việc quy định các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại là sự
cần thiết.
Việc quy định các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại nhằm
khẳng định rằng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là hình
thức giải quyết tranh chấp mang tính tài phán vì trọng tài có quyền quyết định
về vụ tranh chấp và quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm đối với các
bên.
Là hình thức giải quyết tranh chấp hỗ trợ Tòa án tháo gỡ tình trạng quá
tải khi các tranh chấp về thương mại phát sinh ngày càng nhiều, hình thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài không thể nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp
luật về trọng tài thương mại nói riêng và pháp luật tố tụng dân sự nói chung.
8


Việc quy định các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại là cần thiết,
bằng việc quy định về các biện pháp này trong tố tụng trọng tài thương mại,
pháp luật trọng tài thương mại muốn thừa nhận và khẳng định rằng giải quyết
tranh chấp về thương mại bằng trọng tài thương mại là hình thức giải quyết
tranh chấp mang tính tài phán, cùng tồn tại song hành với Tòa án và cùng chịu
sự điều chỉnh của pháp luật về tố tụng dân sự nói chung và pháp luật về trọng
tài thương mại nói riêng.

Quy định BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong quá trình thụ lý tranh chấp bảo
toàn tình trạng tài sản, bảo đảm đối tượng của vụ tranh chấp không bị thay
đổi trước khi trọng tài ra phán quyết về vụ tranh chấp.
Việc áp dụng BPKCTT mang nhiều ý nghĩa không những đối với việc
giải quyết vụ kiện của trọng tài mà cả đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên tranh chấp. Điều này tạo lòng tin cho các doanh nghiệp khi
họ muốn lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại,
Họ hiểu rằng dù cơ quan giải quyết tranh chấp là Tòa án hay Trọng tài thương
mại thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong tố tụng vẫn được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ.
Trên thực tế vì lợi ích của mình hoặc do sự thiếu thiện chí của một
trong số các bên tranh chấp đã có hành vi tẩu tán tài sản, hủy hoại chứng cứ
việc áp dụng BPKCTT trong những trường hợp này, một mặt có tác động
chống lại các hành vi đó nhằm bảo vệ được chứng cứ, mặc khác còn bảo toàn
được tình trạng tài sản và giữ được tài sản bảo đảm cho việc thi hành quyết
định của trọng tài thương mại sau này.
Việc áp dụng BPKCTT sẽ giúp các doanh nghiệp trong việc bảo toàn
vốn, bảo vệ tình trạng tài sản của doanh nghiệp và trong nhiều trường hợp là
bảo vệ tài sản của Nhà nước, tài sản chung của các cổ đông.
9


Quy định về các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại góp phần
nâng cao uy tín của các tổ chức trọng tài thương mại nói chung và của việc
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại nói riêng.
Có thể nói áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một thủ tục mang lại
kết quả giải quyết vụ việc tranh chấp có hiệu quả nhất. Áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời là một trong những hoạt động tố tụng được hội đồng trọng
tài có thẩm quyền áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình tiến hành tố tụng, cũng
như đảm bảo hiệu quả của quá trình thi hành án.
1.2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.2.1. Bảo đảm quyền lợi của các bên đương sự
Chỉ khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện này thì việc áp dụng BPKCTT
mới được thực thi, người yêu cầu áp dụng phải chứng minh được việc yêu cầu
là cần thiết, phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi yêu cầu áp dụng
không đúng, bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải nộp một khoản tài chính do
Hội đồng trọng tài ấn định để đảm bảo cho yêu cầu áp dụng. Đây là điều hoàn
toàn phù hợp và cần thiết, việc quy định trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo
đảm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người có yêu cầu, buộc họ phải cân
nhắc và có trách nhiệm khi muốn áp dụng BPKCTT, Tuy nhiên cũng cần phải
có cơ chế bảo đảm cho người có yêu cầu áp dụng BPKCTT trong trường hợp
họ đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật.
1.2.2. Bảo đảm tính hiệu quả của biện pháp được áp dụng
Có thể nói áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một thủ tục mang lại
kết quả giải quyết vụ việc tranh chấp có hiệu quả nhất. Áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời là một trong những hoạt động tố tụng được hội đồng trọng
tài có thẩm quyền áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ

10


quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình tiến hành tố tụng, cũng
như đảm bảo hiệu quả của quá trình thi hành án.
BPKCTT có thể áp dụng trước khi thụ lý vụ việc dân sự, còn tấc cả các
biện pháp khác, quyết định khác chỉ được áp dụng sau khi vụ án được thụ lý.
Xuất phát từ mục đích là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự được kịp thời ngăn chặn những hành vi gây thiệt hại, tẩu tán tài sản, hủy
hoại chứng cứ giúp cho quá trình giải quyết tranh chấp của HĐTT được thuận

lợi và đặc biệt là việc đảm bảo cho việc thi hành quyết định trọng tài.
Tính hiệu quả của BPKCTT thể hiện trước hết ở tính kịp thời của nó,
sự chậm trễ trong áp dụng BPKCTT có khi dẫn đến việc vô hiệu hóa toàn bộ
kết quả hoạt động tố tụng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho bên có lợi ích hợp
pháp, kéo theo nhiều hệ lụy về trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh
thương mại cho các bên tranh chấp mà khó có thể khắc phục được trên thực
tế. Theo khoản 4 điều 50 LTTTM năm 2010 trong thời hạn ba ngày làm việc,
kể từ ngày nhận đơn, ngay sau khi bên yêu cầu đã thực hiện biện pháp bảo
đảm theo quy định thì HDTT xem xét ra quyết định áp dụng BPKCTT.
Trường hợp không chấp nhận yêu cầu, HĐTT thông báo bằng văn bản nêu rõ
lý do cho bên yêu cầu biết. Việc thi hành quyết định áp dụng BPKCTT của
HĐTT được thưc hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
(theo khoản 5 điều 50 LTTTM năm 2010).
Theo khoản 5 điều 49 LTTTM năm 2010 Hội đồng trọng tài áp dụng
BPKCTT khác hoặc vượt quá yêu cầu áp dụng BPKCTT của bên yêu cầu mà
gây thiệt hại cho bên yêu cầu, bên bị áp dụng hoặc người thứ ba thì người bị
thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết bồi thường theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

11


1.2.3. Bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự
Quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự là một trong những
nguyên tắc cơ bản thể hiện sự tôn trọng nguyện vọng của các đương sự. Theo
khoản 1 điều 4 LTTTM năm 2010 Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận
của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình (theo khoản 3 điều 4 LTTTM năm 2010- Nguyên
tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài).

Tranh chấp trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh thương mại là tranh
chấp về lợi ích tư, việc có yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
hay không là do các bên tranh chấp hoàn toàn quyết định
Đơn yêu cầu của đương sự là căn cứ để HĐTT xem xét quyết định áp
dụng BPKCTT, tên của BPKCTT cũng là do đương sự lựa chọn trong những
biện pháp do pháp luật quy định, phạm vi áp dụng của mỗi biện pháp do
đương sự lựa chọn. Điều này chứng tỏ rằng HĐTT là chủ thể có quyền ra
quyết định áp dụng BPKCTT nhưng quyền này phụ thuộc vào sự chủ động
và tự quyết của các bên đương sự.
Và khi yêu cầu áp dụng BPKCTT của đương sự là hợp pháp thì HĐTT
có tránh nhiệm áp dụng đúng biện pháp, đúng phạm vi yêu cầu của đương sự.
Áp dụng BPKCTT trong pháp luật trọng tài thương mại LTTTM năm
2010 vừa thể hiện quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp, vừa tăng cường
vai trò của trọng tài thương mại, từ đó tạo cơ sở pháp lý khuyến khích sự phát
triển của cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại,
một thiết chế tài phán tư được thừa nhận ở phạm vi quốc tế, ở nhiều nước
cũng như ở Việt Nam. Đặc biệt, với các doanh nghiệp Việt Nam, việc quy
định về các BPKCTT trong pháp luật trọng tài thương mại sẽ góp phần làm
cho các doanh nghiệp tin tưởng hơn vào hình thức giải quyết tranh chấp này.
12


1.3. Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong luật trọng tài
thương mại năm 2010.
Các BPKCTT được quy định trong LTTTM năm 2010 theo khoản 2
điều 49 :
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, HĐTT có thể áp dụng BPKCTT
này khi hội tụ đầy đủ các điều kiện: đối tượng mà đương sự yêu cầu áp dụng
BPKCTT phải là tài sản đang có tranh chấp, người đang chiếm hữu hoặc giữ

tài sản hoặc người khác đang có hành vi làm thay đổi hiện trạng của tài sản
như phá hủy, tháo dỡ, lắp ghép xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay
đổi hiện trạng tài sản, người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ
bảo đảm tài chính.
Đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT phải đưa ra tài liệu, chứng cứ
chứng minh bên đang chiếm hữu, giữ tài sản đang có hành vi làm thay đổi
hiện trạng tài sản. HĐTT hoặc Thẩm phán phải xem xét các yêu cầu, các căn
cứ mà đương sự đã đưa ra để quyết định có áp dụng BPKCTT đó hay không.
- Nghiêm cấm các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng
tài.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu thấy đương sự nào đó đang
có hành vi mà hành vi đó sẽ tác động gây bất lợi cho quá trình tố tụng trọng
tài thì đương sự bên kia có quyền yêu cầu trọng tài hoặc Tòa án áp dụng biện
pháp cấm hoặc buộc bên tranh chấp thực hiện một hoặc một số hành vi nhất
định. Khi có đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT này, nếu thấy yêu cầu đó là
chính đáng và đương sự đã xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho
việc cần thiết phải áp dụng BPKCTT này thì Trọng tài hoặc Tòa án phải áp
dụng ngay.
- Kê biên tài sản đang tranh chấp
13


Kê biên tài sản chỉ áp dụng cho trường hợp người chiếm giữ tài sản
đang có tranh chấp có hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản đang có tranh chấp gây
khó khăn trong việc xem xét, giải quyết của HĐTT hoặc thi hành án sau này,
thì theo yêu cầu của một trong các bên đương sự HĐTT hoặc Tòa án có quyền
áp dụng BPKCTT này.
Khi lập biên bản kê biên phải ghi rõ ngày, giờ, loại tài sản, mô tả đầy
đủ, chính xác tình trạng tài sản. Nếu cơ quan , người thứ ba được giao quản lý
tài sản kê biên có thể được hưởng thù lao theo quy định của pháp luật.

- Có những tài sản đang tranh chấp hoặc có liên quan đến tranh chấp,
nếu không xử lý kịp thời sẽ làm hư hỏng, mất giá trị, giảm giá trị hoặc làm
biến dạng tài sản, thì theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp có thể áp
dụng BPKCTT “ bảo tồn, cất giữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của
một hoặc các bên tranh chấp” thì HĐTT hoặc Tòa án sẽ áp dụng biện pháp
này khi các bên đương sự đã đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp này.
- Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
Để kịp thời xử lý những nhu cầu cấp bách của đương sự, dù hai bên
còn đang có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, về hợp đồng mua bán hàng hóa,
dịch vụ đang phải chờ HĐTT phán xử, thì theo yêu cầu của một trong các bên
tranh chấp, HĐTT hoặc Tòa án có thể áp dụng BPKCTT về việc trả tiền giữa
các bên tranh chấp khi bên yêu cầu đã chứng minh yêu cầu áp dụng biện
pháp này là chính đáng, cần thiết.
- Hoạt động tố tụng trọng tài được diễn ra trong thời gian không dài so
với tố tụng tại Tòa án, nhưng nó vẫn cần một khoản thời gian nhất định. Lợi
dụng thời gian tố tụng trọng tài đang diễn ra một bên tranh chấp có thể có
hành vi bán, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho tài sản đang có tranh chấp
hành vi này đe dọa gây ra những thiệt hại cho đương sự khác hoặc gây khó
14


khăn trong việc giải quyết tranh chấp, xử lý tài sản tranh chấp. Do đó khi có
yêu cầu của một trong các bên đương sự áp dụng BPKCTT cấm chuyển dịch
quyền về tài sản đối với tài sản đang có tranh chấp thì HĐTT hoặc Tòa án
phải áp dụng biện pháp này.
LTTTM năm 2010 vẫn còn thiếu những BPKCTT phù hợp với thực
tiễn và tính chất của hoạt động thương mại. so với PLTTTM năm 2003 tại
điều 33 gồm 6 BPKCTT:
- Bảo toàn chứng cứ…

- Kê biên tài sản tranh chấp;
- Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
- Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ;
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng.
Theo khoản 2 điều 49 LTTTM năm 2010 các BPKCTT bao gồm:
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
- Cấm các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài;
- Kê biên tài sản đang tranh chấp;
- Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của
một hoặc các bên tranh chấp;
-Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
- Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đang tranh chấp.
Tuy nhiên, LTTTM năm 2010 lại không quy định về biện pháp phong
tỏa tài khoản tại ngân hàng, phong tỏa tài sản nơi gửi giữ, phong tỏa tài sản
của người có nghĩa vụ… Điều này là không phù hợp với tính chất của hoạt
động thương mại vì trong thực tiễn kinh doanh hiện nay các doanh nghiệp
thường giao dịch với nhau thông qua ngân hàng nơi có tài khoản của họ,vì
vâỵ khi xảy ra tranh chấp nếu một bên có ý đồ không tốt như cố tình không
15


thực hiện nghĩa vụ bằng cách tẩu tán tài sản chuyển khoản sang tài khoản của
người khác thì HĐTT sẽ rất khó kiểm soát được hành vi này.
Thẩm quyền áp dụng BPKCTT của HĐTT
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, một trong các bên tranh chấp yêu
cầu HĐTT áp dụng BPKCTT thì HĐTT có quyền áp dụng BPKCTT và chỉ
được áp dụng các BPKCTT mà đương sự đã yêu cầu.
Theo điều 49 LTTTM năm 2010 thì HĐTT có quyền áp dụng BPKCTT
đối với các bên tranh chấp mà không có thẩm quyền đối với bên thứ ba. Điều

này khác với thẩm quyền của Tòa án, bởi Tòa án có quyền áp dụng BPKCTT
đối với cả bên thứ ba nếu được yêu cầu và xét thấy có đủ căn cứ theo luật.
Trong trường hợp có yêu cầu và trọng tài áp dụng cho bên thứ ba, cần làm rõ
bên thứ ba có liên quan đến thỏa thuận trọng tài hay không, vì thong thường
thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tham gia thỏa
thuận đó. Chỉ một số ít trường hợp bên thứ ba trong thảo thuận trọng tài bị
ràng buộc bởi thỏa thuận đó. Theo tập đoàn công ty mà theo đó những quyền
và lợi và trách nhiệm phát sinh từ một thỏa thuận trọng tài trong một số
trường hợp có thể mở rộng sang các thành viên khác trong tập đoàn các công
ty con. Do hiệu lực của quy tắc chung về chuyển nhượng , đại lý và kế thừa,
theo đó một chi nhánh của một bên trong điều khoản trọng tài có thể là đồng
bị đơn trong quá trình tố tung trọng tài. Tuy nhiên, cần phải chỉ rõ rằng những
trường hợp trên là hạn chế và thông thường thỏa thuận trọng tài không liên
quan đến bên thứ ba, để việc hiểu và áp dụng thống nhất , khi sửa đổi, bổ sung
LTTTM cần quy định rõ khi nào thì thỏa thuận trọng tài sẽ có giá trị đối với
bên thứ ba, và chỉ khi đó HĐTT mới có thẩm quyền áp dụng BPKCTT đối
với bên thứ ba đó.
Trước khi áp dụng BPKCTT thì HĐTT phải hỏi đương sự và kiểm tra
một trong các bên đương sự đã yêu cầu Tòa án và Tòa án đã áp dụng một
16


hoặc một số BPKCTT hay chưa. Nếu một trong các bên đương sự đã yêu cầu
Tòa án áp dụng BPKCTT thì HĐTT phải từ chối việc áp dụng BPKCTT, theo
khoản 3 điều 49 LTTTM năm 2010 “Trong quá trình gải quyết tranh chấp,
nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số BPKCTT
quy định tại khoản 2 điều 49 LTTTM năm 2010 mà sau đó lại có đơn yêu cầu
HĐTT áp dụng BPKCTT thì HĐTT phải từ chối”.
Điều kiện để áp dụng BPKCTT
Theo quy định tại khoản 1, 3, 4 điều 49 LTTTM năm 2010 trọng tài chỉ

có thể áp dụng BPKCTT khi có đủ bốn điều kiện sau:
- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT cụ thể;
- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự
cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó;
- Người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm về
tài chính để đảm bảo việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng;
- Chưa có đương sự nào yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT
Nếu thiếu một trong bốn điều kiện nói trên thì HĐTT sẽ không áp dụng
BPKCTT.
Thủ tục áp dụng BPKCTT của HĐTT theo điều 50 LTTTM
- Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải làm đơn gửi đến HĐTT theo
khoản 1 điều 50 LTTTM năm 2010.
- Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT phải có các nội dung chính sau đây
theo khoản 2 điều 50 LTTTM năm 2010.
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của bên có yêu cầu áp dụng BPKCTT;
c) Tên, địa chỉ của bên bị yêu cầu áp dụng BPKCTT;
d) Tóm tắt nội dung tranh chấp;
17


đ) Lý do cần phải áp dụng BPKCTT;
e) BPKCTT cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể;
Kèm theo đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, bên yêu cầu phải cung cấp
cho HĐTT chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT
đó.
Theo quyết định của HĐTT, bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải gửi
một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do HĐTT ấn định
tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh do do áp dụng BPKCTT không

đúng gây ra (theo khoản 3 điều 50 LTTTM năm 2010).
Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, ngay sau khi bên
yêu cầu đã thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại khoản 3 điều 50 thì
HĐTT xem xét ra quyết định áp dụng BPKCTT. Trường hợp không chấp
nhận yêu cầu, HĐTT phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho bên
yêu cầu biết (theo khoản 4 điều 50 LTTTM năm 2010).
Việc thi hành quyết định áp dụng BPKCTT của HĐTT được thực hiện
theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (theo khoản 5 điều 50
LTTTM năm 2010).
Thẩm quyền thay đổi, bổ sung BPKCTT của HĐTT
Sau khi HĐTT đã ra quyết định áp dụng BPKCTT, theo yêu cầu của
một bên, HĐTT có quyền thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT vào bất kỳ thời
điểm nào trong quá trình giải quyết tranh chấp (theo khoản 1 điều 51 LTTTM
năm 2010).
Thủ tục thay đổi, bổ sung BPKCTT của HĐTT
Bên yêu cầu thay đổi, bổ sung BPKCTT phải làm đơn gửi HĐTT. Đơn
yêu cầu thay đổi bổ sung BPKCTT phải có các nội dung sau:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của bên có yêu cầu áp dụng BPKCTT;
18


×