Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Bảo vệ môi trường trong pháp luật thương mại quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN QUYẾT

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.01.07

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN LUẬT

HÀ NỘI - 2017

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Nội
dung cũng như các số liệu trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn này chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Người thực hiện đề tài

Nguyễn Quyết

2



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong Khoa Sau
Đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội cũng như các thầy cô giáo trong trường đã
giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường
vừa qua. Các thầy cô giáo đã chỉ dẫn và luôn tạo điều kiện cho tôi tiếp thu
được những kiến thức nền tảng cũng như chuyên sâu để tôi có thể hoàn thành
luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến TS.
Nguyễn Văn Luật là người đã tận tình hướng dẫn và theo sát tôi trong suốt
quá trình tôi thực hiện luận văn này.
Tôi cũng dành những lời cảm ơn chân thành đến những người thân, bạn
bè của tôi đã luôn quan tâm, động viên, ủng hộ tôi trong suốt mọi giai đoạn
học tập và nghiên cứu của mình để tôi đạt được kết quả tốt nhất.
Mặc dù rất cố gắng nhưng luận văn của tôi sẽ không thể tránh khỏi
những thiếu sót trong quá trình thực hiện. Tôi rất mong nhận được những
thông cảm, góp ý và chỉ bảo tận tình của các thầy cô để luận văn được hoàn
thiện hơn.
Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2017
Người thực hiện đề tài

Nguyễn Quyết

3


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

STT


Chữ viết tắt

01

WTO

02

TRIPS

03

BVMT

Bảo vệ môi trường

04

TMQT

Thương mại quốc tế

Tiếng Anh

Tiếng Việt

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại thế giới


Agreement on Trade Related Hiệp định về các khía cạnh
Aspects of Intellectual
liên quan đến thương mại
Property Rights
của quyền sở hữu trí tuệ

4


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.............................................4
1.1. Khái quát về môi trường và bảo vệ môi trường..................................................4
1.1.1. Về môi trường..................................................................................................4
1.1.2.Chức năng của môi trường...............................................................................6
1.1.3.Vấn đề bảo vệ môi trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế............................6
1.2.Mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và vấn đề môi trường.............................7
1.2.1.Khái niệm về thương mại, thương mại quốc tế và pháp luật thương mại
quốc tế.......................................................................................................................7
1.2.2.Xu hướng phát triển của thương mại quốc tế...................................................8
1.3.Mối quan hệ và vai trò của bảo vệ môi trường trong phát triển thương mại
quốc tế.......................................................................................................................9
1.3.1.Tác động của thương mại quốc tế đối với môi trường.....................................9
1.3.2.Tác động của các quy định bảo vệ môi trường đối với thương mại quốc tế....13
Chương 2.NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC
TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG .........................................................................18
2.1.Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và vấn đề bảo vệ môi trường...................18
2.2.Quy định của Liên minh châu âu (EU) về thương mại liên quan đến bảo vệ
môi trường.................................................................................................................26

2.3.Các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường có liên quan đến thương mại
quốc tế.......................................................................................................................31
2.4.Pháp luật của một số quốc gia về bảo vệ môi trường trong chính sách phát triển
thương mại quốc tế....................................................................................................40
Chương 3.NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐẶT
RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.......................45
3.1. Khái quát về thực trạng phát triển thương mại và bảo vệ môi trường tại
Việt Nam...................................................................................................................46
3.2.Lược khảo pháp luật của Việt Nam về thương mại quốc tế liên quan đến bảo vệ
môi trường và việc thực thi các cam kết quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành
viên............................................................................................................................48
3.2.1.Quy định về tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản phẩm..........................48
3.2.2.Quy định về kiểm duyệt đầu tư........................................................................56
3.3.Lược khảo pháp luật của Việt Nam về bảo vệ môi trường liên quan đến thương
mại quốc tế và việc thực thi các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt
Nam là thành viên.....................................................................................................58
3.4.Đề xuất giải pháp đối với những vấn đề đặt ra về bảo vệ môi trường trong
thương mại quốc tế tại Việt Nam..............................................................................66
3.4.1. Tăng cường vai trò của cơ quan Nhà nước trong việc nội luật hóa đầy đủ các
cam kết quốc tế của nước ta về bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế ........66
3.4.2. Tăng cường đàm phán cấp Nhà nước, ký kết và thực hiện các điều ước quốc
tế về thương mại gắn với bảo vệ môi trường ...........................................................71

5


3.4.3. Nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp góp phần hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế .....................................73
3.4.4. Củng cố vai trò của các hiệp hội góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế............................................................76

KẾT LUẬN .............................................................................................................80

6


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kinh tế và xã hội càng phát triển, mối quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi
trường ngày càng được đặt ra bức thiết và mạnh mẽ hơn. Nó là vấn đề quan tâm của
mỗi quốc gia, nằm trong đường lối chính sách phát triển của mỗi chính phủ, nằm
trong sự quan tâm đề cập hàng ngày hàng giờ của mỗi người dân, của cả cộng đồng.
Sự phát triển về mọi mặt kinh tế xã hội mà tách rời với việc bảo vệ môi trường thì
đó là sự phát triển không bền vững. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế diễn ra mạnh
mẽ hơn bao giờ hết, vấn đề bảo vệ môi trường luôn là một trong những vấn đề hàng
đầu được đặt ra, các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường được lồng ghép sát
sao, mạnh mẽ vào các quy định của các điều ước quốc tế về kinh tế thương mại
cũng như quy định pháp luật của từng quốc gia.
Tìm hiểu về sự tác động qua lại giữa thương mại và môi trường và việc bảo vệ
môi trường trong pháp luật thương mại quốc tế là nhằm bảo vệ hiệu quả môi trường
và thúc đẩy sự phát triển tích cực thương mại quốc tế. Nhằm góp phần phục vụ sự
nghiệp phát triển bền vững đất nước, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ môi trường
trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Vì vậy, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Bảo vệ môi trường trong pháp luật thương mại quốc tế và những vấn đề đặt ra
đối với Việt Nam” đề thực hiện luận văn trong chương trình đào tạo thạc sỹ luật học
của tôi.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước đây đã có một số các nghiên cứu về mối quan hệ về thương mại và
môi trường như:
- Sách “Lựa chọn sản phẩm và thị trường trong ngoại thương thời kỳ công
nghiệp hóa của các nền kinh tế Đông Nam Á”, NXB Chính trị quốc gia, năm 2000.

- Sách “Các tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000 và việc thực hiện
đối với các nhà xuất khẩu vào thị trường phát triển”, UNDP, Cục Môi trường xuất
bản và phát hành, năm 1996.
- Hội thảo “Thương mại quốc tế và môi trường” do Cục môi trường tổ chức
trong khuôn khổ Dự án SEMA, 1999.
7


- Hội thảo “Các vấn đề thương mại, môi trường và phát triển ở Việt Nam”,
Tổng cục tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, UNCTAD, 2001.
- Đề tài khoa học “Đánh giá tác động môi trường của các hoạt động
thương mại – dịch vụ và đề xuất các giải pháp góp phần hạn chế những tác động
đó”, Bộ Thương mại, 1999.
- Sách “Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế”, TS. Trần Thanh Lâm,
Viện Tài nguyên nước và môi trường Đông Nam Á, NXB Lao động, Hà Nội
Tuy nhiên, nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa thương mại và môi
trường dưới góc độ của pháp luật thương mại quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam thì chưa từng được thực hiện. Vì thế có thể khẳng định rằng đây là công
trình đầu tiên và độc lập nghiên cứu về vấn đề này một cách toàn diện và có hệ
thống.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn được xây dựng nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính sau:
- Một là nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ môi trường và mối
quan hệ giữa bảo vệ môi trường với phát triển thương mại quốc tế.
- Hai là tập trung tìm hiểu một cách có hệ thống các quy định về bảo vệ môi
trường trong mối tương quan với phát triển thương mại quốc tế của pháp luật Việt
Nam, các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường.
- Cuối cùng, trên cơ sở tìm hiểu các vấn đề lý luận, các quy định của pháp
luật cũng như thực tiễn thực hiện vấn đề bảo vệ môi trường trong bối cảnh phát
triển thương mại quốc tế củaViệt Nam, luận văn đưa ra một số đề xuất hoàn thiện

quy định của pháp luật của Việt Nam về vấn đề này theo hướng tương thích và đảm
bảo các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đảm bảo sự phát triển bền vững
về thương mại gắn liền với bảo vệ môi trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định về môi trường có ảnh hưởng tới
thương mại quốc tế của một số tổ chức quốc tế như WTO, EU cũng như của một số
quốc gia phát triển trên thế giới, được coi là những thị trường tiềm năng cho việc
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, nhằm tìm hiểu những ảnh hưởng có thể có của

8


những quy định này tới việc thâm nhập của hàng hóa Việt Nam. Đồng thời luận văn
tìm hiểu các quy định pháp luật môi trường và thương mại của Việt Nam có liên
quan đến thương mại quốc tế nói chung và sản xuất, xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam nói riêng. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
Việt Nam nhằm tăng cường mối liên hệ tương hỗ cho nhau giữa bảo vệ môi trường
và phát triển thương mại.
5. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
– Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bên cạnh đó là vận dụng những quan điểm chỉ
đạo, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề bảo vệ môi
trường gắn liền với phát triển bền vững trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, trong quá trình nghiên cứu, đề tài có
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh kết hợp với phương pháp thống kê mô hình hóa.
Nội dung của luận văn được thực hiện phần lớn trên cơ sở phân tích các văn
bản, tài liệu về các quy định pháp luật về thương mại và môi trường của Việt Nam,
Tổ chức thương mại thế giới WTO, Liên minh Châu Âu EU… cũng như phân tích,
đánh giá các báo cáo khoa học, bài viết, công trình nghiên cứu của các học giả trong

và ngoài nước có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
6. Kết của của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn
gồm ba chương chính:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ môi trường trong pháp luật
thương mại quốc tế
Chương 2: Nội dung cơ bản của pháp luật thương mại quốc tế về bảo vệ môi
trường
Chương 3: Những vấn đề pháp lý về bảo vệ môi trường đặt ra đối với Việt
Nam trong thương mại quốc tế

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Trong chương này, tác giả sẽ tập trung làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản liên
quan trong phạm vi nghiên cứu là khái niệm, phân loại và chức năng của môi trường,
vai trò ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường trong bối cảnh hội nhập (1.1.); khái quát về
thương mại quốc tế và pháp luật thương mại quốc tế (1.2.); từ đó làm sáng tỏ mối quan
hệ và vai trò của bảo vệ môi trường đối với sự phát triển của thương mại quốc tế (1.3.).
1.1. Khái quát về môi trường và bảo vệ môi trường
1.1.1. Về môi trường
Hiểu một cách đơn giản nhất, môi trường là thứ bao quanh con người, là nơi
con người tồn tại và duy trì sự sống của mình. Khái niệm “môi trường” là một thuật
ngữ được nhắc đến hàng ngày hàng giờ và đang ngày càng trở thành một vấn đề cấp
bách của toàn cầu. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có định nghĩa nào chính xác
và thống nhất về môi trường trong pháp luật quốc tế cũng như trong pháp luật của
các quốc gia. Hiện nay, tồn tại phổ biến một số quan niệm về môi trường sau đây:

Quan điểm thứ nhất: Môi trường là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống
tự nhiên của con người, môi trường cũng là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên
cần thiết cho việc sản xuất và hình thành các nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra
của cải vật chất của loài người, trong số này một số có thể tái tạo được, một số khác
không thể tái tạo.
Quan điểm thứ hai: Môi trường là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh
hưởng đến sự tồn tại và phát triển của một sự vật hiện tượng nào đó. Bất kỳ một sự
vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại và phát triển trong một môi trường nhất định.
Quan điểm thứ ba: Môi trường là toàn bộ hệ thống do con người tạo ra xung
quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai thác
tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con người.

10


Quan điểm thứ tư: liệt kê ra những yếu tố tạo nên môi trường. Môi trường bao
gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao
quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và thiên nhiên [40, tr.5].
Nếu phân chia theo chức năng thì có thể chia môi trường thành hai loại là
môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo.
Môi trường tự nhiên: là toàn bộ các điều kiện tự nhiên bao quanh con người và
cơ thể sống khác, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại gắn bó và ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới đời sống cũng như sự phát triển kinh tế xã hội trong
những điều kiện nhất định. Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố: đất, nước, không
khí, hệ sinh thái động thực vật và những điều kiện tự nhiên khác có ảnh hưởng tới đời
sống con người.
Môi trường nhân tạo: là toàn bộ các yếu tố nhân tạo (do chính con người tạo
nên) bao quanh con người, có ảnh hường trực tiếp, hoặc gián tiếp đến sự tồn tại và
phát triển của cá nhân con người và nhiều cơ thể sống khác. Môi trường nhân tạo

bao gồm: các công trình thủy lợi, những làng mạc được hình thành từ bao đời trong
lịch sử, hồ nước, hệ thống sông ngòi, vườn hoa, công viên… do con người tạo nên,
các loài động vật do con người thuần dưỡng và phát triển qua nhiều thế hệ.
Điều 3 của Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam 2014 định nghĩa:
“1. Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác
động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật.
2. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường gồm đất,
nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác.”
Theo định nghĩa trên thì môi trường bao gồm ba nhóm yếu tố sau:
- Các thành tố sinh thái tự nhiên gồm: đất trồng trọt; lãnh thổ; nước; không khí;
động, thực vật; các hệ sinh thái; các trường vật lý (nhiệt, điện, từ, phóng xạ).
- Các thành tố xã hội – nhân văn gồm: dân số và động lực dân cư, tiêu dùng,
xả thải; nghèo đói; giới; dân tộc, phong tục, tập quán, văn hóa, lối sống, thói quen
vệ sinh; luật, chính sách, hương ước, lệ làng...; tổ chức cộng đồng, xã hội...

11


- Các điều kiện tác động (chủ yếu và cơ bản là hoạt động phát triển kinh tế)
gồm: các chương trình và dự án phát triển kinh tế, hoạt động quân sự, chiến tranh...;
các hoạt động kinh tế: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,
xây dựng, đô thị hóa...; công nghệ, kỹ thuật, quản lý.
Ba nhóm yếu tố trên tạo thành ba phân hệ của hệ thống môi trường, đảm bảo
cuộc sống và sự phát triển của con người
1.1.2. Chức năng của môi trường
Môi trường tự nhiên trong quan hệ với đời sống của con người và sự phát
triển của xã hội loài người là một hệ thống tự nhiên có các chức năng sau:
- Môi trường cung cấp hệ sinh thái như yếu tố vật chất cơ bản giúp cho sự
tồn tại và phát triển của con người bao gồm không khí, nguồn nước, đất, rừng và
sinh vật.

- Môi trường chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối tượng lao
động sản xuất và hình thành các nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải vật
chất cần thiết cho loài người.
- Môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sinh hoạt trong cuộc
sống của con người. Có nhiều nguồn chất thải khác nhau: các chất thải được thải ra
từ các xí nghiệp, nhà máy; các chất thải trong nông nghiệp như phân hóa học, thuốc
trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng; các chất thải sinh hoạt bao gồm nước thải, rác
thải, các loại khí bụi của lò bếp; các khí thải của các phương tiện giao thông vận tải
như xe máy, máy bay…
1.1.3. Vấn đề bảo vệ môi trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Từ chỗ sử dụng và khai thác môi trường tự nhiên với tính chất hoàn toàn tự
phát, vì lợi ích kinh tế đơn thuần, tạo ra những khủng hoảng cục bộ về môi trường ở
nhiều quốc gia, dẫn đến suy giảm môi trường toàn cầu, con người đã dần nhận thức
được hậu quả ghê gớm của khủng hoảng môi trường với những đe dọa sự phát triển
của từng quốc gia và toàn thế giới. Vì thế, trong sự phát triển chung của toàn thế
giới, của mỗi quốc gia, bất kì ở đâu đều phải lưu tâm đến vấn đề môi trường song
song với các chính sách phát triển thương mại. Trong pháp luật của mỗi quốc gia,
12


bên cạnh những quy định riêng biệt về môi trường và bảo vệ môi trường thì trong
những chính sách, quy định về phát triển kinh tế, thương mại, vấn đề bảo vệ môi
trường cũng luôn được gắn liền. Trên phạm vi khu vực và thế giới, khi sự giao lưu
kinh tế, thương mại giữa các quốc gia diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng thì cũng phải
gắn kết vấn đề về bảo vệ môi trường với vấn đề thương mại. Các quốc gia đã phải
cùng nhau ngồi lại đàm phán và xây dựng ra một khung pháp lý quốc tế đầy đủ
vững chắc về bảo vệ môi trường quốc tế. Cùng với sự gia tăng của hàng loạt các
công ước quốc tế về môi trường quốc tế, các chương trình và cơ chế quốc tế về hợp
tác kinh tế, thương mại và phát triển bền vững cũng hình thành nhanh chóng.
Riêng trong lĩnh vực thương mại, trong quá trình đàm phán ký kết các điều

ước quốc tế song phương và đa phương, các quốc gia vẫn luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ
môi trường lên hàng đầu.
Như vậy vấn đề bảo vệ môi trường trở thành một vấn đề của toàn cầu và
được pháp luật quốc tế nói chung, pháp luật thương mại quốc tế nói riêng ghi nhận.
Theo quy định của Luật Quốc tế hiện đại thì bảo vệ môi trường được đặt ra với
những vấn đề pháp lý cơ bản bao gồm: bảo vệ khí quyển và khí hậu, bảo vệ rừng,
bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ môi trường biển [41,
tr.137].
1.2. Mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và vấn đề môi trường
1.2.1. Khái niệm về thương mại, thương mại quốc tế và pháp luật thương mại
quốc tế
Theo từ điển Oxford, “thương mại là một nghề, một hoạt động kinh doanh
vì mục tiêu lợi nhuận” [48].
Từ điển tiếng Việt giải nghĩa “kinh doanh, thương mại là việc kinh doanh
mua bán để lấy tiền hoặc đổi hàng lấy hàng”[42]. Theo khái niệm này, thương mại
chỉ đơn thuần là hoạt động mua bán, trao đổi, không bao gồm hoạt động đẩu tư, sản
xuất có liên quan.

13


Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đưa ra khái niệm tại Khoản 1 Điều 3
như sau: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác”[24].
Theo khoản 1, 2 Điều 27 và 28 Luật Thương mại thì việc mua bán hàng hóa
quốc tế được hiểu là việc xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa, theo đó hàng hóa được
đưa ra, đưa vào lãnh thổ Việt Nam hoặc khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt
Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Nói cách
khác, thương mại quốc tế được hiểu là các hoạt động thương mại vượt ra khỏi biên

giới quốc gia hoặc biên giới hải quan.
Qua đây có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam đơn giản là lấy dấu hiệu hành vi
thương mại vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ của quốc gia làm tiêu chí để xác định
hoạt động thương mại quốc tế.
Về “luật thương mại quốc tế”, cho đến nay cũng tồn tại không ít cách định
nghĩa và giải thích, tuy nhiên có thể khái quát rằng “Luật thương mại quốc tế là
tổng hợp các nguyên tắc, các quy phạm điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể trong
hoạt động thương mại quốc tế.”[42].
1.2.2. Xu hướng phát triển của thương mại quốc tế
- Xu hướng toàn cầu hoá trong hoạt động thương mại
Toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình liên kết kinh tế quốc tế trên phạm vi
toàn cầu.
Toàn cầu hoá còn biểu hiện ở sự gia tăng nhanh chóng các liên kết khu vực.
Những năm 50, cả thế giới chỉ có khoảng 10 liên kết khu vực nhưng đến năm 2003
con số này đã là 250. Điều này thể hiện được tầm quan trọng của các liên kết quốc
tế ở qui mô khu vực trong việc phát triển kinh tế và đẩy mạnh hội nhập kinh tế thế
giới ở phạm vi toàn cầu.
Các liên kết khu vực và liên kết liên khu vực, toàn cầu ngày càng chiếm vai
trò quan trọng trong hoạt động thương mại giữa các nước, các khu vực lãnh thổ. Ví

14


dụ: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) hiện nay có 164 thành viên chiếm khoảng
90% lượng lưu chuyển hàng hoá của cả thế giới [51].
- Xu hướng tự do hoá
Tự do hoá thương mại là dỡ bỏ các rào cản trong thương mại tạo thuận lợi cho
thương mại, cho phép hàng nước ngoài xâm nhập tự do vào thị trường trong nước.
Tự do hoá thương mại là xu thế chính, các liên kết khu vực và liên khu vực
đều tiến tới cắt giảm và tiến tới dỡ bỏ rào cản thuế quan và phi thuế quan. Tuy

nhiên, hiện nay, bảo hộ thương mại vẫn còn tồn tại và được thể hiện dưới nhiều
hình thức mới như các biện pháp trợ cấp, trợ giá, các rào cản phi thuế quan, các rào
cản kỹ thuật...vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp là phải nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình để có thể xâm nhập thị trường các nước khác, về phía nhà nước, các
quốc gia vẫn kết hợp cả hai hình thức trên: bảo hộ một cách hợp lý thị trường và
nền sản xuất trong nước, dần dần xoá bỏ các rào cản để tiến tới tự do hoá thương
mại.
1.3. Mối quan hệ và vai trò của bảo vệ môi trường trong phát triển thương mại
quốc tế
Mối quan hệ giữa thương mại và môi trường là một trong những nội dung cơ
bản của mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường. Thương mại đóng vai trò ngày
càng quan trọng trong sự gia tăng các hoạt động kinh tế và vì thế cũng là một tác
nhân quan trọng của biến đổi môi trường.
Có thể thấy mối quan hệ giữa môi trường và thương mại là mối quan hệ nhân
quả, tác động qua lại. Môi trường là giá đỡ của cuộc sống, chính vì vậy mà mọi hoạt
động kinh tế, thương mại đều phải dựa trên nền tảng môi trường. Môi trường cung
cấp nguyên liệu đầu vào như khoáng sản, thủy sản, các sản phẩm lâm sản… cho quá
trình sản xuất, đồng thời là nơi tiếp nhận chất thải từ các hoạt động thương mại.
Ngược lại, các hoạt động thương mại cũng chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố
môi trường. Những chính sách môi trường có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực
đối với tự do thương mại, thúc đẩy hoặc trở thành rào cản thương mại.
1.3.1. Tác động của thương mại quốc tế đối với môi trường

15


Mối quan hệ giữa thương mại và môi trường là một vấn đề vô cùng phức tạp.
Bản chất của mối quan hệ này (như đã đề cập đến ở trên) là sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa các hoạt động thương mại và bảo vệ môi trường.
Trước xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng như xu hướng phát triển

thương mại tự do giữa các nước, các khu vực, việc phát triển kinh tế của mỗi nước
theo kịp với các nước khác và tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực
và trên thế giới là điều vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ phải làm sao
để hạn chế những tác hại của các hoạt động thương mại gây ra đối với môi trường,
phát huy những tác động tích cực để đảm bảo phát triển bền vững.
- Tác động tích cực của thương mại quốc tế đối với môi trường
Trước hết, thông qua thương mại quốc tế, các nước trao đổi, buôn bán hàng
hóa với nhau và cũng chính nhờ thông thương mà các quốc gia nhận ra tính toàn
cầu của vấn đề môi trường. Sản phẩm của một nước có tác động xấu tới môi trường
được xuất khẩu sang thị trường nước khác cũng sẽ là nguy cơ đe doạ cho môi
trường của các nước nhập khẩu. Bên cạnh đó, nếu hoạt động thương mại của một
quốc gia có tác động xấu tới môi trường thì nó sẽ ảnh hưởng tới môi trường toàn
cầu, ảnh hưởng đến các quốc gia khác, đặc biệt là những quốc gia lân cận về mặt
lãnh thổ. Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, các quốc gia đã cùng nhau
lập nên các tổ chức quốc tế bảo vệ môi trường và các hội nghị quốc tế về bảo vệ
môi trường như: Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về bảo vệ môi trường năm 1972 tại
Stockholm, Thụy Điển, tại Rio de Janeiro, Braxin năm 1992 và New York năm
1997; Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP); Hội bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên quốc tế (IUON); Chương trình bảo vệ môi trường của hội nghị Liên hợp
quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD).
Thứ hai, thương mại quốc tế phát triển giúp các nước mở rộng trao đổi công
nghệ, nhân rộng việc sử dụng các “công nghệ thân thiện với môi trường”, chuyển
giao những công nghệ này và học hỏi cách quản lý, sử dụng chúng từ những nước
tiên tiến hơn. Cũng từ đó mà tiến thêm được một bước trong bảo vệ môi trường.

16


Tự do hóa thương mại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị
trường và mặt hàng xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu. Nhờ có nguồn thu ngoại

tệ gia tăng, các doanh nghiệp có điều kiện tự đầu tư để nhập khẩu công nghệ hiện
đại phục vụ cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải bất cứ
doanh nghiệp nào thành công trên thị trường cũng quyết định đầu tư nhập khẩu
công nghệ hiện đại, chủ yếu là do hiểu biết còn hạn chế hoặc cố tình lờ đi những tác
động tiêu cực của thương mại đến môi trường. Mặc dù vậy, đa số các doanh nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu hoặc kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ quyết định đầu tư vì hai
nguyên nhân chủ yếu: một là do đòi hỏi của thị trường, hàng hóa phải đáp ứng
những tiêu chuẩn nhất định về số lượng, kiểu dáng, mẫu mã hoặc tiêu chuẩn kỹ
thuật mới đủ khả năng cạnh tranh hay là được cho phép tiêu thụ trên thị trường
nước ngoài, đặc biệt là thị trường các nước phát triển; hai là khi một nước mở cửa
thị trường của mình, nước đó sẽ có cơ hội tiếp cận với những máy móc, thiết bị và
công nghệ hiện đại của nước ngoài. Khi đó, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải
chịu chi phí thấp hơn để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Theo đó, tổng chi phí sản
xuất của doanh nghiệp sẽ giảm và họ sẽ có cơ hội đầu tư nhiều hơn vào máy móc,
trang thiết bị mà họ cần.
Thứ ba, thương mại quốc tế làm thay đổi cơ cấu sản xuất theo hướng có lợi
hơn cho môi trường. Tự do hóa thương mại là điều kiện để phát triển phân công lao
động và chuyên môn hóa sản xuất. Trong quá trình đó, các nước tự điều chỉnh lại cơ
cấu sản xuất và thương mại của mình sao cho có hiệu quả hơn. Theo đó, nếu sản xuất
trong nước không hiệu quả hoặc gây ảnh hưởng tới môi trường, các nước sẽ chấm dứt
sản xuất những mặt hàng nhạy cảm với môi trường và thay thế bằng hàng nhập khẩu.
Mặt khác, nhờ tính hiệu quả đó, các doanh nghiệp có thể sử dụng ít hơn nguồn tài
nguyên đầu vào và cũng tạo ra ít chất thải hơn trong quá trình sản xuất.
Thứ tư, thông qua giao lưu, buôn bán với nhau mà các nước có thể học tập
được những kinh nghiệm trong vấn đề bảo vệ môi trường của các nước đi tiên
phong. Chẳng hạn như các nước đã học tập nhau trong việc khuyến khích các doanh

17



nghiệp áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000, HACCP, SA 8000 hay các tiêu chuẩn dán
nhãn sinh thái cho sản phẩm, tiêu chuẩn về đóng gói, bao bì…
Thứ năm và cũng là tác động tích cực nhất và thiết thực nhất của thương mại
quốc tế, là thương mại quốc tế phát triển sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, và chính sự
tăng trường kinh tế sẽ tạo điều kiện để thực thi các giải pháp về môi trường. Thực tế
cho thấy, kinh tế có phát triển, người dân có no đủ thì họ mới nghĩ đến bảo vệ môi
trường và mới phát huy sức mạnh toàn dân trong công cuộc bảo vệ môi trường. Mặt
khác, một đất nước nếu có nền kinh tế phát triển mới có điều kiện thành lập các quỹ
nhằm bảo vệ môi trường, mới có tiền để trợ giúp các doanh nghiệp trong việc đổi
mới công nghệ, đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường cũng như mới có thực
lực để tham gia các hoạt động của các tố chức quốc tế về môi trường.
- Tác động tiêu cực của thương mại quốc tế đến môi trường
Bên cạnh những tác động tích cực như trên, chúng ta không thể không nhắc
tới những ảnh hưởng xấu của việc phát triển thương mại quốc tế tới môi trường.
Một là, tự do hóa thương mại làm tăng nguy cơ lưu thông những sản phẩm
có ảnh hưởng tới môi trường. Có thể nói, các nước đều áp dụng những biện pháp
thương mại nhất định, như là cấm hoặc hạn chế định lượng để hạn chế việc trao đổi
hay buôn bán một số loại hàng hóa đặc biệt (ví dụ như chất thải độc hại, các loại
động vật có nguy cơ tuyệt chủng). Các hiệp định thương mại đa biên cho phép duy
trì những biện pháp hạn chế cần thiết đối với các loại hàng hóa này nhằm mục đích
bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, không phải chỉ có nhóm sản phẩm này mới có nguy
cơ ảnh hưởng tới môi trường. Một sản phẩm được coi là có nguy cơ ảnh huởng tới
môi trường là sản phẩm mà trong quá trình sản xuất, sử dụng và thải bỏ chúng thì
các tác động và ảnh hưởng phát sinh từ những hoạt động này đến môi trường xung
quanh cao hơn so với tác động của các sản phẩm tương tự cùng loại. Nếu theo khái
niệm này thì hầu hết các loại hàng hóa đều có ảnh hưởng nhất định tới môi trường. Vì
vậy, khi các biện pháp quản lý nhập khẩu bị hạn chế thì nguy cơ nhập khẩu tràn lan các
sản phẩm tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng xấu đến môi trường là không tránh khỏi.

18



Hai là, lợi nhuận thương mại và áp lực cạnh tranh của thị trường có thể
khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng các quy trình sản xuất, công nghệ không thân
thiện với môi trường để giảm tối đa chi phí sản xuất.Vì lợi nhuận, không ít doanh
nghiệp đã nhập thiết bị cũ, lạc hậu tân trang lại của nước ngoài, phổ biến là tình
trạng nhập bừa bãi, phi pháp các loại hóa chất bảo vệ thực vật (như thuốc trừ sâu,
thuốc diệt cỏ), các loại dược phẩm, phẩm màu đã bị cấm sử dụng hay đã quá thời
hạn sử dụng, xe máy, ôtô bãi rác, quần áo cũ, rác thải, thuốc lá và đồ gia dụng cũ.
Tất cả những sản phẩm này không chỉ gây tác hại nghiêm trọng đến môi trường mà
còn gây ảnh hường rất xấu đến người tiêu dùng.
Cuối cùng, tự do hóa thương mại và sản xuất quy mô lớn có thể dẫn tới nguy
cơ khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời tạo ra rác thải và các
tác nhân gây ô nhiễm.Quá trình phát triển kinh tế ở các nước đặc biệt là quá trình
công nghiệp hóa và đô thị hóa ở các nước đang phát triển đã và đang làm gia tăng
quá mức việc khai thác và lạm dụng các tài nguyên như đất, nước, tài nguyên
khoáng sản. Điều đó đã gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường, như làm suy giảm
và phá vỡ sự cân bằng sinh thái, cạn kiệt các nguồn tài nguyên quý giá, gây hiện
tượng nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu. Những hậu quả này sẽ gây tác động
tiêu cực trở lại đối với phát triển kinh tế - xã hội.
1.3.2. Tác động của các quy định bảo vệ môi trường đối với thương mại quốc tế
Có thể nói, vấn đề môi trường trong thương mại quốc tế đã ẩn chứa nhiều
mâu thuẫn và trở nên hết sức nhạy cảm, đó là thách thức đối với tất cả các nước
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là các nước đang phát triển. Các
nước ngày càng lo ngại hơn về sự xuống cấp của môi trường và do đó áp dụng ngày
càng nhiều các biện pháp nhằm hạn chế hoặc giảm bớt tác động của các hoạt động
sản xuất, tiêu dùng của xã hội đối với môi trường. Những biện pháp được áp dụng
để đạt được mục đích này thường tập trung vào việc phân bổ hợp lý hơn các chi phí
môi trường trên phạm vi quốc tế và tăng cường phổ biến thông tin, nâng cao hiểu biết
của các tổ chức và cá nhân để họ có thể đưa ra các quyết định bảo vệ môi trường.

- Tác động tích cực của các quy định bảo vệ môi trường đối với thương mại

19


quốc tế
Thứ nhất, các quy định bảo vệ môi trường góp phần bảo vệ môi trường và sự
an toàn cho người tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, cắt giảm chi phí là
mục tiêu và là xu hướng chung của tất cả các doanh nghiệp đặt ra nhằm đảm bảo tỷ lệ
lợi nhuận cao nhất. Không ít doanh nghiệp đã vì lợi nhuận mà sử dụng những máy
móc, thiết bị, phương tiện công nghệ cũ, sử dụng những nguyên liệu đầu vào gây ô
nhiễm môi trường hoặc nguy hại cho người sử dụng. Trong trường hợp như vậy các
quy định và tiêu chuẩn môi trường góp phần tạo ra một khuôn khổ pháp lý hoàn thiện
để điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp. Ví dụ, các quy định về chất thải công
nghiệp góp phần hạn chế các nhà máy không đổ chất thải bừa bãi ra sông hồ hoặc các
khu vực đông dân, các tiêu chuẩnn về hàm lượng chất độc hại trong sản phẩm giúp
hạn chế được những nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe đối với người tiêu dùng. Nói cách
khác, việc áp dụng các quy định bảo vệ môi trường một cách hợp lý và có cơ sở khoa
học có thể hạn chế được những mặt trái của kinh tế thị trường, cụ thể là góp phần bảo
vệ sức khỏe của con người và sự trong sạch, bền vững của môi trường trước những
tác động tiêu cực của các hoạt động thương mại.
Thứ hai, các quy định bảo vệ môi trường giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và
tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường.Trong bối
cảnh các vấn đề môi trường toàn cầu đang có nguy cơ ngày càng gia tăng, nhu cầu
người tiêu dùng về sản phẩm thân thiện với môi trường ngày càng cao thì việc áp
dụng các quy định và tiêu chuẩn về môi trường ở các nước ngày càng trở nên phổ
biến và bắt buộc. Trước tình hình đó, các sản phẩm thân thiện với môi trường dễ
được chấp nhận hơn so với các sản phẩm không tuân thủ các yêu cầu nói trên. Thực
tế cho thấy các công ty áp dụng các biện pháp quản lý môi trường tốt như ISO 14000,
HACCP ... dễ được khách hàng nhận hơn.

Mặc dù việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy định về môi trường trong nhiều
trường hợp làm tăng chi phí sản xuất, do vậy, trong ngắn hạn có thể ảnh hường đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong môi trường cạnh tranh ngày
càng quyết liệt như hiện nay thì việc tuân thủ các tiêu chuẩn và quy định về môi

20


trường lại tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng vay vốn để mở rộng quy mô sản
xuất và góp phần nâng cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên trường quốc tế, tăng
khả năng thâm nhập thị trường.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường sẽ giúp
doanh nghiệp cải thiện đáng kể tình trạng quản lý chung của doanh nghiệp, nâng
cao hình ảnh, uy tín, mối thiện cảm của các nhà chức trách và người tiêu dùng đối
với doanh nghiệp, đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp.
Thứ ba, các quy định và tiêu chuẩn về môi trường làm thuận lợi hóa việc
đàm phán quốc tế về các hiệp định thương mại và môi trường.Vấn đề môi trường
ngày càng trở nên hết sức quan trọng trong các cuộc đàm phán thương mại quốc tế,
khu vực cũng như toàn cầu. Việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường
trong các cuộc đàm phán như vậy sẽ tạo thuận lợi cho việc đưa ra nghị quyết về vấn
đề liên quan đến thương mại và môi trường. Các tiêu chuẩn môi trường có thể sử
dụng như là một chỉ số của sự cam kết và mong muốn của đất nước đẩy mạnh việc
bảo vệ môi trường thông qua việc quản lý môi trường tốt hơn trong số các tố chức
doanh nghiệp của nước này. Lợi thế của phương pháp tiếp cận này có sức thuyết
phục cao và có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển thương mại quốc gia
thế kỷ 21.
Thứ tư, các quy định về môi trường giúp tạo ra cơ cấu sản xuất phù hợp và
khuyến khích các hoạt động thương mại bền vững.Việc đưa ra các quy định nhằm
bảo vệ các nguồn tài nguyên có nguy cơ bị cạn kiệt có ảnh hưởng tích cực tới
thương mại, đặc biệt là những nước mà các hoạt động kinh tế thương mại chủ yếu

dựa vào nguồn tài nguyên. Điều này thể hiện ở chỗ quy định bảo vệ môi trường có
thể hạn chế đầu vào của một số ngành sản xuất, dẫn tới sự thay đổi cơ cấu đầu vào
hoặc sự điều chỉnh sản xuất theo hướng ít phụ thuộc hơn vào những nguồn tài
nguyên khan hiếm.
Thứ năm, các quy định về môi trường còn làm thuận lợi hóa quá trình tự do
hóa thương mại.Vì các tiêu chuẩn và quy định về môi trường là các tiêu chuẩn quốc
tế được xây dựng theo nguyên tắc thỏa thuận nên các tài liệu này sẽ phục vụ cho

21


việc thống nhất quan điểm của các nước trong cách tiếp cận của họ đối với nhãn
sinh thái, quản lý môi trường và đánh giá chu trình sống. Nhận thức và tiếp cận
thống nhất này sẽ dỡ bỏ những rào cản trong thương mại và như vậy nó sẽ hỗ trợ
cho quá trình tự do hóa thương mại diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn.
- Tác động tiêu cực của các quy định bảo vệ môi trường đối với thương mại
quốc tế
Mặc dù có những tác động tích cực đối với các hoạt động thương mại nhưng
có không ít những quy định cản trở một cách bất hợp lý đối với hoạt động thương
mại, đặc biệt là hoạt động thương mại quốc tế. Trong bối cảnh tự do hóa thương
mại đang diễn ra trên toàn cầu thì sự cản trở của các quy định môi trường đối với
thương mại trở thành một vấn đề quan tâm của nhiều nước, đặc biệt là các nước
đang phát triển. Nhóm nước này thường có quyền lợi xuất khẩu gắn liền với những
mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến môi trường như nông sản, dệt may, khoáng sản…
Sự lo ngại của họ có nhiều cơ sở khác nhau và do đó, rất khó có thể xác định một
cách hợp lý mức độ mà các quy định về môi trường có thể ảnh hưởng tiêu cực tới
thương mại. Các mối lo ngại chủ yếu đối với thương mại nói chung và thương mại
của các nước đang phát triển nói riêng bao gồm:
Thứ nhất, các quy định môi trường khắt khe của nước nhập khẩu có thể dẫn
tới chi phí sản xuất cao hơn và làm giảm kim ngạch xuất khẩu của nước xuất khẩu.

Điều này thể hiện ở một số điểm sau:
- Trình độ công nghệ, năng lực sản xuất hạn chế là một trong những
nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới khó khăn của nước xuất khẩu. Điều này trở
nên quan trọng hơn đối với các nước đang phát triển do một tỷ trọng lớn hàng xuất
khẩu có khả năng gây ảnh hưởng tới môi trường.
- Các nước có quyền áp dụng các tiêu chuẩn sản phẩm đối với cả hàng
sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, nhưng tiêu chuẩn về quy trình sản xuất thì
không được áp dụng với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên trên thực tế, các nước phát
triển khi đưa ra các tiêu chuẩn sản phẩm lại dựa trên các quy định về quy trình sản

22


xuất. Các nước đang phát triển, với năng lực sản xuất và trình độ công nghệ hạn
chế, thường chịu bất lợi trước những quy định về môi trường như vậy.
- Sự thay đổi thường xuyên của các quy định môi trường cũng gây khó
dễ cho hàng nhập khẩu. Nước xuất khẩu và người xuất khẩu thường bị ảnh hưởng
khi họ không thể nắm rõ các quy định quá chi tiết này và thay đổi thường xuyên.
Thứ hai, các quy định về môi trường góp phần tạo ra các rào cản trong
thương mại quốc tế.Việc sử dụng ngày càng rộng rãi các tiêu chuẩn và quy định môi
trường trong thương mại quốc tế nhằm khuyến khích những sản phẩm thân thiện
với môi trường có thể tạo nên rào cản phi thuế quan trong tương lai khi các khu vực
mậu dịch tự do được thiết lập và mở rộng ở nhiều khu vực trên thế giới. Vì vậy việc
vượt qua được các rào cản này là một thách thức rất lớn đối với các nước xuất khẩu,
đặc biệt là các nước đang phát triển, nơi mà còn thiếu rất nhiều các điều kiện để đáp
ứng được yêu cầu của nước nhập khẩu.
Thứ ba, các quy định và tiêu chuẩn về môi trường hạn chế khả năng cạnh
tranh, tạo ra thách thức lớn đối với các nước đang phát triển và các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Những cuộc tranh chấp thương mại liên quan đến các quy định và tiêu
chuẩn môi trường gần đây cho thấy nhiều quốc gia sử dụng các biện pháp và chính

sách môi trường để hạn chế nhập khẩu cũng như là một phương thức để tăng cạnh
tranh xuất khẩu, tăng cường chỗ đứng trên thị trường, ngay cả khi chưa có áp lực
gay gắt từ khách hàng nước ngoài. Như vây, các biện pháp môi trường có thể được
sử dụng như một công cụ marketing ở cả trong nước và quốc tế. Tuy nhiên không
phải bất cứ quốc gia nào cũng có đầy đủ điều kiện để áp dụng các quy định và tiêu
chuẩn môi trường để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa của mình. Đây
cũng là một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển cũng như các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nơi mà việc áp dụng các biện pháp môi trường có thể làm tăng
đáng kể chi phí sản xuất, do vậy làm giảm khả năng cạnh tranh.
Như vậy, có thể nói tự do hóa thương mại là một xu hướng tất yếu khách
quan của thời đại. Quá trình này có thể gây ra những tác động tiêu cực và tích cực
đối với môi trường. Các quy định và tiêu chuẩn môi trường quốc tế đóng vai trò

23


quyết định trong việc hạn chế các tác động tiêu cực của tự do hóa thương mại đối
với môi trường. Bên cạnh đó, những quy định về môi trường trong thương mại cũng
có thể tạo ra những hạn chế đối với thương mại tự do. Vấn đề cơ bản là phải có sự
kết hợp hài hòa giữa hai mục đích để đạt được sự phát triển bền vững.

*****

Chương 2
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾVỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Nội dung của Chương 2 sẽ tập trung đi vào tìm hiểu và phân tích quy
định của pháp luật thương mại quốc tế về bảo vệ môi trường của những thiết
chế kinh tế lớn trên thế giới, cụ thể là quy định của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) về bảo vệ môi trường (2.1.); quy định của Liên minh Châu Âu EU

về bảo vệ môi trường (2.2.); tìm hiểu về quy định của một số các điều ước quốc
tế về bảo vệ môi trường liên quan đến thương mại quốc tế (2.3.); và cuối cùng
là tìm hiểu quy định của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới về bảo vệ môi
trường trong chính sách phát triển thương mại quốc tế (2.4.).
2.1. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và vấn đề bảo vệ môi trường.
Tổ chức Thương mại Thế giới được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở
rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân, GATT - Hiệp định
chung về Thuế quan Thương mại. GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II.
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc tế,
23 nước sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương
mại và việc làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương
mại Quốc tế (ITO) với tư cách là chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các
nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý những
biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế từ đầu
những năm 30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa mậu dịch, mở đường cho kinh tế

24


và thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của
nhân dân các nước thành viên.
Từ năm 1948 đến năm 1994, trong khuôn khổ GATT đã diễn ra 8 vòng đàm
phán nhằm hoàn thiện hệ thống thương mại toàn cầu, chủ yếu về thuế quan. Tuy
nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ vòng đàm phán Uruguay (1986-1994) do thương
mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm
phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình thành
các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế, về thương mại dịch
vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương mại, về
thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện
điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế

quan và Thương mại (GATT) vốn chỉ là một sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký kết
mang tính chất tùy ý đã tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh
(Maroc), các bên đã kết thúc hiệp định thành lập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO)
nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp GATT. WTO chính thức được thành lập độc lập
với hệ thống Liên Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995. Các cơ quan, chức năng,
nguyên tắc hoạt động và các thỏa thuận cơ bản của WTO cũng được xác định.
Những hiệp định đã đạt được trong các cuộc thảo luận về thương mại và môi
trường trong GATT/WTO cơ bản cho thấy:
-

WTO không phải là một tổ chức bảo vệ môi trường, phạm vi thẩm

quyền của tổ chức này chỉ liên quan đến các chính sách về môi trường được giới
hạn bởi các chính sách về thương mại và có thể dẫn đến những ảnh hưởng quan
trọng đối với thương mại;
-

Các thỏa thuận GATT/WTO đã tạo cơ hội cho việc xây dựng và thực

thi những chính sách về bảo vệ môi trường quốc gia nhưng với điều kiện la không
được tao ra sự phân biệt đối xử;
-

Những cơ hội tiếp cận thị trường là yếu tố cần thiết để bảo đảm giúp

các nước đang phát triển có cơ hội thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.

25



×