Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về thi hành quyết định của trọng tài thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.04 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH
CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
PHẠM NHƯ THẢO

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận văn

Phạm Như Thảo



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, học viên đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của
các thầy cô giáo và sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, các đồng nghiệp và gia
đình. Nhân dịp này tác giả luận văn xin được bày tỏ lòng biết ơn tới ban chủ nhiệm
khoa Sau đại học - Trường Đại học Mở Hà Nội.
Đặc biệt tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thầy giáo Tiến sĩ Nguyễn
Văn Cương đã hướng dẫn, giúp đỡ học viên hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2019

Tác giả luận văn

Phạm Như Thảo


DANH MỤC BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Bộ luật Dân sự

BLDS

Luật Trọng tài Thương mại

LTTTM

Trọng tài Thương mại

TTTM


Tranh chấp thương mại

TCTM

Tòa án Nhân dân

TAND


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THI HÀNH QUYẾT
ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ................................................................7
1.1. Khái niệm pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài thương mại .......................7
1.1.1. Khái niệm quyết định của Trọng tài thương mại ..............................................7
1.1.2. Khái niệm, nguyên tắc và ý nghĩa của pháp luật về thi hành quyết định của
trọng tài .....................................................................................................................14
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành quyết định của Trọng tài ....21
1.2. Nội dung của pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài thương mại ........24
Kết luận chương 1 .....................................................................................................26
Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THI
HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ............................................27
2.1. Khái quát sự phát triển của pháp luật về thi hành quyết định của TTM ở Việt
Nam ...........................................................................................................................27
2.1.1. Giai đoạn trước ngày 01/7/2003 (ngày Pháp lệnh TTTM có hiệu lực thi hành)
...................................................................................................................................27
2.1.2. Giai đoạn từ ngày 01/7/2003 đến 2010 ..........................................................29
2.1.3. Giai đoạn từ ngày 2010 đến nay .....................................................................31
2.2. Nội dung pháp luật về thi hành quyết định của TTTM ......................................32
2.2.1. Trường hợp bên phải thi hành quyết định TTTM không tự nguyện thi hành quyết

định và cũng không yêu cầu hủy quyết định trọng tài.....................................................32
2.2.2. Trường hợp bên phải thi hành quyết định tự nguyện thi hành quyết định trọng
tài ...............................................................................................................................47
2.3. Một số nhận xét quy định pháp luật về thi hành quyết định trọng tài thương mại
...................................................................................................................................48
2.3.1. Hạn chế, vướng mắc khi thi hành quyết định của Trọng tài thương mại .......48
2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong thi hành quyết định trọng tài
thương mại ................................................................................................................52


Kết luận chương 2 .....................................................................................................53
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.................................................................................54
3.1. Quan điểm chỉ đạo hoàn thiện pháp luật về thi hành quyết định TTTM ...........55
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành quyết định TTTM...........56
3.2.1 Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan về thi hành quyết định
trọng tài .....................................................................................................................56
3.2.2 Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật THADS và các văn bản hưởng dẫn
thi hành………………………………………………………………………………………57
3.3. Giải pháp về các điều kiện đảm bảo thực thi pháp luật về thi hành quyết định
của TTTM .................................................................................................................59
3.3.1. Giải pháp nhằm nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán hộ, công chức
làm công tác thi hành quyết định của TTTM ............................................................59
3.3.2. Giải pháp tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về thi hành quyết định
của TTTM ..................................................................................................................61
Kết luận chương 3 .....................................................................................................63
KẾT LUẬN ...............................................................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................66



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế bao cấp sang nền
kinh tế thị trường với sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế có chế độ sở hữu
khác nhau đã làm cho các quan hệ kinh tế ngày càng trở lên đa dạng và phức tạp.
Dưới tác động của các quy luật trong cơ chế thị trường, lợi nhuận không những là
động lực, là một trong những thước đo hiệu quả hoạt động kinh doanh mà còn là
mục đích, là phương tiện tồn tại của các chủ thể kinh doanh. Sự hình thành nền kinh
tế thị trường ở nước ta trong những năm qua được diễn ra trong bối cảnh phát triển
theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế với một tốc độ nhanh chóng
chưa từng có để từng bước khẳng định nó là một bộ phận không thể thiếu của thị
trường Thế giới. Tranh chấp trong kinh tế nói chung, trong kinh doanh nói riêng là
hệ quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, nó cũng trở nên phong phú hơn về
chủng loại, gay gắt, phức tạp hơn về tính chất và quy mô. Bởi vậy, yêu cầu phải áp
dụng các hình thức và phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp, có hiệu quả là
một đòi hỏi khách quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
kinh tế, bảo đảm nguyên tắc pháp chế, thông qua đó góp phần tạo lập môi trường
pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Pháp luật Việt
Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại Việt Nam nói riêng đã quy định
nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: Thương lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài,
trong đó Trọng tài là phương thức giải quyết có nhiều ưu việt.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến trên
thế giới, nhất là tại những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, có rất nhiều ưu
điểm. Song trên thực tế ở Việt Nam, con đường giải quyết bằng Trọng tài vẫn chưa
được các bên tranh chấp hướng tới, "chưa hấp dẫn" đối với các doanh nghiệp và cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Có rất nhiều nguyên nhân để giải thích
vấn đề này, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản đó là pháp luật thi hành
quyết định của Trọng tài hiện nay chưa hoàn thiện dẫn đến việc hiệu quả thi hành


1


chưa cao. Do vậy, để giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại bằng con
đường Trọng tài thực sự trở thành phương thức giải quyết tối ưu cho các bên tranh
chấp đòi hỏi các quyết định của Trọng tài phải được thực thi một cách nghiêm túc,
đầy đủ, kịp thời. Điều đó cũng có nghĩa cần phải có pháp luật quy định thi hành
quyết định của Trọng tài một cách hoàn chỉnh.
Mặc dù vậy, đến thời điểm hiện tại thì hoạt động giải quyết tranh chấp bằng
phương thức Trọng tài vẫn chưa thực sự được các bên tranh chấp lựa chọn thường
xuyên khi xảy ra tranh chấp, số lượng quyết định trọng tài được các cơ quan thi
hành án thụ lý không nhiều, hoạt động thi hành quyết định trọng tài cũng không đạt
hiệu quả cao. Nguyên nhân là do trong quá trình tổ chức thi hành còn tồn tại những
hạn chế, vướng mắc về mặt thể chế, một số điều kiện đảm bảo thực thi các quy định
của pháp luật về thi hành quyết định trọng tài cũng chưa được đảm bảo. Về tư tưởng
nhận thức về quyết định của Trọng tài chưa được hiểu đúng, có ý thức phân biệt đối
xử thực thi không như bản án, quyết định của Toà án; Bởi lẽ: Tổ chức Trọng tài
thương mại là tổ chức Xã hội - Nghề nghiệp, nên thực thi quyết định của Trọng tài
không được tôn trọng chấp hành triệt để.
Khi các tranh chấp xảy ra, các bên lựa chọn Trọng tài làm phương thức giải
quyết và khi quyết định trọng tài được ban hành thì phải được thi hành triệt để, trên
thực tế là một đòi hỏi khách quan cần phải được giải quyết kịp thời phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế xã hội và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước,
đáp ứng nhu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đề
ra. Để đạt được điều đó thì việc cần thiết là phải nghiên cứu, rà soát những quy định
của pháp luật về thi hành quyết định trọng tài thương mại để sửa đổi, bổ sung những
hạn chế, vướng mắc, đồng thời phải xem xét thực trạng thi hành quyết định trọng tài
thương mại trong những năm qua để đề xuất những giải pháp kịp thời nhằm nâng
cao tính hiệu quả trong hoạt động thi hành quyết định trọng tài thương mại trong
thời gian tới.

Với những lý do trình bày nêu trên, học viên đã chọn đề tài: “Pháp luật về
thi hành quyết định của Trọng tài thương mại ở Việt Nam” làm luận văn Thạc sỹ

2


Luật học của mình, với mong muốn sẽ làm sáng tỏ vấn đề lý luận cũng như thực
tiễn thi hành quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam, qua đó có những đề
xuất xây dựng một cơ chế thi hành quyết định của Trọng tài thương mại phù hợp
với thực tiễn ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thi hành quyết định của Trọng tài là vấn đề khá phức tạp và được nhiều nhà
nghiên cứu, luật gia trong và ngoài nước quan tâm, đặc biệt là các chuyên gia và
những người làm công tác thực tiễn. Trong thời gian qua, về mặt lý luận, trên diễn
đàn các sách, báo pháp lý, các tạp chí xuất hiện nhiều bài viết, bài nghiên cứu, trao
đổi về hoạt động Trọng tài thương mại. Tuy nhiên, nhìn chung, các công trình, sách,
báo, bài viết đó đều chủ yếu tập trung phân tích, làm rõ những quy định chung của
Trọng tài thương mại về góc độ lý luận, thực trạng hoạt động của các Trung tâm
trọng tài ở Việt Nam hay những hạn chế, bất cập của Pháp luật về Trọng tài thương
mại, từ đó đưa ra những giải pháp để hoàn thiện. Ngoài ra đã có nhiều công trình
nghiên cứu về Trọng tài và giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, trong đó phải kể
đến: “Trọng tài Thương mại - một hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta
”, Đề tài khoa học cấp trường của Bộ môn Luật thương mại, Trường Đại học luật
Hà Nội năm 2007; Luận án tiến sỹ “Hoàn thiện pháp luật về Trọng tài thương mại
của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế” của tác giả Nguyễn Đình Thơ (năm
2007) trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sỹ “Sự hỗ trợ của cơ quan Tư
pháp đối với hoạt động của Trọng tài thương mại” của tác giả Nguyễn Thị Yến
(năm 2005); Luận văn thạc sỹ luật học “Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố
nước ngoài bằng TTTM những vấn đề lý luận và thực tế” của Vũ Thị Ngân Hà,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. Luận văn thạc sỹ luật học “Trọng

tài vụ việc theo pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam” của Phạm Thị Hoa Lệ
Diễm, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà nội năm 2016... Tuy nhiên, các công trình
này cũng chủ yếu tập trung vào nghiên cứu cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trọng
tài, còn vấn đề pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài thương mại ở Việt
Nam ít được đề cập tới.

3


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích để làm rõ một số vấn đề lý
luận, thực tiễn pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài thương mại ở Việt
Nam. Đánh giá thực trạng pháp luật về thi hành quyết định của trọng tài thương
mại, từ đó đưa ra một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành quyết
định của Trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ khái niệm và các đặc điểm của quyết định Trọng tài và

về thi hành quyết định của Trọng tài thương mại;
- Nghiên cứu pháp luật thi hành quyết định Trọng tài như: Các quy định của

pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành quyết định của Trọng tài thương
mại;
- Nghiên cứu thực trạng thi hành quyết định của Trọng tài thương mại ở Việt
Nam hiện nay. Qua đó, đưa ra những kiến nghị về phương hướng hoàn thiện các
quy định pháp luật trong thời gian tới.
- Nghiên cứu nhũng bất cập và hạn chế, những vướng mắc và đề xuất các
giải pháp giải quyết để đảm bảo thực thi pháp luật về thi hành quyết định của Trọng
tài thương mại ở Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống các quy định
pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài ở Việt Nam.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại, Hội đồng trọng tài có
quyền ra các quyết định nhằm đảm bảo giải quyết tranh chấp nhanh chóng, công
bằng. Luật mẫu về TTTM Quốc tế của ủy ban Liên hiệp quốc về Luật Thương mại
quốc tế, Luật TTTM của nhiều nước trên thế giới đều có sự phân biệt các quyết định
của Hội đồng trọng tài. Theo đó, quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn
bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài được gọi là phán quyết
Trọng tài”.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quyết định cuối cùng – quyết định của

4


trọng tài, cũng như các quyết định có giá trị tương đương phán quyết như quyết
định công nhận hòa giải thành. Trong luận văn tác giả sử dụng thuật ngữ quyết định
của trong tài có ý nghĩa như khái niệm phán quyết của trong tài.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là pháp luật trọng tài thương mại, pháp luật thi
hành án dân sự của Việt nam trong thời gian từ năm 2010 ( Luật trọng tài thương
mại được ban hành). Luận văn cũng chỉ giới hạn nghiên cứu pháp luật về thi hành
quyết định của trọng tài thương mại của Việt nam, luận văn không nghiên cứu pháp
luật thi hành quyết định của trọng tài thương mại nước ngoài tại Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Các quan điểm và đường lối của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và dựa trên các quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng cơ sở để thực hiện luận văn. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở
phương pháp luận của triết học Macxit là phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp nghiên cứu phân tích, so
sánh pháp luật, thống kê, điều tra, phương pháp tổng hợp, khảo cứu tài liệu... làm
sáng tỏ các khía cạnh của vấn đề pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài

thương mại ở Việt Nam và kế thừa những kết quả nghiên cứu đã được công bố để
giải quyết những vấn đề trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Trong luận văn, tác giả nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống cơ sở lý
luận pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài thương mại, phân tích thực trạng
pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay. Trên
cơ sở những phân tích đánh giá, kết hợp tham khảo quy định pháp luật của một số
nước trên thế giới, luận văn chỉ ra một số đặc thù của pháp luật về thi hành quyết
định trọng tài để qua đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thi hành
quyết định của Trọng tài, nâng cao hiệu quả pháp luật về thi hành quyết định của
Trọng tài thương mại tại Việt Nam.
Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu chuyên khảo pháp luật
về thi hành quyết định của Trọng tài thương mại, đánh giá thực trạng pháp luật,

5


phân tích những hạn chế, bất cập, nguyên nhân những hạn chế bất cập, đề xuất
những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài
thương mại ở Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Luận
văn có nội dung được chia thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật thi hành quyết định của trọng
tài thương mại.
Chương 2: Thi hành quyết định của trọng tài thương mại theo pháp luật Việt
Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành
quyết định của trọng tài thương mại ở Việt Nam.


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THI
HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài thương mại
1.1.1. Khái niệm quyết định của Trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại (sau đây viết tắt là TTTM) là một phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại, theo đó các bên tranh chấp thoả thuận đưa tranh
chấp ra trước một Hội đồng trọng tài vụ việc hoặc Trung tâm Trọng tài để giải
quyết và được tiến hành theo trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật TTTM.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động
dưới nhiều hình thức và ngành nghề đa dạng, phong phú, việc liên kết, hợp tác và
cạnh tranh trong kinh doanh ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng
hợp tác, những giao kết thương mại mang lại lợi ích các bên “thuận buồm xuôi gió”,
nhưng cũng luôn luôn tiềm ẩn nguy cơ phát sinh mâu thuẫn, bất đồng dẫn đến các
tranh chấp thương mại. Tranh chấp thương mại được hiểu là một loại hình tranh
chấp dân sự có một số đặc điểm sau: về lĩnh vực phát sinh, đó là tranh chấp phát
sinh từ hoạt động thương mại - tức là hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lời khác (Khoản 1, Điều 3 Luật trọng tài thương mại); về chủ
thể, tranh chấp thương mại diễn ra chủ yếu giữa các thương nhân với nhau; về nội
dung, tranh chấp thương mại chính là sự mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về
quyền và nghĩa vụ (về lợi ích vật chất) của các bên trong hoạt động thương mại1.
Nói cách khác, tranh chấp thương mại có nội dung liên quan đến lợi ích vật chất của
các bên tranh chấp. Lợi ích vật chất đó thường được xem xét dưới góc độ là giá trị
của tranh chấp thương mại. Và nếu so với các tranh chấp khác trong xã hội thì tranh
chấp thương mại thường là loại tranh chấp có giá trị lớn.


1

Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại – Tập 2. Hà Nội 2016

7


Khi các tranh chấp thương mại diễn ra, các bên tranh chấp có nhiều sự lựa
chọn về phương thức giải quyết. Một trong những phương thức giải quyết tranh
chấp mà các bên lựa chọn là Trọng tài thương mại. Trên thế giới, TTTM là một khái
niệm không còn xa lạ trong đời sống kinh tế, đặc biệt là ở các nước phát triển, và ở
mỗi nước, mỗi cá nhân khác nhau thì có thể có những cách hiểu khác nhau. Giáo
trình Tư pháp quốc tế của Liên Xô cũ định nghĩa “Trọng tài bao gồm những cá nhân
được các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các vụ kiện dân sự của
họ”. Theo Luật sư Điđie Xcooc Nichki Tòa thượng thẩm Pari thì “Trọng tài là một
Tòa án tự do ý chí của đôi bên tranh chấp, nó cũng xét xử giống Tòa án Nhà nước”.
Giáo sư Philip Phusa - Trường Đại học tổng hợp Pari II lại cho rằng “Trọng tài là
một phương pháp nhằm ủy thác bằng thỏa thuận cho một tư nhân (một Trọng tài
viên) quyền giải quyết một tranh chấp đối lập giữa các bên trong thỏa thuận ấy” 2. Ở
Việt Nam, thuật ngữ “Trọng tài” được hiểu là “Người được cử ra để phân xử, giải
quyết vụ tranh chấp”3 (21, tr 1.040). Khoản 1, Điều 3 Luật Trọng tài thương mại
năm 2010 (sau đây gọi tắt là Luật LTTTM) quy định “TTTM là phương thức giải
quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật
này”. Như vậy, Trọng tài được hiểu là một trong những phương thức giải quyết
tranh chấp do các bên lựa chọn bên cạnh các phương thức giải quyết khác được
pháp luật ghi nhận. Pháp luật về TTTM quy định “TTTM có thẩm quyền giải quyết
tất cả các tranh chấp thương mại gồm”: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt
động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có
hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được
giải quyết bằng Trọng tài (Điều 2, Luật TTTM).

Cũng như ở các nước khác trên thế giới, TTTM Việt Nam cũng là một tổ
chức phi chính phủ có chức năng giải quyết tranh chấp thương mại do các bên tranh
chấp thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Pháp luật về TTTM. TTTM có
một số đặc trung sau:
2

Pháp luật và thực hiện Trọng tài thương mại Quốc tế . (tái bản lần thứ tư Luân Đôn - Sweet &
Maxwell 2004)
3
Viện ngôn ngữ học (2011), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng

8


Thứ nhất, TTTM được thành lập theo sáng kiến của các Trọng tài viên, sau
khi được sự cho phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứ không phải được
thành lập bởi Nhà nước. Do đó, TTTM là tổ chức Xã hội - Nghề nghiệp, không nằm
trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước (như Trọng tài kinh tế nhà nước trước
đây) và cũng không phải là cơ quan tư pháp như tòa án.
Thứ hai, hoạt động của TTTM dựa trên nguyên tắc tự trang trải trên cơ sở
thu phí từ các vụ giải quyết tranh chấp mà không được cấp kinh phí hoạt động từ
ngân sách Nhà nước;
Thứ ba, khi giải quyết tranh chấp, trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài
không nhân danh quyền lực Nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra quyết
định. Khi đã có thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại, các bên
có thể lựa chọn các Trung tâm TTTM (gọi là Trọng tài thường trực hay trọng tài
quy chế) hoặc Hội đồng trọng tài vụ việc (gọi là Trọng tài vụ việc).
Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật
TTTM và trình tự thủ tục do các bên thỏa thuận. Hiểu một cách đơn giản thì Trọng
tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để

giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và Trọng tài sẽ tự chấm dứt sự tồn tại khi giải
quyết xong vụ tranh chấp. Bản chất của Trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc
trưng cơ bản sau: Thứ nhất, Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh
chấp và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp; Thứ hai,
Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành (vì chỉ
được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo sự thỏa thuận của các bên) và
không có danh sách Trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc
được chỉ định có thể là người có tên trong hoặc ngoài danh sách Trọng tài viên của
bất cứ trung tâm nào; Thứ ba, Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng
cho mình.
Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại một trung tâm Trọng
tài hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật trọng tài
thương mại. Theo pháp luật về TTTM, Trọng tài quy chế được tổ chức dưới dạng

9


các Trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, có chức năng tổ
chức, điều phối hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và hỗ trợ Trọng tài
viên về các mặt hành chính, văn phòng và các trợ giúp khác trong quá trình tố tụng
Trọng tài (Điều 23, Luật TTTM).
So với việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án thì việc giải quyết
tranh chấp thương mại theo thủ tục Trọng tài có nhiều ưu điểm như: Giải quyết
tranh chấp theo thủ tục trọng tài đảm bảo được sự tự định đoạt của các đương sự
cao hơn; quyết định trọng tài là chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị; quá
trình tố tụng trọng tài đảm bảo được bí mật và giữ được uy tín cho các nhà kinh
doanh; thủ tục Trọng tài mềm dẻo, linh hoạt, nhanh chóng cho các bên; tuy là cơ
quan “tài phán tư” nhưng có sự hỗ trợ của Nhà nước; Trọng tài viên là những
chuyên gia giỏi về lĩnh vực tranh chấp.
Kết quả của quá trình giải quyết một vụ tranh chấp là trọng tài sẽ ra quyết

định về việc giải quyết. Phán quyết được hiểu là “ra một quyết định có giá trị
pháp lý ai cũng phải thực hiện” (21, tr. 985) hay là “quyết định để mọi người
phải tuân theo” (21, tr. 7664).
Khi các bên tranh chấp có thoả thuận Trọng tài về việc giải quyết tranh chấp,
Trọng tài sẽ thụ lý để giải quyết theo một trình tự, thủ tục mà pháp luật về TTTM
quy định. Kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp (gọi là tố tụng Trọng tài), TTTM
sẽ đưa ra quyết định giải quyết cuối cùng gọi là phán quyết. Có thể hiểu rằng, phán
quyết là kết quả cuối cùng của một trình tự, thủ tục pháp lý theo quy định của pháp
luật. Như đã phân tích ở trên thì khi xảy ra tranh chấp, các bên có quyền lựa chọn
phương thức giải quyết khác nhau, đó có thể là Tòa án, Trọng tài hay thương lượng,
hòa giải. Dù lựa chọn bất kỳ phương thức giải quyết nào thì cuối cùng, điều mà các
bên tranh chấp mong muốn nhận được là kết quả giải quyết, ai đúng ai sai hay nói
cách khác phải có một phán quyết cuối cùng. Khoản 10, Điều 3 Luật TTTM năm
2010 quy định “Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải
quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài”.
4

Viện ngôn ngữ học (2011), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng

10


Về khái niệm phán quyết Trọng tài, trong quá trình tiếp thu các ý kiến góp ý
để chỉnh lý, hoàn thiện Luật TTTM, có ý kiến đề nghị không sử dụng khái niệm
“Phán quyết Trọng tài” mà dùng khái niệm “Quyết định Trọng tài”. Tuy nhiên,
trong Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật TTTM số 320/BCUBTVQH12 ngày 12/5/2010, ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, “trong quá
trình tố tụng Trọng tài, Hội đồng Trọng tài có thẩm quyền ban hành các quyết định
về tố tụng, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định giải quyết
toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài. Các quyết định nêu
trên được gọi chung là quyết định Trọng tài và được thi hành. Tuy nhiên, Luật mẫu

về TTTM Quốc tế của ủy ban Liên hiệp quốc về Luật Thương mại quốc tế, Luật
TTTM của nhiều nước trên thế giới đều có sự phân biệt các quyết định của Hội
đồng trọng tài. Theo đó, quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội
dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài được gọi là phán quyết Trọng tài”.
Vì vậy, ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng việc sử dụng khái niệm “Quyết định
trọng tài” trong dự thảo Luật là “để phân biệt giữa phán quyết cuối cùng của vụ việc
với các quyết định khác của Hội đồng trọng tài”. Trong luận văn tác giả sử dụng
thuật ngữ quyết định của trong tài có ý nghĩa như khái niệm phán quyết của trong
tài.
Phán quyết TTTM (sau đây gọi tắt là quyết định trọng tài) mang một số đặc
điểm sau:
Một là, quyết định trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp và
chấm dứt tố tụng trọng tài của Hội đồng trọng tài.
Quá trình giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp của Hội đồng trọng tài được tính
từ thời điểm “Trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn ” đối
với trường hợp tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc “tính từ khi
bị đơn nhận được đơn khởi kiện” đối với trường hợp tranh chấp được giải quyết
bằng Trọng tài vụ việc đến khi Trọng tài họp phiên cuối cùng đưa ra quyết định về
giải quyết tranh chấp. Quá trình đó phải tuân theo một trình tự, thủ tục luật định.
Kết thúc quá trình đó, một quyết định sẽ được đưa ra, quyết định đó là chung thẩm.

11


Sự khác biệt giữa quyết định chung thẩm này với các loại quyết định khác mà Hội
đồng trọng tài có thể ban hành là ở chỗ nó “giải quyết mọi vấn đề (hoặc vấn đề còn
lại) đã đưa ra Trọng tài. Nó thông thường là kết quả của một quá trình tranh luận
thấu đáo của Hội đồng trọng tài...”, “nghĩa là nó giải quyết tận gốc mọi vấn đề và nó
có tính ràng buộc đối với các bên”,
Quyết định trọng tài không phải được trình bày một cách tùy tiện mà phải

tuân theo một quy định chung về hình thức văn bản cũng như nội dung theo quy
định của Luật. Điều 61 Luật TTTM năm 2010 quy định rõ về nội dung và hình thức
của quyết định trọng tài, cụ thể, quyết định trọng tài phải được lập bằng văn bản và
có các nội dung chủ yếu sau đây: Ngày, tháng, năm và địa điểm ra quyết định; Tên,
địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn; Họ, tên, địa chỉ của Trọng tài viên; Tóm tắt đơn
khởi kiện và các vấn đề tranh chấp; Căn cứ để ra quyết định, trừ khi các bên có thoả
thuận không cần nêu căn cứ trong quyết định; Kết quả giải quyết tranh chấp; Thời
hạn thi hành quyết định; Phân bổ chi phí trọng tài và các chi phí khác có liên quan;
Chữ ký của Trọng tài viên. Trên cơ sở quy định chung về nội dung và hình thức
Quyết định trọng tài, mỗi một Trung tâm trọng tài hay một Hội đồng trọng tài vụ
việc có thể có những cách luận giải, trình bày khác nhau nhưng bắt buộc phải tuân
theo quy định chung đó.
Khi quyết định trọng tài được đưa ra đồng nghĩa với việc vụ tranh chấp đã
được giải quyết toàn bộ và thủ tục trọng tài chấm dứt. Như vậy, có thể hiểu quyết
định của Trọng tài là sản phẩm cuối cùng của quá trình tố tụng trọng tài. Với ý
nghĩa là quyết định của một cơ quan tài phán, quyết định trọng tài kết thúc quá trình
tố tụng, về hình thức, quyết định trọng tài tạo ra một sự kiện pháp lý mà theo đó
tranh chấp chấm dứt. Về nội dung, quyết định trọng tài đưa ra các kết luận khách
quan về tranh chấp, quy định quyền và nghĩa vụ mà các bên tham gia tranh chấp
phải thực hiện.
Hai là, Quyết định trọng tài buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
Một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTTM là “Quyết định
trọng tài là chung thẩm” (Khoản 5, Điều 4 Luật TTTM), có nghĩa là sau khi TTTM

12


đưa ra quyết định thi các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức
hoặc một Tòa án nào (trừ trường hợp có đủ bằng chứng cho rằng quyết định đó có
vi phạm pháp luật thì có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền hủy). Đây là một ưu

thế xuất phát từ bản chất của TTTM. Quyết định của TTTM là do một chủ thể
(Trọng tài viên hoặc Hội đồng trọng tài gồm nhiều Trọng tài viên) được các bên
thỏa thuận thành lập đưa ra, do đó các bên tranh chấp phải có trách nhiệm thi hành.
Chính nhờ ưu thế này mà các nhà kinh doanh không bị kéo vào vòng kiện tụng, tốn
kém tiền bạc và thời gian như ở Tòa án. Khoản 2, Điều 32 Bản quy tắc trọng tài
UNCITRAL năm 1976 quy định “Phán quyết sẽ được lập bằng văn bản và sẽ là
chung thẩm và ràng buộc các bên, các bên cam kết thực thi phán quyết không chậm
trễ”. Điều 45, Luật Trọng tài Nhật Bản quy định “Quyết định trọng tài có hiệu lực
như bản án chung thẩm...” hay Điều 8 Luật Trọng tài Trung Quốc cũng có quy định
“Trọng tài sẽ tiến hành việc ra phán quyết một cấp và chung thẩm. Nếu một bên đưa
ra Trọng tài hoặc Tòa án nhân dân về cùng một vụ tranh chấp đã có quyết định
trọng tài, Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án nhân dân sẽ không thụ lý vụ kiện”...
Rõ ràng, có thể thấy pháp luật hầu hết các nước đều quy định quyết định
trọng tài có giá trị chung thẩm bởi hai lý do:
Thứ nhất, Trung tâm trọng tài là một loại hình tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
với đặc điểm thủ tục xét xử một cấp, các Trung tâm trọng tài độc lập với nhau,
không có sự phân cấp, phân vùng xét xử;
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài là kết quả của sự thỏa thuận
giữa các bên, cho nên, Trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự. Do
vậy, các bên phải có nghĩa vụ tôn trọng kết quả của chính sự thống nhất ý chí đó.
Các bên không có quyền kháng cáo mà chỉ có nghĩa vụ thực hiện quyết định ngay.
Phù hợp với thông lệ quốc tế, các Trung tâm trọng tài của Việt Nam khi xây
dựng Bản quy tắc trọng tài của mình cũng khẳng định giá trị chung thẩm của phán
quyết. Bản quy tắc của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC quy định
“quyết định trọng tài là chung thẩm và có giá trị ràng buộc các bên” (Khoản 5, điều
30). Bản quy tắc tố tụng của Trung tâm TTTM Quốc tế Á Châu ACIAC cũng quy

13



định “Quyết định Trọng tài là chung thẩm có hiệu lực từ ngày công bố và được thi
hành theo quy định của pháp luật” (Điều 31).
Nhìn chung, các quy tắc Trọng tài dù được ban hành bởi các Trung tâm
TTTM nào thì tất cả đều khẳng định quyết định trọng tài là quyết định cuối cùng.
Điều này làm cho quyết định trọng tài mang tính chung thẩm và phù hợp với
quy định của pháp luật, tạo điều kiện để tranh chấp được giải quyết một cách nhanh
chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên tranh chấp. Các trường hợp hủy
quyết định của Trọng tài do có sai sót liên quan đến thủ tục tố tụng và rất hiếm khi
xảy ra, do đó giá trị chung thẩm của quyết định trọng tài hầu như được đảm bảo.
Tuy nhiên để một quyết định trọng tài đạt được tính hiệu lực chung thẩm như trên,
quyết định trọng tài phải là kết quả của một quá trình xét xử công minh, vô tư, phải
tuân theo các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và phải được tuyên
bố theo đúng thủ tục ra quyết định trọng tài mà pháp luật về TTTM quy định.
1.1.2. Khái niệm, nguyên tắc và ý nghĩa của pháp luật về thi hành quyết định của
trọng tài
* Khái niệm pháp luật về thi hành quyết định của Trọng tài
Cơ quan Tài phán khi ban hành một quyết định, có hiệu lực theo quy định
của pháp luật thì những đối tượng chịu trách nhiệm thực hiện phải tự giác chấp
hành, đó là điều không phải bàn cãi. Quyết định trọng tài là văn bản có giá trị pháp
lý chung thẩm, các bên tranh chấp phải có nghĩa vụ thi hành. Thuật ngữ “thi hành”
có nghĩa là “làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định”5 [21,
tr. 936], nghĩa là một quyết định đã được đưa ra thì phải “làm cho” nó trở thành
hiện thực, không chỉ là lý thuyết suông hay “giấy tờ” không có giá trị. “Có thể nói
một cách hình ảnh thì nếu tố tụng là quá trình đi tìm chân lý để áp dụng công lý
(pháp luật) thì thi hành pháp luật là quá trình thực thi chân lý bằng công lý. Ở đây
chân lý đã rõ, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng, còn thi hành pháp luật là quá trình
tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án và quyết định của Tòa án, TTTM”,
Như vậy, có thể hiểu “pháp luật về thi hành quyết định của TTTM là tổng thể
5


Viện ngôn ngữ học (2011), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng

14


các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành, làm cho có hiệu lực
các quyết định của trọng tài thương mại trong các vụ việc giải quyết tranh chấp
thương mại”.
Chấp hành pháp luật thì mọi công dân, tổ chức bắt buộc phải triệt để chấp
hành đó là nguyên tắc, nếu không tự nguyện chấp hành thì phải bị cưỡng chế, đó là
pháp chế xã hội chủ nghĩa, là vấn đề rất quan trọng khi xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Quyết định trọng tài là chung thẩm, không thể kháng cáo trước bất kỳ một tổ
chức nào và cũng không thể bị cơ quan nào kháng nghị, do đó, không có lý do gì nó
không được thi hành trên thực tế. Trên thực tế, sẽ có thể xẩy ra các trường hợp:
- Trường hợp thứ nhất, cả hai bên đều tự nguyện thi hành quyết định trọng
tài. Trường hợp này thì rất đơn giản vì điều quan trọng nhất là quyết định TTTM đã
được thi hành trên thực tế mà không cần có sự can thiệp của Nhà nước;
- Trường họp thứ hai, cả hai bên đều phản đối quyết định trọng tài. Trường
hợp này hiếm khi xảy ra vì Trọng tài viên là do chính các bên quyết định lựa chọn,
tuy nhiên không phải là không thể xẩy ra. Trong trường hợp này, tính cưỡng chế
của quyết định trọng tài bằng không vì rõ ràng quyết định sẽ không được thực hiện;
Trường hợp thứ ba, chỉ một bên không đồng ý với quyết định trọng tài, bên
không đồng ý là bên thua trong quyết định TTTM và phải thi hành quyết định đó.
Trong trường hợp này nếu bên thua không có đủ căn cứ yêu cầu Tòa án hủy quyết
định trọng tài và cũng không tự nguyện thi hành quyết định trọng tài thì sẽ bị cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành. Trong trường hợp này, việc thi hành quyết định TTTM đã có sự
can thiệp của Nhà nước, khác với trường hợp một là cả hai bên tự nguyện thi hành
và phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ theo quy định của pháp luật. Như

vậy, thi hành quyết định của TTTM là hành vi tự nguyện thực hiện quyết định TTTM
của các bên tranh chấp hoặc hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc
các bên tranh chấp phải thực hiện quyết định của Trọng tài theo một trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định.

15


Thi hành quyết định của Trọng tài là hoạt động diễn ra sau quá trình tố tụng
trọng tài - được kết thúc bằng một quyết định. Quyết định trọng tài có giá trị chung
thẩm và đó là cơ sở đế tiến hành các hoạt động “thi hành”. Do đó, có thể khẳng định
rằng, không có kết quả của hoạt động tố tụng trọng tài thì không thể có hoạt động
thi hành quyết định trọng tài. Song thi hành quyết định trọng tài là một dạng hoạt
động hành chính - tư pháp, là hoạt động có tính chấp hành chứ không phải là hoạt
động tố tụng (hình sự, dân sự), bởi vì, xét về mặt bản chất thì tố tụng là xác định sự
thật của vụ việc và khi có quyết định của Trọng tài là khi sự thật được khẳng định
và việc áp dụng pháp luật đã hoàn thành. Nhiệm vụ sau đó là phải thi hành, tức là
“làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định”6 (21). Mục đích
cuối cùng của hoạt động thi hành quyết định trọng tài là bảo đảm trên thực tế các
nội dung của quyết định trọng tài phải được thi hành chứ không phải là ra các văn
bản áp dụng pháp luật hoặc các quyết định có tính điều hành như trong hoạt động
của cơ quan hành chính Nhà nước.
* Nguyên tắc thi hành quyết định của TTTM
Mọi hoạt động kinh doanh thương mại đều phải dựa trên những nguyên tắc
nhất định, đó là nền tảng, là bộ khung, “xương sống” nâng đỡ toàn bộ quá trình giải
quyết một sự việc, định hướng hoạt động vào một khuôn khổ nhất định. Thi hành
quyết định trọng tài cũng là một hoạt động pháp lý, vì vậy trong quá trình thi hành,
các bên tranh chấp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thi hành và các cá nhân, tổ
chức có liên quan cũng phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc thi
hành quyết định trọng tài là những quan điểm chỉ đạo, quán triệt trong toàn bộ quá

trình tổ chức thi hành quyết định trọng tài thương mại, phán ánh tính chất đặc thù
của hoạt động này.
+ Nguyên tắc đảm bảo hiệu lực thi hành quyết định của Trọng tài.
Việc tôn trọng triệt để và thi hành nghiêm chỉnh quyết định trọng tài là một
tất yếu khách quan trong hoạt động tư pháp của bất kỳ quốc gia nào. Dù là quyết
định của cơ quan “tài phán tư” nhưng quyết định trọng tài là chung thẩm, ngang với
6

Viện ngôn ngữ học (2011), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng

16


bản án của Toà án, các bên tranh chấp có nghĩa vụ thi hành, điều đó không những
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên được thi hành quyết định cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có liên quan mà cao hơn nữa là
đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là nguyên tắc hiến định, chỉ đạo toàn bộ tổ
chức và hoạt động thi hành án nói chung và thi hành quyết định TTTM nói riêng, nó
không cho phép bất kỳ sự chống đối, cản trở nào đối với việc thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án hay quyết định của TTTM,
+ Nguyên tắc nếu bên phải thi hành quyết định của TTTM không tự nguyện
thi hành quyết định thì chỉ có cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành.
Đây là nguyên tắc vừa khẳng định tính chuyên trách của hoạt động thi hành
quyết định trọng tài, vừa thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ đối với
hoạt động thi hành quyết định trọng tài. TTTM là tổ chức xã hội - nghề nghiệp có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại, do các
Trọng tài viên tự thành lập nên hoặc do các bên đương sự thỏa thuận thành lập.
Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước như Tòa án, do vậy, khi giải
quyết tranh chấp, Trọng tài không nhân danh quyền lực Nhà nước mà nhân danh sự
công bằng, lẽ phải, nhân danh công lý để ra các quyết định. Hoạt động trọng tài

mang tính “quyền lực tư” nhiều hơn, chính vì vậy, khi quyết định của Trọng tài
không được một bên tự nguyện thi hành thì Nhà nước cần phải có sự can thiệp, hỗ
trợ để đảm bảo quyết định đó phải được thi hành trên thực tế, đồng thời khẳng định
vị thế của TTTM trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Chính vì vậy, Điều 66 Luật TTTM năm 2010 quy định: “Hết thời
hạn tự nguyện thi hành quyết định trọng tài mà bên phải thi hành quyết định không
tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy quyết định trọng tài theo quy định
tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn
yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành quyết định trọng tài”, đồng thời
Luật TTTM cũng xác định rõ “Cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành quyết định
trọng tài là cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng
trọng tài ra quyết định”.

17


+ Nguyên tắc kết hợp phương pháp giáo dục, thuyết phục đương sự tự
nguyện thi quyết định của Trọng tài và áp dụng biện pháp cưỡng chế khi cần thiết.
Quyết định của Trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành,
“Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành quyết định của Trọng tài”.
(Điều 65 Luật TTTM). Quá trình thi hành quyết định trọng tài, biện pháp ưu tiên
hàng đầu và xuyên suốt vẫn là biện pháp giáo dục, thuyết phục đương sự. Chỉ khi
không thể kiên nhẫn được vì biện pháp giáo dục, thuyết phục không mang lại hiệu
quả nữa, lúc đó cơ quan THADS mới áp dụng biện pháp cưỡng chế, tức là việc cơ
quan THADS có thẩm quyền sử dụng quyền năng mà pháp luật trao cho để buộc
bên phải thi hành quyết định trọng tài thực hiện nghĩa vụ của họ đối với bên được
thi hành quyết định trọng tài mà nghĩa vụ đó đã được ấn định trong quyết định để
đảm bảo quyết định trọng tài được thi hành trên thực tế, đảm bảo uy quyền của Nhà
nước.
Kết hợp tốt việc giáo dục, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành với biện

pháp cưỡng chế không những giúp cho quá trình thi hành quyết định trọng tài thuận
lợi, đạt hiệu quả cao mà còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các thương
nhân, Doanh nghiệp, hạn chế tối đa những thiệt hại về vật chất và những hệ lụy về
mặt tinh thần đối với các bên tranh chấp và các cá nhân, tổ chức có liên quan.
+ Nguyên tắc thi hành quyết định của Trọng tài kịp thời, đúng nội dung, đảm
bảo đúng trình tự, thủ tục luật định.
Quyết định của Trọng tài sau khi được ban hành phải được tổ chức thi hành.
Khi các bên không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên cơ quan THADS - người
được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải tổ chức thi hành kịp thời, đầy đủ, đúng đắn, không được tùy tiện thay đổi nội
dung quyết định. Chấp hành viên không thi hành đúng nội dung quyết định trọng
tài, trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành quyết định được giao mà
không có căn cứ pháp luật... thì sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình
sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật (Điều 165,
Luật THADS ). Trong quá trình tổ chức thi hành quyết định trọng tài, Chấp hành

18


viên phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục do pháp luật về THADS quy định.
Điều 20, Luật THADS chỉ rõ, khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp
hành viên phải “tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi
hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín”. Nguyên tắc này tạo điều kiện thuận lợi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên đương sự, đồng thời chống những tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình
thi hành quyết định trọng tài.
*. Ý nghĩa của việc thi hành quyết định của Trọng tài
+ Thi hành quyết định của Trọng tài góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong hoạt động Nhà nước, công tác thi hành pháp luật nói chung và thi
hành quyết định trọng tài nói riêng có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông qua hoạt

động đó, Quyết định trọng tài được thực hiện, điều đó có nghĩa là công lý đã được
đảm bảo trên thực tế. Quá trình tố tụng Trọng tài hiểu theo nghĩa rộng chỉ thật sự
được coi là kết thúc khi quyết định của Trọng tài đưa ra được các bên tự nguyện thi
hành hoặc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức thi hành triệt để. Nếu
công tác thi hành quyết định trọng tài không được quan tâm đầy đủ và không đạt
hiệu quả như mong muốn thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ hoạt động
tố tụng của Trọng tài, làm giảm uy tín của các Trung tâm trọng tài hay các Hội đồng
trọng tài vụ việc được các bên tranh chấp lựa chọn giải quyết vụ việc, làm mất niềm
tin đối với bên được thi hành quyết định và các tổ chức, cá nhân có liên quan, và
như vậy rõ ràng trật tự xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Khi
đó, nguyên tắc cơ bản, nền tảng của pháp luật xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc pháp
chế sẽ không được tôn trọng. Do đó, thi hành quyết định trọng tài đạt hiệu quả sẽ
mang lại niềm tin không chỉ đối với người được thi hành quyết định mà còn là của
các thương nhân, của người dân nói chung về tính nghiêm minh của pháp luật, góp
phần thiết lập kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
+ Thi hành quyết dịnh của Trọng tài góp phần nâng cao vị thế của TTTM
Ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát

19


×