Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự từ thực tiễn trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.52 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ CƢỠNG CHẾ THU HỒI NỢ
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

TRẦN QUỐC THÁI

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ CƢỠNG CHẾ THU HỒI NỢ
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

TRẦN QUỐC THÁI
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:TS. ĐÔNG NGỌC BA

HÀ NỘI - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
trích dẫn trong luận văn hoàn toàn trung thực. Những kết quả trong luận văn
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Quốc Thái


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu đề tài “Pháp luật về cưỡng chế thu hồi
nợ trong thi hành án dân sự từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội”, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy, cô giáo trường Viện Đại học
Mở Hà Nội để hoàn thành luận văn này.
Với tình cảm chân thành, tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban giám hiệu
trường Viện Đại học Mở Hà Nội, các thầy giáo, cô giáo đã tham gia quản lý, giảng
dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.Tôi xin bày tỏ sự biết ơn
đặc biệt đến Thầy giáo, Tiến sỹ Đông Ngọc Ba - người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp
đỡ về kiến thức, tài liệu và phương pháp để tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa
học này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên,
cổ vũ, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt quá trình thực hiện đề tài, song vẫn
còn những mặt hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp và sự
chỉ dẫn của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp./.
Xin chân thành cảm ơn!



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƢỠNG CHẾ THU HỒI NỢ
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .......................................................................... 7
1.1.Khái niệm và vai trò của cƣỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự .... 7
1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự......................... 7
1.1.2. Vai trò của cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự...................... 11
1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến việc thực hiện
pháp luật về cƣỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự ............................. 12
1.2.1. Khái niệm pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự .. 12
1.2.2. Nội dung của pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự .... 13
1.2.3. Vai trò của pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ ......................................... 15
1.2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự thu hồi nợ trong thi hành án dân sự ........................................... 16
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƢỠNG CHẾ THU HỒI
NỢ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................... 21
2.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự ........ 21
2.1.1. Căn cứ cưỡng chế thu hồi nợ .................................................................... 21
2.1.2. Điều kiện áp dụng cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự .......... 21
2.1.3. Nguyên tắc áp dụng cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự ....... 22
2.1.4. Các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ theo pháp luật thi hành án dân sự .. 24
2.1.5. Trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án.................................................... 30
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về cƣỡng chế thu hồi nợ trong thi hành
án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội............................................................. 33
2.2.1. Tình hình cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự trên địa bàn
thành phố Hà Nội ................................................................................................ 33



2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định pháp
luật về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự trên địa bàn thành
phố Hà Nội.......................................................................................................... 38
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế về áp dụng pháp luật cưỡng
chế thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội .................................................... 45
Chƣơng 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THU HỒI NỢ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..... 51
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về cƣỡng chế thu hồi nợ .................... 51
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự về cưỡng chế thu hồi nợ theo
hướng đề cao trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan THADS và cá nhân các
Chấp hành viên ................................................................................................... 51
3.1.2. Minh bạch hóa quá trình cưỡng chế thi hành án ...................................... 52
3.1.3. Huy động sự tham gia tích cực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào
hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự ............................................................ 54
3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thi hành pháp luật về
cƣỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự .................................................. 56
3.2.1. Hoàn thiện một số quy định pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ trong
thi hành án dân sự ............................................................................................... 56
3.2.2. Giải pháp bảo đảm hiệu quả thi hành pháp luật về cưỡng chế thu hồi
nợ trong thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội .............................. 57
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 66


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

GCNQSDĐ

:


Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

QSDĐ

:

Quyền sử dụng đất

THADS

:

Thi hành án dân sự


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm
2014 đến năm 2018 về việc ................................................................. 35
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm
2014 đến năm 2018 về tiền ................................................................. 35
Bảng 2.3: Kết quả việc áp dụng cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thu hồi nợ
trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 đến năm 2018 ............... 36
Bảng 2.4: Kết quả áp dụng đối với từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014
đến năm 2018...................................................................................... 37


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong tình hình kinh tế, xã hội phát triển không ngừng như hiện nay, các
quan hệ xã hội liên tục phát sinh và biến đổi phức tạp, dẫn đến nhiều tranh chấp
xuất hiện. Chính thực trạng này đòi hỏi phải có cơ chế điều chỉnh của pháp luật để
các tranh chấp được giải quyết nhanh chóng, kịp thời và thỏa đáng. Mặc dù phán
quyết của Tòa án mang tính quyền lực Nhà nước và có hiệu lực bắt buộc với các
bên đương sự, nhưng để đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án được tôn trọng và
được thực thi trên thực tế thì thi hành án dân sự là một khâu không thể thiếu để
hoàn tất quá trình giải quyết tranh chấp dân sự. Vì thế, hoạt động thi hành án dân
sự mang ý nghĩa thực sự quan trọng trong việc giữ gìn kỷ cương phép nước, củng
cố trật tự pháp luật và giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực
tư pháp được thực thi trên thực tế. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động
thi hành án dân sự, nhiều năm qua Chính phủ đã xác định công tác thi hành án dân
sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả
nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác này. Luật thi hành án dân sự năm
2008 ra đời, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 cùng với các văn bản hướng dẫn thi
hành đã đánh dấu bước đổi mới cơ bản điều chỉnh tất cả các lĩnh vực trong công
tác thi hành án.
Khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, không phải người
phải thi hành án nào cũng có ý thức và thái độ tự nguyện thi hành án, dẫn đến việc
giải quyết vụ việc bị kéo dài, không triệt để. Do đó, các biện pháp cưỡng chế để thu
hồi nợ được vận dụng để mang lại hiệu quả nhanh chóng và kịp thời cho hoạt động
thi hành án. Rõ ràng, hiệu quả của hoạt động cưỡng chế thi hành án có ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh những kết
quả đã đạt được, trong quá trình áp dụng pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ vẫn còn
những tồn tại, khó khăn, vướng mắc. Cụ thể: một số quy định về trình tự, thủ tục
cưỡng chế thi hành án còn chồng chéo; các chủ thể chưa thực hiện đúng quy định
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự như người phải thi hành án cản trở,

1



chống đối việc cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên chưa tuân thủ các đúng các
trình tự, thủ tục cưỡng chế, các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan chưa phối hợp
với cơ quan thi hành án; các điều kiện đảm bảo cho công tác cưỡng chế thi hành án (kinh
phí, phương tiện làm việc, công cụ hỗ trợ…) chưa phù hợp nên chưa đảm bảo hiệu quả
cưỡng chế thi hành án dân sự… Đặc biệt, số lượng việc và tiền tồn đọng hàng năm còn
rất lớn, số việc thụ lý năm sau đều có xu hướng tăng cao hơn năm trước với tính chất và
mức độ phức tạp hơn. Thành phố Hà Nội với đặc điểm là trung tâm kinh tế - chính trị văn hóa lớn nhất cả nước cũng là luôn là điểm nóng về công tác thi hành án dân sự khi số
lượng việc tồn đọng và thụ lý mới hàng năm đều tăng nhanh và luôn nằm trong vị trí dẫn
đầu cả nước cả về số việc lẫn số tiền phải giải quyết.
Mặt khác, hoạt động cưỡng chế thi hành án có tác động sâu rộng đến các
quan hệ xã hội của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan. Do đó, vấn đề cưỡng chế thu hồi nợ cần phải được nghiên
cứu kĩ lưỡng để vừa đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, vừa bảo đảm
được quyền lợi hợp pháp của đương sự.
Với tất cả những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về cưỡng chế
thu hồi nợ trong thi hành án dân sự từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Để thu hồi nợ theo bản án, quyết định một cách hiệu quả, cưỡng chế thi hành
án chính là một trong những biện pháp căn bản và hữu hiệu nhất. Do đó, việc tìm
hiểu và nghiên cứu để hoàn thiện chế định này trong pháp luật thi hành án dân sự là
mục đích của nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Tiêu biểu trong số đó phải kể
đến các công trình sau:
- “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt
Nam”, Lê Anh Tuấn, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2017.

2



- “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện
nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Lê Xuân Tùng, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà
Nội, 2016.
- “Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản trong thi hành án dân sự”, Nguyễn
Thanh Phong, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2011.
- “Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền trong hoạt động thi hành
án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Lê Đình Nam, luận văn thạc sĩ luật
học, 2012.
- “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn
Thanh Thủy, Luận án tiến sĩ luật học, 2008.
- “Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở thành phố Hà Nội”, Nguyễn
Thị Kim Tuyến, Luận văn thạc sĩ luật học, 2010.
- “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng
hoàn thiện”, Nguyễn Công Long, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2000.
- “Áp dụng pháp luật trong cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
nay”, Nguyễn Trọng Tân, luận văn thạc sĩ Luật học, 2008.
Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành của các
chuyên gia, các nhà nghiên cứu khoa học như: “Hoàn thiện pháp luật về các biện
pháp cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Phương Thảo, tạp chí Luật học số
11/2018;“Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự” của tác giả Nguyễn Doãn Phương, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 08/2016;
“Những điểm mới về cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Lê Anh Tuấn, tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Thi hành án dân sự năm 2015; “Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài
sản để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị” của tác giả Trần Công Thịnh, tạp
chí Khoa học ĐHQGHN số 24/2008;“Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”
của tác giả Trần Phương Thảo, tạp chí Luật học số 07/2007…

3



Nhìn chung, các công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi
hành án dân sự nói riêng. Tuy nhiên, các công trình này đều chú trọng nghiên cứu
toàn diện về cưỡng chế thi hành án, chưa có công trình nào tập trung đi sâu vào
pháp luật về cưỡng chế thi hành án nhằm mục đích thu hồi nợ, đặc biệt là trên địa
bàn mang tính đặc thù là Thủ đô Hà Nội. Vì vậy, sau khi nghiên cứu, tiếp thu có
chọn lọc các quan điểm, phân tích, đánh giá của các công trình khoa học trên, tác giả
xác định việc nghiên cứu chuyên sâu pháp luật thi hành án dân sự về cưỡng chế thu hồi
nợ từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội là cần thiết và có giá trị áp dụng thực tế.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về đối tượng: Đề tài này đi sâu nghiên cứu, phân tích pháp luật về cưỡng chế
thu hồi nợ từ cơ sở lý luận khoa học, từ các quy định pháp luật hiện hành đến thực
tiễn, thực trạng áp dụng pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thu hồi nợ
trong quá trình tổ chức thi hành án tại các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn
thành phố Hà Nội hiện nay.
Về phạm vi: Luận văn phân tích, đánh giá về thực tiễn áp dụng pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội từ
năm 2014 đến 2018.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở kế thừa và làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật
cưỡng chế thi hành án dân sự, luận văn đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về
cưỡng chế nhằm thu hồi nợ để thi hành bản án, quyết định của Tòa án qua thực tiễn
tại thành phố Hà Nội; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả công tác cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời
gian tới.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung và cưỡng
chế nhằm thu hồi nợ nói riêng.


4


- Đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội để thấy những kết quả đã đạt được,
chỉ ra những tồn tại, hạn chế, vướng mắc, từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn
chế, vướng mắc này.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả của công
tác cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội để
có thể nhân rộng điển hình đến các cơ quan thi hành án dân sự trong cả nước.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận: Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, hệ thống các quan điểm, học thuyết MacLenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được tiến hành nghiên cứu dựa trên các
phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá số liệu thu thập
được liên quan đến pháp luật và thực trạng của công tác cưỡng chế thi hành án dân
sự nhằm thu hồi nợ qua thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội.
6. Nội dung của luận văn
Về lý luận: luận văn góp phần làm rõ thêm khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội
dung của chế định cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế nhằm thu hồi
nợ nói riêng và cơ sở của việc quy định cưỡng chế thi hành án; luận văn phân tích,
đánh giá đúng thực trạng các quy định của Luật THADS về cưỡng chế THADS
nhằm thu hồi nợ và thực tiễn của công tác cưỡng chế THADS nhằm thu hồi nợ trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
Về thực tiễn: từ những phân tích, đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất
những kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về
cưỡng chế THADS nhằm thu hồi nợ và kinh nghiệm vận dụng những kiến nghị, giải
pháp cụ thể đó vào thực tế nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS tại thành phố
Hà Nội nói riêng cũng như trong công tác THADS nói chung tại các địa phương

trong cả nước.

5


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần chính của
luận văn có 03 chương với những nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án
dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án
dân sự và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế
thu hồi nợ trong thi hành án dân sự.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƢỠNG CHẾ
THU HỒI NỢ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.Khái niệm và vai trò của cƣỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự
Hoạt động Thi hành án dân sự được hiểu là quá trình thực hiện các quyền và
nghĩa vụ dân sự của các bên khi được bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan
có thẩm quyền khác ghi nhận. Tuy nhiên, khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án,
nếu người phải thi hành án mặc dù có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trốn
tránh, trì hoãn, không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình thì lúc này Cưỡng chế
thi hành án được xem là công cụ hữu hiệu nhất để bản án, quyết định của Tòa án
được thực thi triệt để. Tại Điều 45, 46 Luật THADS quy định: sau khi hết thời gian

tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án….
Vậy cưỡng chế thi hành án được hiểu như thế nào?
Cưỡng chế Nhà nước là dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức
thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định trái với ý muốn của họ.
Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý Nhà nước và là phương pháp thường
xuyên được áp dụng trong quản lý Nhà nước [32-Tr.70].
Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng
quyền lực nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân
sự của họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.
Cưỡng chế thi hành án là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của các cơ quan có
thẩm quyền thi hành án, do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc
người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo
bản án, quyết định Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong trường hợp người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành, hoặc trong

7


trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài
sản hoặc trốn tránh việc thi hành án.
Như vậy, từ những khái niệm này có thể xác định được những vấn đề về
cưỡng chế thi hành án như sau:
- Chủ thể áp dụng cưỡng chế thi hành án là các Chấp hành viên được cơ quan
thi hành án phân công theo quyết định phân công để giải quyết thi hành án theo
từng vụ việc cụ thể.
- Khách thể: là việc thực thi các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền khác.
- Đối tượng: là người phải thi hành án được nêu trong phán quyết của Tòa
án, có thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan…

- Mục đích áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án là buộc người phải thi
hành án thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản, hoặc cần ngăn chặn người
phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.
Trong phạm vi bài viết, luận văn chỉ tập trung vào mục đích cưỡng chế nhằm
thu hồi nợ. Thu hồi nợ được hiểu là là yêu cầu khách nợ thanh toán cho chủ nợ các
khoản tiền, tài sản khác đến hạn/quá hạn mà khách nợ phải trả cho chủ nợ theo hợp
đồng hoặc thỏa thuận giữa chủ nợ và khách nợ hoặc theo quyết định của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền [19-Tr.69]. Doanh nghiệp đạt trạng thái hoạt động lý
tưởng khi không nợ quá hạn và không bị doanh nghiệp nào đó chiếm dụng vốn
quá thời gian quy định. Tuy nhiên, thật khó để tìm ra doanh nghiệp nào có thể
đạt được trạng thái này trong hàng trăm ngàn doanh nghiệp tại Việt Nam. Trên
thực tế, các doanh nghiệp đều muốn chiếm dụng vốn được của doanh nghiệp
khác càng lâu, càng có lợi cho mình, đặc biệt khi mà hoàn cảnh kinh tế khó khăn
như những năm gần đây. Và bằng chứng là hầu hết các doanh nghiệp bị phá sản
bởi không thể thanh toán được các khoản nợ, hoặc không thể thanh khoản các
khoản nợ của khách nợ quá hạn.

8


Việc cưỡng chế thi hành án nhằm thu hồi nợ (được hiểu là thực hiện các
nghĩa vụ về tài sản, bao gồm các khoản thu nộp cho Ngân sách nhà nước như án
phí, phạt… và các khoản nợ đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức).
Như vậy có thể hiểu hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ là: là biện pháp thi hành
án dân sự dùng quyền lực Nhà nước nhằm buộc người phải thi hành án thực hiện
nghĩa vụ về tài sản để thu hồi nợ theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật, do Chấp hành viên thuộc cơ quan thi hành án có thẩm quyền áp dụng
trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành nhưng không tự
nguyện thi hành án.
Cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, cưỡng chế thu hồi nợ thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước
và được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước. Chỉ có cơ quan chức năng và
người có thẩm quyền được Nhà nước quy định mới được phép áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo luật định. Ở nước ta, thẩm quyền thực hiện
cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc về cơ quan Thi hành án dân sự các cấp và người
có thẩm quyền là các Chấp hành viên được phân công thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, cưỡng chế thi hành án là một nguyên tắc cơ bản trong thi hành án
dân sự. Điều 9 Luật Thi hành án dân sự quy định: “1. Nhà nước khuyến khích
đương sự tự nguyện thi hành án. 2. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của luật
này.” Luật này cũng quy định người phải thi hành án có thời gian tự nguyện thi
hành án là 10 ngày kể từ ngày họ nhận được quyết định thi hành án hoặc được
thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Như vậy, tinh thần của Điều luật đã thể
hiện quan điểm việc thi hành án được tổ chức tuân theo nguyên tắc kết hợp giữa
thái độ tự nguyện của người phải thi hành án và sự cưỡng chế của Nhà nước thông
qua hoạt động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên. Tuy nhiên, có thể hiểu
Nhà nước đã trao cho đương sự quyền lựa chọn phương thức thi hành án, và sự tự
nguyện thi hành án được khuyến khích thực hiện trước khi Nhà nước phải áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án.

9


Thứ ba,cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ có hiệu lực bắt buộc đối với
người phải thi hành án mà tất cả những cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đều
phải tôn trọng và thực hiện. Nói một cách khác, để đảm bảo hoạt động cưỡng chế
thi hành án đạt hiệu quả, các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đều phải có
trách nhiệm phối hợp và thực hiện. Chẳng hạn Chấp hành viên ra quyết định cưỡng
chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông A, trong khi đó
gia đình ông B hiện đang ở nhờ trên diện tích đất này thì ngoài ông A, gia đình ông

B cũng phải có trách nhiệm thực hiện quyết định này của cơ quan thi hành án.
Thứ tư, người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về cưỡng chế. Khi áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, ngoài việc phải thực hiện các nghĩa
vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, người phải thi hành án còn phải
chịu tất cả các chi phí để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án, như chi phí cho việc
định giá, giám định tài sản, bán đấu giá tài sản, tiền bồi dưỡng cho những người
trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế thi hành án.
Thứ năm, việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành án chỉ được áp
dụng khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Chấp hành viên trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ phải tiến hành xác minh điều kiện của người phải thi hành
án để xem người này có hay không có điều kiện thi hành án. Quy định này thể hiện
quan điểm nhân đạo của Nhà nước, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người phải thi
hành án, đồng thời cũng đảm bảo hoạt động cưỡng chế khi được áp dụng sẽ đạt hiệu
quả khả thi trong thực tiễn.
Ngoài những đặc điểm chung, hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ cũng có đặc
điểm riêng. Đối tượng nhắm đến của hoạt động này không bao gồm hành vi của
người phải thi hành án mà chỉ là các nghĩa vụ về tài sản của người phải thi hành án
đối với Nhà nước và các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Từ đặc điểm này đã xác
định không phải tất cả biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật Thi hành án
dân sự đều được áp dụng, mà chỉ những biện pháp cưỡng chế mà đối tượng mà nó
nhắm đến là tài sản của người phải thi hành án nhằm mục đích thu hồi nợ.

10


1.1.2. Vai trò của cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự
Các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất bảo
đảm thi hành nghiêm chỉnh, hiệu quả bản án, quyết định của tòa án đối với các
nghĩa vụ về tài sản, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân, tổ
chức, cơ quan có liên quan. Pháp luật quy định và đề cao tính tự nguyện thi hành

của người phải thi hành án theo phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do, mà chủ yếu xuất phát từ phía người phải thi hành án, việc
để các bên liên quan tự nguyện chấp hành đã không mang lại hiệu quả thi hành án
cao. Các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ bằng hiệu lực cưỡng chế Nhà nước mang
tính bắt buộc của mình trên thực tiễn đã chứng minh tính hiệu quả cao và kịp thời.
Nếu không có chế định cưỡng chế nhằm thu hồi nợ, các bên đương sự sẽ có tâm lý
chây ì và thiếu tôn trọng phán quyết của Tòa án nói riêng, pháp luật của Nhà nước
nói chung vì cho rằng Nhà nước thiếu cơ chế xử lý đối với các nghĩa vụ mà họ phải
thi hành, từ đó dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cá nhân, tổ
chức, cơ quan có liên quan không được đảm bảo. Đối với những người phải thi
hành án có thái độ không hợp tác, chống đối thì cưỡng chế thi hành án sẽ là biện
pháp sử dụng sức mạnh Nhà nước buộc họ phải chấp hành để đảm bảo lợi ích hợp
pháp bị xâm hại được khôi phục.[32-Tr.70]
Góp phần nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án dân sự. Nói như vậy bởi lẽ giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng nhằm đưa
phán quyết của Tòa án thực thi trong thực tiễn. Và cưỡng chế thi hành án nói chung,
cưỡng chế thi hành án nhằm thu hồi nợ nói riêng khi được áp dụng và đạt hiệu quả
thì không chỉ phán quyết của Tòa án được thực thi, mà nó còn mang lại những hiệu
quả gián tiếp đối với các giai đoạn tố tụng. Để giải quyết một vụ án hình sự, phải
trải qua các giai đoạn tố tụng theo những thủ tục, trình tự chặt chẽ do luật định. Tuy
nhiên, các giai đoạn tố tụng trước đó gần như sẽ không thể hiện được nhiều giá trị,
bởi nếu thiếu đi giai đoạn thi hành án dân sự thì phán quyết của Tòa án dù trong
lĩnh vực hình sự hay dân sự cũng đều khó có thể được thực thi một cách đầy đủ,
trọn vẹn, thậm chí không thể thực hiện. Vì vậy, kết quả của hoạt động cưỡng chế thi

11


hành án chính là sự phản ánh hiệu quả và giá trị của hoạt động điều tra, truy tố và
xét xử.

Ngoài ra, hiệu lực của hoạt động cưỡng chế có tác dụng lớn trong việc răn
đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người phải thi hành án, góp
phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân, tăng cường pháp chế. Rõ ràng, với
những kết quả khả quan đã đạt được, cưỡng chế thi hành án dân sự giúp người dân
hiểu rằng Nhà nước có đủ quyền năng pháp lý để thiết lập lại và ổn định trật tự xã
hội. Vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự bằng việc sử dụng quyền lực của Nhà
nước đã có tác dụng trong việc răn đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật
của người phải thi hành án nói riêng, ý thức của người dân nói chung. Đồng thời,
hoạt động cưỡng chế thi hành án vô hình chung cũng góp phần nâng cao ý thức, thái
độ tuân thủ pháp luật của người dân, và cao hơn là tăng cường pháp chế.
1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp
luật về cƣỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự
Pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ được hiểu là tổng hợp các quy định của
pháp luật điều chỉnh, quy định về vấn đề cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm mục
đích thu hồi nợ. Các quy định này được cụ thể hóa trong Luật Thi hành án dân sự và
các văn bản hướng dẫn thi hành (các Nghị định, Thông tư và các văn bản hưỡng dẫn
chuyên ngành). Bên cạnh đó, còn có các quy định pháp luật có liên quan đến hoạt
động cưỡng chế trong lĩnh vực đất đai, ngân hàng… Các quy định này nêu rõ những
hình thức, biện pháp, cách thức, thủ tục thực hiện việc cưỡng chế; quy định rõ ai là
người thẩm quyền được áp dụng biện pháp cưỡng chế, chủ thể bị cưỡng chế là ai,
đối tượng bị cưỡng chế, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan
trong thực hiện tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự.[19-Tr.69]
Như vậy, có thể hiểu rằng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm
mục đích thu hồi nợ là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các vấn đề về trình
tự, thủ tục, đối tượng, chủ thể và các vấn đề khác của chế định cưỡng chế nhằm

12



buộc người phải thi hành án phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản theo bản án,
quyết định của Tòa án.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự
Một là, về căn cứ cưỡng chế thi hành án dân sự: việc cưỡng chế thi hành án
phải căn cứ vào Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành; Quyết định thi hành án;
Quyết định cưỡng chế thi hành án.
Hai là, về điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự: Áp dụng biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự cần có các điều kiện cơ bản như: người phải thi hành án phải
thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải thực hiện hành vi theo bản án, quyết định có
hiệu lực thi hành; người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và người phải thi
hành án không tự nguyện thi hành. Từ những điều kiện trên, cho thấy biện pháp
cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự chỉ được áp dụng khi người phải thi
hành án có nghĩa vụ phải thực hiện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền và
có thái độ, hành vi không tự nguyện thi hành mặc dù có điều kiện thi hành án. Có
điều kiện thi hành án được hiểu là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu
nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; Tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện
nghĩa vụ thi hành án. Tuy nhiên, trong quá trình tác nghiệp, người có thẩm quyền
thi hành án cần chú ý về việc áp dụng thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày kể
từ ngày nhận quyết định, thông báo hợp lệ được quy định tại Điều 45 và Điều 46
luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 [24-Tr.70].
Ba là, về nguyên tắc cưỡng chế thi hành án dân sự: Xuất phát từ đặc trưng
của thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành bản án, phần quyết định của Tòa án
về tài sản hoặc một công việc nhất định, quyết định của trọng tài, quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc phải nộp phí thi hành
án nên đối tượng của cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự là tài sản hoặc
một công việc nhất định. Điều này hoàn toàn khác biệt so với đặc trưng của thi hành
án hình sự là nhằm hạn chế hoặc tước đoạt quyền và lợi ích của người bị kết án.
Chính vì vậy cưỡng chế thi hành án hình sự mang tính cứng rắn và tuyệt đối còn thi
hành án dân sự mang tính mềm dẻo hơn. Điều này thể hiện ở các nguyên tắc áp


13


dụng các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự như; Chủ thể có
thẩm quyền chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế pháp luật quy định; không được
áp dụng biện pháp cưỡng chế trong thời gian và trường hợp pháp luật cấm; việc
cưỡng chế thi hành án dân sự phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành
án và các chi phí cần thiết khác.
Bốn là, về các biện pháp cưỡng chế: Theo pháp luật hiện hành thì chỉ có cơ
quan thi hành án và Văn phòng Thừa phát lại mới được Nhà nước trao cho quyền tổ
chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm
quyền và chỉ người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền áp dụng các biện pháp
cưỡng chế. Ngoài ra các chủ thể khác, bằng sức mạnh của mình, bắt buộc người
khác phải thi hành án đều trái pháp luật. Để tránh sự lạm quyền của các chủ thể
trong việc cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự, pháp luật đã quy định cụ
thể các biện pháp cưỡng chế thi hành án mà người có thẩm quyền THA có quyền áp
dụng, trình tự, thủ tục áp dụng. Hiện nay, pháp luật quy định các biện pháp cưỡng
chế cụ thể như: “1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá
của người phải thi hành án. 2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. 3. Kê
biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba
giữ. 4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án. 5. Buộc chuyển giao vật,
chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. 6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc
không được thực hiện công việc nhất định”. [24-Tr.70]
Năm là, về trình tự, thủ tục cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự: để
thực hiện cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự, các biện pháp cưỡng chế
thu hồi nợ trong thi hành án dân sự đều phải tuân thủ thủ tục và một số nguyên tắc
chung như: xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án trước khi tiến
hành cưỡng chế; xây dựng kế hoạch cưỡng chế; thông báo hợp lệ các văn bản quyết
định về thi hành án dân sự cho đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,
các cơ quan hữu quan theo luật định; Tuân thủ các quy định của pháp luật về thời

hạn, thời hiệu trước, trong và sau khi cưỡng chế...

14


1.2.3. Vai trò của pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ
Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có vai trò hết sức quan trọng, là
cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực Nhà nước, quy định nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Chấp hành viên và của các tổ chức, cá nhân có liên
quan trong thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.
Thông qua các quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự, Nhà nước xác định
rõ quyền lực của Nhà nước bằng việc cho phép Cơ quan Thi hành án dân sự áp
dụng các biện pháp bảo đảm, các biện pháp cưỡng chế, xử phạt vi phạm hành chính,
thậm chí là đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi chống đối, các
hành vi vi phạm các quy định về thi hành án dân sự. Pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự xác định rõ các quyền năng của cơ quan Nhà nước, của cơ quan Thi
hành án dân sự và của Chấp hành viên trong việc buộc người phải thi hành án phải
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo nội dung Bản án, quyết định đã tuyên
nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của nhà nước và của công dân [31-Tr.70].
Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự còn là phương tiện để nhà nước
quản lý xã hội, triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách
đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô cả nước, đồng thời đó cũng là phương tiện
để Nhà nước kiểm soát các hoạt động của Chấp hành viên của các tổ chức, các cơ
quan và mọi công dân trong cưỡng chế thi hành án dân sự.
Bằng các quy định cụ thể trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản
hướng dẫn thi hành cùng các quy định có liên quan, pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự đã góp phần làm rõ thêm các chủ trương, chính sách của Nhà nước, đặc
biệt là chủ trương xây dựng nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân

đều phải chấp hành các quy định của pháp luật nói chung, trong đó bao gồm các
quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, mọi người đều phải chấp
hành tính thượng tôn pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa rằng, với tư cách là người
trực tiếp thực thi quyền lực Nhà nước, Chấp hành viên cũng phải tuân thủ nghiêm

15


túc các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Chính các quy định
này là ranh giới xác định phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên, để
Chấp hành viên không thể lạm quyền, không thể tùy tiện sử dụng quyền lực Nhà
nước trong thực hiện nhiệm vụ của mình.
Là quy phạm pháp luật, nên pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có
những đặc điểm chung, mang tính phổ biến, thống nhất, được quy định trong Luật
Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó hàm chứa các quy
tắc mang tính chất mẫu mực, khuôn thước để Chấp hành viên thực hiện đảm bảo
tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Dựa trên các quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự, Chấp hành viên cũng như đương sự và các chủ thể khác tham gia
vào quá trình thi hành án biết được quyền và nghĩa vụ của mình, biết mình được
làm những gì, không được làm gì và phải làm như thế nào.
Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có tính bắt buộc chung. Việc thực
hiện các quy đinhh của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự không phụ thuộc
vào ý kiến chủ quan của mỗi người, dù muốn hay không muốn tất cả mọi người
tham gia việc cưỡng chế thi hành án đều phải chấp hành một cách nghiêm chỉnh và
triệt để, không phân biệt giữa người này hay người khác. Các quy định của pháp
luật về cưỡng chế thi hành án dân sự mang tính chất bắt buộc chung, được Nhà
nước đảm bảo thực hiện, được thực hiện bởi Chấp hành viên cơ quan Thi hành án
dân sự, với sự tham gia phối hợp, hỗ trợ thực hiện của các cơ quan, tổ chức và cá
nhân có liên quan.
1.2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự thu hồi nợ trong thi hành án dân sự
Cưỡng chế thi hành án là một chế định quan trọng được pháp luật thi hành án
dân sự quy định cụ thể và chi tiết, nhằm mục đích đưa hoạt động thi hành án đạt
hiệu quả cao nhất. Cũng như các chế định pháp luật khác, pháp luật về cưỡng chế
thi hành án dân sự nhằm mục đích thu hồi nợ trong quá trình thực thi chịu ảnh
hưởng và bị tác động bởi nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố năng lực thực thi công
vụ của Cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên, ý thức pháp luật của các bên

16


liên quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự và sự phối hợp của các bên liên quan
trong cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Năng lực thực thi công vụ của Cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành
viên thi hành án dân sự
Chấp hành viên thi hành án dân sự là một chức danh tư pháp do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền bổ nhiệm theo quy trình, thủ tục nhất định khi đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu, tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của pháp luật;
được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thi hành hoặc trực tiếp thi hành các bản án,
quyết định theo quy định của pháp luật; được sử dụng quyền lực Nhà nước để tổ
chức thi hành án dân sự. Hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự được thực hiện
chủ yếu thông qua hoạt động của đội ngũ Chấp hành viên, về bản chất là hoạt động
áp dụng pháp luật; do đó, các hoạt động tác nghiệp của đội ngũ Chấp hành viên phải
tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi
hành án dân sự. Nếu áp dụng pháp luật một cách đơn thuần, cứng nhắc thì sẽ không
đạt được hiệu quả, kết quả như mong muốn, mà có khi lại dẫn đến tình trạng bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không thể thi hành được trên
thực tế hoặc có thi hành được thì hậu quả xã hội xảy ra lại rất khó khắc phục điều
này rất dễ nhận thấy ở những vụ cưỡng chế thi hành án lớn mà gần đây các phương
tiện truyền thông đưa tin.

Để việc cưỡng chế thi hành đạt hiệu quả cao, Chấp hành viên phải có năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ để có thể áp dụng pháp luật một cách linh hoạt, khéo
léo. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của Chấp hành viên thi hành án dân sự, về cơ
bản bao gồm các yếu tố như trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật
nghề nghiệp, kỹ năng nghiệp vụ công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống…
- Ý thức pháp luật của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự
Ý thức chấp hành pháp luật của các bên thể hiện qua thái độ tự giác, tự
nguyện thi hành án, tự thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định
của Tòa án ghi nhận, thể hiện ý chí và sự mong muốn của các bên. Kết quả của tự

17


×