Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động từ thực tiễn tại các doanh nghiệp trên địa bàn quận long biên, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (817.72 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TỪ
THỰC TIỄN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HUY KHOA

HÀ NỘI – 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của TS. Nguyễn Huy Khoa. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng. Những kết quả nêu trong Luận văn chưa từng được nhà nghiên cứu
khác công bố trong bất kỳ công trình nào trước đây.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Hà Nội, ngày

tháng 12 năm 2019

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Vân Anh


LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành
nhất tới toàn thể gia đình, các thầy cô giáo khoa Luật kinh tế, khoa Sau đại học, các
phòng ban của Ủy ban nhân dân quận Long Biên, bạn bè đồng nghiệp đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin gửi lời tri ân, cảm kích đến thầy giáo, tiến sỹ Nguyễn Huy
Khoa người đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian hoàn
thành luận văn.
Mặc dù đã rất nỗ lực, song do còn hạn chế về kinh nghiệm, kiến thức của bản
thân nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để làm phong phú hơn nữa nội dung về
bảo vệ quyền nhân thân của người lao động tại các doanh nghiệp trên địa bàn quận
Long Biên thành phố Hà Nội.

Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng 12 năm 2019

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Vân Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ BẢO
VỆ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DOANH
NGHIỆP ......................................................................................................................5
1.1. Khái quát chung về quyền nhân thân của người lao động ...................................5
1.1.1. Khái niệm về quyền nhân thân của người lao động ..........................................5
1.1.2. Đặc điểm về quyền nhân thân của người lao động ...........................................7
1.1.3. Phân loại quyền nhân thân của người lao động ................................................7
1.1.4. Ý nghĩa quyền nhân thân của người lao động...................................................8
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền nhân thân của người lao động ..........................12
1.2.1. Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người
lao động .....................................................................................................................12
1.2.2. Hoạt động chăm lo đời sống cho đoàn viên và người lao động .....................14
1.2.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền nhân thân của người lao động ......................16
1.3. Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động .....................................................20
1.3.1. Khái niệm bảo vệ quyền nhân thân của người lao động .................................20
1.3.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền nhân thân của người lao động ...............................20
1.3.3. Các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của người lao động ...........................24
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN

NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................31
2.1. Giới thiệu về quận Long Biên và các doanh nghiệp trên địa bàn quận Long
Biên, thành phố Hà Nội. ............................................................................................31
2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền
nhân thân của người lao động tại các doanh nghiệp trên địa bàn quận Long Biên,
thành phố Hà Nội ......................................................................................................35
2.2.1. Về bảo vệ quyền lao động của người lao động. ..............................................35


2.2.2. Về bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của người lao động. ......................................45
2.2.3.Về bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của người lao động .............................70
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LONG BIÊN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................................................................................74
3.1. Những yêu cầu đặt ra nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân của
người lao động...........................................................................................................74
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền nhân
thân của người lao động ............................................................................................76
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ quyền nhân thân của
người lao động tại các doanh nghiệp trên địa bàn quận Long Biên, Thành phố Hà
Nội .............................................................................................................................82
KẾT LUẬN ...............................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................90


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu

ATVSLĐ

Chú giải
An toàn vệ sinh lao động

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BLLĐ

Bộ luật lao động

BNN

Bệnh nghề nghiệp

DN

Doanh nghiệp

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

KTTT


Kinh tế thị trường

KCN

Khu công nghiệp

LĐTB-XH
LĐLĐ
NLĐ

Lao động thương binh xã hội
Liên đoàn lao động
Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

TNLĐ

Tai nạn lao động

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TW

Trung ương


UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1986 đánh dấu bước chuyển mình của Việt Nam thay đổi từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế và xã hội trong một
thời gian dài sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhiều
thành phần với sự quản lý của Nhà nước. Từ thời điểm 1986 cho đến nay, qua bao
giai đoạn phát triển của xã hội cùng với đó là sự phát triển của hoạt động lập pháp
tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước vẫn luôn coi yếu tố con người và đặc biệt người
lao động là trung tâm của sự phát triển đất nước, xã hội, trong đó việc bảo vệ quyền
lợi của công dân nói chung cũng như của người lao động nói riêng được coi là phát
triển các chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Sự phát triển kinh tế như vũ bão hiện nay cùng đó kéo theo các hệ quả về sự
cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp, câu chuyện về chi phí sản xuất cùng các
vấn đề phát sinh xoay quanh người lao động. Doanh nghiệp luôn tìm cách tận dụng
tối đa sức lao động của của người lao động để tìm kiếm lợi nhuận bất chấp sai phạm
có thể gây ra cho người lao động và tựu chung lại, người lao động vẫn là thế yếu và
chịu nhiều thiệt thòi nhất.
BLLĐ 2012 ra đời, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với người lao động
thông qua các quy định bảo vệ quyền nhân thân cho người lao động. Tuy nhiên từ
năm 2012 đến nay, từ lý thuyết qua các quy phạm pháp luật đến thực tiễn áp dụng

vẫn còn là một khoảng cách vô cùng lớn. Những sai phạm vô số kể của doanh
nghiệp cùng sự xâm phạm nghiêm trọng quyền nhân thân của chủ sử dụng lao động
đối với người lao động vẫn phổ biến và chưa có chiều hướng giảm bớt.
Bởi sự cấp thiết cần có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề quyền nhân thân
của người lao động, do đó tôi đã chọn đề tài: Bảo vệ quyền nhân thân của người lao
động từ thực tiễn tại các doanh nghiệp trên địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội

1


2. Tình hình nghiên cứu
Bảo vệ quyền nhân thân của NLĐ là “mảnh đất màu mỡ” thu hút nhiều sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu về pháp luật. Đặc biệt xuất phát từ vị trí yếu thế
của NLĐ và sự đồng cảm với họ, sự nghiên cứu về vấn đề này luôn mang ý nghĩa
vô cùng đặc biệt. Trước khi thực hiện nghiên cứu này, đã có nhiều bài viết và công
trình nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh bảo vệ quyền nhân thân của người lao
động có thể kể đến như:
Cuốn sách chuyên khảo “Đảm bảo quyền con người trong pháp luật lao động
Việt Nam” do PGS.TS Lê Thị Hoài Thu chủ biên năm 2013.
Luận văn thạc sỹ “Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động dưới góc độ
pháp luật lao động” của Ths. Đỗ Minh Nghĩa do PGS.TS Nguyễn Hữu Chí hướng
dẫn.
Luận văn thạc sỹ “Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động trong pháp luật
lao động ở Việt Nam” của Ths. Nguyễn Thị Hoài Thương do PGS.TS Lê Thị Hoài
Thu hướng dẫn năm 2015.

Luận văn thạc sỹ “ Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động theo
pháp luật lao động Việt Nam, của Ths. Lê Thị Thu Hằng (2015), Trường Đại
học Luật Hà Nội.
Khóa luận tốt nghiệp “Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động theo quy

định của pháp luật lao động Việt Nam” của Nhâm Thúy Lan do Tiến sỹ Nguyễn
Kim Phụng hướng dẫn năm 2004.

Khóa luận tốt nghiệp “Bảo đảm sự an toàn tính mạng, sức khỏe cho
ngƣời lao động là một trong những nhiệm vụ quan trọng của luật lao động”
của tác giả Đỗ Viết Huy năm 2012.
Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội;
Nguyễn Ngọc Việt (2010), Công đoàn - Tổ chức đại diện bảo về quyền và lợi
ích hợp pháp của người lao động trong quan hệ lao động.
2


Những nghiên cứu này trên thực tế đã thực hiện khá lâu trong khi thực tiễn
luôn vận động và thay đổi cùng với đó là những quan hệ pháp luật mới xuất hiện và
cần đến sự nghiên cứu chuyên sâu hơn. Với việc lựa chọn đề tài này, tôi mong
muốn đây sẽ là một phần đóng góp trong sự nghiên cứu về chế định bảo vệ quyền
nhân thân của người lao động ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ hơn các vấn đề lí luận cơ bản về pháp luật bảo vệ quyền nhân
thân của NLĐ Việt Nam, tham khảo qua các kinh nghiệm pháp luật quốc tế cũng như
của một nước trong lĩnh vực này. Qua đó, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực lao động nói chung cũng như vấn đề quyền
nhân thân của NLĐ nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích đề ra, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân
thân của NLĐ trong doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân của
người lao động tại các doanh nghiệp trên địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà

Nội
- Thông qua các phân tích, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của người lao động tại các
doanh nghiệp trên địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và đánh giá các quy định của pháp luật về quyền nhân
thân đối với NLĐ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở các vấn đề về quyền lao động,
quyền được bảo vệ tính mạng sức khỏe, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy
3


tín của NLĐ trong pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn thực hiện tại các doanh
nghiệp trên địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin với phép
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp cụ thể: phương pháp lịch sử, tổng hợp, so sánh, phân tích số liệu,
thống kê... để làm rõ từng lĩnh vực của đề tài.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; nội dung của Luận
văn có kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân
thân của người lao động trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền nhân thân của người lao động tại các
doanh nghiệp trên địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng
cao hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của người lao động tại các doanh nghiệp trên
địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội


4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN NHÂN THÂN
VÀ BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về quyền nhân thân của người lao động
1.1.1. Khái niệm về quyền nhân thân của người lao động
Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ là văn bản chính trị nổi tiếng, văn bản tuyên bố về
nhân quyền được đọc ngày 4/7/1776 từng nói rằng: "Tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp do hầu tước Marquis
Lafayette soạn thảo. Trong bản tuyên ngôn này có tất cả 17 điều khoản, điều 1 và
điều 2 là nổi tiếng nhất và được trích dẫn nhiều nhất: “Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng và quyền lợi. Sự
khác biệt xã hội chỉ có thể được thiết lập trên cơ sở lợi ích chung ”
Bản tuyên ngôn độc lập của nước ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và
đọc trước quốc dân đồng bào tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 và được các nhà
nghiên cứu sử học xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ ba trong lịch sử Việt Nam đã đưa
ra quan điểm về nhân quyền rất rõ ràng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Có thể nhận thấy trong các quyền dân sự của con người, quyền nhân thân là
một trong những quyền cơ bản và quan trọng nhất. Quyền nhân thân được biết đến
là một phần của khái niệm quyền công dân, từ khi sinh ra tất cả mọi người đều có
quyền nhân thân và quyền này chỉ chấm dứt khi người đó chết. Quyền nhân thân
không nằm trong phạm trù tài sản, không thể chuyển nhượng, định đoạt chuyển giao


5


cho người khác. Quyền nhân thân mang tính xã hội sâu sắc, phản ánh sự phát triển
của xã hội, thể hiện thái độ của nhà nước đối với công dân. Một xã hội văn minh,
tiến bộ là xã hội mà trong đó các quyền nhân thân của con người được đảm bảo.
Quyền nhân thân của cá nhân được pháp luật ghi nhận và quy định trong hai
văn bản quy phạm quan trọng - Hiến pháp và Bộ luật dân sự. Cụ thể tại Khoản 1
Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. ”
Khoản 1 Điều 25 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Quyền nhân thân được quy
định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển
giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.” Quy
định này đã nêu lên khái niệm về quyền nhân thân thông qua hai đặc điểm cơ bản
tinh thần và không định giá được. Như vậy, cách hiểu toàn diện nhất về quyền nhân
thân là “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ
thể, không định giả được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”
NLĐ là một cá nhân trong xã hội và đồng thời họ cũng là một công dân, do đó
mà họ có những quyền nhân thân cơ bản của một công dân như: quyền đối với họ
tên, dân tộc, quốc tịch, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín... Tuy
nhiên, khi tham gia vào một quan hệ lao động cụ thể, với một NSDLĐ cụ thể, các
quyền nhân thân của NLĐ sẽ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như điều kiện lao động,
thái độ của chủ sử dụng. Nếu luật dân sự là pháp luật chung xác định cơ bản giá trị
nhân thân thì Luật lao động là chuyên ngành, trên cơ sở luật dân sự xác định quyền
nhân thân NLĐ cùng những quy định đặc thù liên quan đến việc tôn trọng và bảo vệ
quyền nhân thân của NLĐ. Như vậy, luật dân sự chỉ là cơ sở xác định các giá trị
nhân thân của NLĐ. Nói một cách cụ thể: “Quyền nhân thân người lao động là
quyền lao động và các quyền đối với tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy

tín... của người lao động trong quá trình tham gia quan hệ lao động và người sử
dụng lao động.
6


1.1.2. Đặc điểm về quyền nhân thân của người lao động
Quyền nhân thân là quyền gắn liền với bản thân của mỗi con người, gắn liền
với cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân, có liên quan mật thiết tới danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người đó.
Thứ nhất, quyền nhân thân luôn gắn với một cá nhân xác định, không được
phép chuyển giao cho người khác. Mỗi NLĐ là một cá thể riêng biệt, có đời sống
riêng, đặc điểm riêng không thể trộn lẫn với ai và bình đẳng trước nhau.
Thứ hai, quyền nhân thân không xác định được bằng tiền, về cơ bản, chủ thể của
quyền nhân thân chỉ được hưởng lợi ích tinh thần mà không được hưởng lợi ích vật
chất. Những lợi ích vật chất mà chủ thể được hưởng là do giá trị tinh thần mang lại.
Thứ ba, quyền nhân thân được xác lập không phải dựa trên các sự kiện pháp lý
mà chúng được xác lập trực tiếp trên cơ sở những quy định của pháp luật.
Thứ tư, quyền nhân thân là một loại quyền tuyệt đối. Các chủ thể có nghĩa vụ
tôn trọng giá trị nhân thân được bảo vệ. Không ai có quyền xâm phạm đến quyền
nhân thân của người khác dù trong bất kì trường hợp nào.
1.1.3. Phân loại quyền nhân thân của người lao động
Để phân loại quyền nhân của người lao động của thể xét trên nhiều tiêu chí
khác nhau, mỗi tiêu chí lại có những khía cạnh pháp lý và đặc thù riêng. Chúng ta
có thể phân loại quyền nhân thân dựa trên căn cứ phát sinh quyền, chủ thể mang
quyền hay phương thức bảo vệ đối với các quyền. Thông qua các phân loại đó,
chúng ta sẽ hiểu được rõ nét hơn bản chất pháp lý của từng loại quyền nhân thân, từ
đó nhận diện được chính xác các hành vi xâm phạm và đề ra được phương thức bảo
vệ thích hợp nhất. Xét dưới góc độ quyền nhân thân của NLĐ cũng như những căn
cứ trên các quy định của pháp luật lao động thì có thể phân loại quyền nhân thân
của NLĐ thành 3 nhóm chính như sau:

Nhóm thứ nhất là quyền lao động: pháp luật lao động Việt Nam bảo vệ quyền
nhân thân của NLĐ thông qua các quy định về việc làm; các quy định về quyền tự

7


do lao động, lựa chọn việc làm của NLĐ; các quy định về việc đơn phương chấm
dứt hợp đồng của NSDLĐ và sa thải NLĐ; các quy định về xử phạt hành chính đối
với các hành vi vi phạm quy định về việc làm và hợp đồng lao động; quy định về an
toàn lao động, vệ sinh lao động; quy định về chế độ tiền lương hợp lý nhằm bù đắp
hao phí sức lao động, bảo đảm sức khoẻ của NLD.
Nhóm thứ hai là các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân, bao gồm:
quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể. Thân thể của mỗi cá
nhân không phải tài sản, mà thuộc về nhân thân của cá nhân đó. Các quyền liên
quan đến thân thể của NLĐ được bảo vệ một cách giống nhau ở mọi NLĐ (tính
mạng, sức khoẻ, thân thể của mỗi cá nhân đều được bảo vệ như nhau và đều vô giá
mà không phụ thuộc vào giới tính hay địa vị xã hội) và được bảo vệ một cách tuyệt
đối khỏi sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể khác, bất kể chủ thể quyền có yêu cầu hay
không yêu cầu được bảo vệ.
Nhóm thứ ba là quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền lao
động của NLĐ. Trong đó bao gồm các quy định về cấm phân biệt đối xử, NLĐ
được tôn trọng, được đối xử bình đẳng và đúng việc (NLĐ được tham gia công
đoàn; khi đình công NSDLĐ không được vùi dập - trả thù, khi có vi phạm xảy ra
chủ sử dụng lao động cũng phải thực hiện các biện pháp xin lỗi công khai). Nghiêm
cấm mọi hành vi: quấy rối tình dục và ngược đãi người lao động...
1.1.4. Ý nghĩa quyền nhân thân của người lao động
* Đối với người lao động

Pháp luật về bảo vệ người lao động của tổ chức công đoàn theo Luật
Công đoàn năm 2012 và Bộ luật lao động năm 2012.

Pháp luật quy định Công đoàn bảo vệ người lao động trong doanh
nghiệp trong các vấn đề như tham gia giám sát doanh nghiệp trong việc ký kết
hợp đồng lao động cho người lao động; chủ động phối hợp cùng doanh
nghiệp xây dựng thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động, đôn đốc doanh
nghiệp mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động; công đoàn là
8


nơi giải quyết những khúc mắc của người lao động với doanh nghiệp... Đối
với doanh nghiệp, pháp luật quy định công đoàn tham gia hỗ trợ người sử
dụng lao động, chủ doanh nghiệp các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp và
người lao động như tham gia hỗ trợ người sử dụng lao động xây dựng nội quy
lao động, bảng lương, thỏa ước lao động tập thể; khi doanh nghiệp phải thay
đổi cơ cấu hoặc cải tiến công nghệ, công đoàn có thể giúp doanh nghiệp sắp
xếp lao động một cách hợp lý để phát huy tối đa hiệu quả của nguồn lực lao
động, cũng như chấm dứt hợp đồng lao động đối với những truờng hợp không
đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
Không chỉ ở Việt Nam mà ở cả các quốc gia trên thế giới, trong các quan
hệ lao động, NLĐ luôn đứng ở vị trí yếu thế hơn. NSDLĐ luôn muốn có về
mình tối đa nhất những quyền lợi và tận dụng tối đa nhất năng lực của NLĐ và
vắt kiệt “sức lao động” của họ.
Bên cạnh đó, những quyền liên quan đến danh dự, nhân phẩm của NLĐ cũng
thường xuyên không đuợc đảm bảo, ở địa vị người có quyền quản lý, nhiều NSDLĐ
sẵn sàng có những hành vi xâm hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của NLĐ. Đối
với NLĐ nói chung, tìm được việc làm đã là một việc khó khăn, là mong ước của
họ. Nhưng khi tham gia vào một quan hệ lao động cụ thể, họ lại phải đứng trước rất
nhiều sự thiệt thòi để đổi lấy thu nhập. Chính vì vậy, pháp luật đặt ra vấn đề bảo vệ
quyền nhân thân của NLĐ có ý nghĩa hết sức to lớn và thiết thực đối với họ. Khi
nhiệm vụ này được thực hiện tốt, vị thế của NLĐ sẽ nâng cao, đảm bảo cho NLĐ có
thể yên tâm tham gia vào quan hệ lao động và không vì nhu cầu mưu sinh mà phải

mất đi những giá trị cùa một con người.
Quyền nhân thân của NLĐ khi được nhận thức đúng đắn sẽ hạn chế được tư
duy coi sức lao động của NLĐ là tài sản và biến nó thành công cụ để bóc lột. Tham
gia quan hệ lao động, NLĐ luôn mong muốn có được một công việc bền vững, lâu
dài, thu nhập được đảm bảo và điều kiện lao động ngày một tốt hơn. Những mong
muốn chính đáng ấy chỉ có thể được thực hiện khi chủ sử dụng có ý thức tôn trọng

9


các quyền nhân thân của họ. Phần lớn những NLĐ khi tham gia quan hệ lao động
cũng không ý thức được hết những quyền mà đáng ra họ phải được hưởng. Mối
quan tâm hàng đầu của họ là vấn đề thu nhập, tiền công. Những lợi ích trước mắt
trên thực tế đã làm rất nhiều NLĐ tự đánh mất đi những quyền nhân thân cơ bản
nhất của mình. Trong điều kiện như vậy, để cho NLĐ có thể yên tâm làm việc và
phát huy năng lực của mình thì họ phải được đảm bảo cả về đời sống vật chất và đời
sống tinh thần, được hòa nhập vào đời sống cộng đồng. "Sức lao động" mà họ bỏ ra
được thừa nhận.
Việc tôn trọng và đảm bảo quyền nhân thân của NLĐ không chi đơn thuần
đem lại quyền lợi cho NLĐ mà bên cạnh đó đối với NSDLĐ nó cũng có những ý
nghĩa, tác dụng to lớn.
Thứ nhất, khi các giá trị nhân thân của NLĐ được đảm bảo sẽ thúc đẩy họ
hăng say lao động, đem lại lợi ích cho chủ sử dụng lao động. Trong quan hệ lao
động, các yêu tố như tâm lý, tình cảm, lòng tin, sự thoải mái trong công việc có tác
động rất quan trọng đến hiệu quả công việc. Khi NLĐ được đảm bảo tính mạng, sức
khỏe, danh dự nhân phẩm, họ sẽ có cống hiến hết sức mình cho công việc và yên
tâm gắn bó với doanh nghiệp. Bên cạnh tâm lý thoải mái NLĐ sẽ phát huy hết khả
năng sáng tạo của mình làm cho năng suất chất lượng lao động tăng cao, hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp được giữ vững và khi đó lợi ích sẽ thuộc về phía
NSDLĐ.

Thứ hai, việc đảm bảo tốt quyền nhân thân của NLĐ cũng là cách để NSDLĐ
tránh khỏi những chi phí không cần thiết như: chi phí để khắc phục hậu quả tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, chi phí giải quyết các tranh chấp lao động có liên quan,
chi phí đào tạo lại nguồn nhân lực bị mất do việc xâm hại quyền nhân thân. Trên
thực tế, các chi phí này hàng năm không hề nhỏ và đó là một sự lãng phí đối với
doanh nghiệp. Không chỉ lãng phí về mặt tiền của để giải quyết các vấn đề liên
quan, NSDLĐ còn phải dành thời gian, công sức để giải quyết những vấn đề đó.
Chưa tính đến việc nếu nghiêm trọng, NSDLĐ còn có thể gặp phải những rắc rối
khác như bị đình chỉ sản xuất. Điều này sẽ gây ra thiệt hại không hề nhỏ cho
10


NSDLĐ. Như vậy, để tình hình kinh doanh ổn định, hiệu quả cũng như giảm tải các
chi phí không đáng có thì các quyền cơ bản của NLĐ cần được đảm bảo đặc biệt là
quyền nhân thân.
Xét trên môi trường làm việc quốc tế, vấn đề sử dụng nguồn lao động hợp
pháp là nền tảng tư tưởng quan trọng đối với các doanh nghiệp nước ngoài đồng
thời là tiêu chuẩn để họ thiết lập quan hệ kinh tế. Các doanh nghiệp Mỹ cũng
thường đưa ra các tiêu chuẩn lao động trong quan hệ thương mại như sản phẩm
hàng hóa phải được sản xuất ở những doanh nghiệp mà ở đó NLĐ không bị bóc lột
về thời gian, giờ công, được làm việc trong điều kiện an toàn vệ sinh, tôn trọng
danh dự, nhân phẩm và tuyên bố công khai là họ chi tiêu thụ hàng hóa của những
nhà sản xuất nào tuân thủ những tiêu chuẩn đó. Có thể thấy việc đảm bảo quyền
nhân thân của NLĐ sẽ giúp NSDLĐ đáp ứng được điều kiện hội nhập quốc tế khi
mà các nước trên thế giới đều đưa ra các điều kiện hay tiêu chuẩn tương đối khắt
khe về việc bảo vệ quyền nhân thân của NLĐ khi tham gia quan hệ lao động.
* Đối với xã hội
Trong xu thế phát triển và hội nhập hiện nay của các quốc gia trên thế giới,
việc xóa bỏ sự bất bình đẳng, sự bóc lột sức lao động từ phía NSDLĐ đã và đang
trở nên phổ biến. Bảo vệ quyền nhân thân của NLĐ trở thành cách thức góp phần

xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh, nâng tầm vị thế của quốc gia trên trường
quốc tế.
Bên cạnh đó, việc đảm bảo quyền nhân thân của NLĐ còn giúp cho nền kinh
tế của đất nước ổn định và phát triển, thúc đẩy tăng trưởng tổng sản phẩm của toàn
xã hội, nâng cao mức sống của các thành viên trong xã hội được đảm bảo, tăng phúc
lợi xã hội, ổn định kinh tế của đất nước. Khi DN làm ăn không hiệu quả, các tranh
chấp lao động và đình công thường xuyên xảy ra, không chỉ DN bị tổn thất mà thu
nhập của NLĐ cũng bị ảnh hưởng, Nhà nước cũng mất một nguồn kinh phí cũng
như nguồn nhân lực để giải quyết các vấn đề phát sinh. NLĐ cũng là các cá thể
trong xã hội, đóng góp lớn đối với sự phát triển chung của toàn xã hội thông qua

11


việc đóng thuế và lưu thông hàng hóa trong xã hội, họ tham gia vào quan hệ lao
động để đảm bảo cuộc sống cho bản thân cũng như gia đình. Do đó nếu họ gặp bất
ổn trong quá trình sản xuất thì chính đời sống xã hội cũng không được ổn định.
NLĐ là những người trực tiếp làm ra sản phẩm, dịch vụ và năng suất lao động sẽ
phụ thuộc vào chính khả năng làm việc của họ. Khi tính mạng, sức khỏe của NLĐ
được đảm bảo và danh dự, nhân phẩm của NLĐ được tôn trọng sẽ là động lực để
NLĐ làm tốt công việc của mình đồng thời cũng là động lực để xã hội phát triển.
Mâu thuẫn giữa NSDLĐ và NLĐ vốn là một vấn đề mang tính xã hội, có thể
ảnh hưởng đến các phương diện xã hội khác như chính trị, văn hóa và rất nhạy cảm,
đặc biệt trong lĩnh vực liên quan đến các quyền nhân thân. Quyền nhân thân của
NLĐ bị xâm phạm là nguyên nhân dẫn đến các cuộc đình công, tranh chấp. Khi xảy
ra đình công, tranh chấp sẽ gây bất lợi cho NSDLĐ, NLĐ, cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của DN. Bên cạnh đó, nó còn gây tác động xấu đến dư luận xã hội, ảnh
hưởng tới sự phát triển kinh tế và môi trường đầu tư ở Việt Nam. Khi quyền nhân
thân của NLĐ không chọn cũng như cảm thấy yên tâm đầu tư vào một DN mà
thường xuyên xảy ra tranh chấp, xung đột giữa những chủ thể trong chính nội bộ

doanh nghiệp ấy.
Như vậy, đảm bảo quyền nhân thân của NLĐ là một việc làm hết sức cần
thiết. Nó không chỉ vì lợi ích của bất kỳ một cá nhân, một tầng lớp nào mà là để
đảm bảo cho sự công bằng, ổn định và phát triển bền vững của toàn thể cộng đồng
và xã hội.
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền nhân thân của người lao động
1.2.1. Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên,
người lao động
Triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình 2494/CTr-TLĐ ngày
19/12/2018 của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XII về
“Nâng cao hiệu quả việc thực hiện các nhiệm vụ đại diện cho người lao động, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, giai đoạn 2018 - 2023”,

12


LĐLĐ quận Long Biên đã chỉ đạo các công đoàn cơ sở thực hiện công tác chăm lo
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp chính đáng cho đoàn viên và người lao động, chỉ đạo
công đoàn cơ sở (CĐCS) thực hiện tốt Hội nghị cán bộ, công chức; Hội nghị Người
lao động ký kết thỏa ước lao động tập thể, tổ chức đối thoại định kỳ, tập huấn kỹ
năng thương lượng tập thể, đối thoại định kỳ. Bên cạnh đó tổ chức tập huấn công
tác an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ…
Tham gia đóng góp Bộ luật lao động 2012, tham gia xây dựng các chính
sách, pháp luật có liên quan trực tiếp đến đoàn viên và người lao động, tổ chức
Công đoàn.Thực hiện Chương trình “Nâng cao chất lượng thương lượng, ký kết và
thực hiện có hiệu quả thỏa ước lao động tập thể”. Tổ chức tuyên truyền việc thương
lượng, ký kết thoả ước lao động tập thể (TƯLĐTT) theo quy định Bộ Luật Lao động
và Luật công đoàn 2012. Đến nay đã có 152 doanh nghiệp có thoả ước lao động tập thể
đạt 80%. Đã có 132 đơn vị tổ chức đối thoại định kỳ tại nơi làm việc theo Nghị định
149 của Chính phủ. Phối hợp với Đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra, giám sát việc

thực hiện pháp luật lao động, Luật Công đoàn, Luật Bảo hiểm xã hội, kiểm tra công
tác an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ tại 26 doanh nghiệp.
Tổ chức lễ phát động hưởng ứng Tháng hành động về An toàn, vệ sinh lao
động lần thứ III năm 2019. Phối hợp với Hội đồng An toàn, vệ sinh lao động quận
tập huấn công tác an toàn vệ sinh lao động năm 2019 cho trên 500 đ/c là cán bộ lao
động TBXH 14 phường; Giám đốc, chủ doanh nghiệp, chủ tịch công đoàn, các đồng
chí màng lưới ATVSLĐ, cán bộ làm vận hành thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an
toàn lao động của các doanh nghiệp trên địa bàn Quận. Phối hợp đi thăm và tặng
quà 03 công nhân lao động (CNLĐ) bị tại nạn lao động và LĐLĐ quận tổ chức đi
thăm và tặng quà cho 01 CNLĐ bị tai nạn lao động.
UBND - LĐLĐ Quận đã chỉ đạo tổ chức Hội nghị CBCC, kết quả đã có
102/102 đơn vị tổ chức đạt 100%, qua tổ chức Hội nghị CBCC các đơn vị đã tổ
chức đảm bảo theo đúng hướng dẫn Nghị định 04 của Chính phủ. Đối với Hội nghị
người lao động năm 2019 đã có 132/164 doanh nghiệp tổ chức Hội nghị người lao
động đạt 80,49%, qua tổ chức hội nghị Người lao động các đơn vị đều tổ chức đối
thoại đồng thời tháo gỡ những vướng mắc của người lao động ngay tại hội nghị.
13


Phối hợp Ban chỉ đạo Quy chế Dân chủ quận tổ chức Hội nghị tập huấn quy
chế dân chủ và hoạt động Ban Thanh tra nhân dân cho hơn 200 người là Thủ trưởng,
hiệu trưởng, chủ tịch công đoàn, trưởng ban thanh tra nhân dân của các cơ quan, đơn
vị, trường học. Phối hợp với Ban chỉ đạo quy chế dân chủ quận kiểm tra, giám sát
việc thực hiện Nghị định 04/NĐ-CP và Nghị định 149/NĐ-CP của Chính phủ tại 20
cơ quan, đơn vị, trường học, doanh nghiệp.
1.2.2. Hoạt động chăm lo đời sống cho đoàn viên và người lao động
Thực hiện chương trình “Phúc lợi đoàn viên” sau 2 năm triển khai thực hiện
đã có 20 doanh nghiệp ký cam kết ưu đãi giảm từ 5 đến 30%, có trên 11 nghìn lượt
đoàn viên công đoàn sử dụng thẻ ưu đãi của 235 cơ sở đã đem lại ưu đãi cho đoàn
viên trên 500 triệu đồng. Đồng thời LĐLĐ quận tiếp tục triển khai phát hành thẻ ưu

đãi đoàn viên công đoàn đợt 4. Tổ chức ký kết với 02 đơn vị: Công ty TNHH dịch vụ
Linh Trang (giảm 10% về dịch vụ vận tải taxi) và Công ty TNHH AQUALUZ Việt
Nam (giảm giá về chăm sóc dịch vụ làm đẹp giảm từ 30% - 50% cho các gói dịch
vụ). Chỉ đạo các CĐCS tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 7c/NQ-BCH của Ban chấp
hành Tổng LĐLĐ Việt Nam về “Chất lượng bữa ăn ca cho công nhân”; chất lượng bữa
ăn ca đảm bảo cả về lượng và chất dinh dưỡng. Trong thỏa ước lao động tập thể một số
đơn vị đã hỗ trợ ăn ca cho người lao động ít nhất là 20 nghìn/người và cao nhất là 40
nghìn/người, hỗ trợ người lao động bữa ăn tối khi làm ca vào buổi tối.
Thực hiện chương trình “Tết sum vầy” và chương trình “Chuyến xe nghĩa
tình” đưa công nhân lao động có hoàn cảnh khó khăn về quê đón Tết1.
Nhân dịp Tết nguyên đán Kỷ Hợi 2019 và tháng công nhân, tháng an toàn vệ
sinh lao động LĐLĐ quận đã thăm và tặng trên 300 suất quà cho CNVCLĐ có hoàn
cảnh khó khăn, ốm đau dài ngày, hoàn cảnh gia đình khó khăn … trị giá gần 200
triệu đồng2.
LĐLĐ quận Long Biên đã tổ chức 04 chuyến xe đưa hơn 150 CNLĐ tại các đơn vị có
Công đoàn và các đơn vị chưa có Công đoàn có hoàn cảnh khó khăn về quê đón Tết và
phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức 10 chuyến đưa 550 CNVCLĐ về quê đón Tết.
2
LĐLĐ quận đã tặng 191 suất quà trợ cấp. LĐLĐ Thành phố Hà Nội trợ cấp cho 102
CNVCLĐ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Thăm và tặng 18 suất quà trợ cấp cho
1

14


Phối hợp UBND, BHXH quận tổ chức Hội nghị đối thoại pháp luật lao động,
công đoàn, BHXH. Tham gia buổi đối thoại có gần 300 đại biểu, đại diện lãnh đạo
các doanh nghiệp, Hiệu trưởng các trường học, cán bộ công đoàn, người lao động
trên địa bàn quận Long Biên. Tại buổi đối thoại đã có 22 ý kiến đặt vấn đề được
giải đáp với 58 câu hỏi về các lĩnh vực như ký hợp đồng năm với giáo viên, ký


hợp đồng thuê khoán nhân công, hợp đồng với người cao tuổi…, chế độ làm
thêm giờ vào ngày thường và ban đêm, đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc (cho
lao động thử việc, lao động làm tại nhiều đơn vị, lao động đã quá tuổi…), thời
giờ làm việc, thanh toán phép năm, tài chính công đoàn…
Phối hợp với BHXH quận tổ chức 2 buổi tuyên truyền, đối thoại về thực
hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT và trả lời các ý kiến, kiến nghị của cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp, người sử dụng lao động và CNVCLĐ về những khó
khăn, vướng mắc trong thực hiện BHXH, BHYT, BHTN. Đồng thời tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về BHXH, BHYT tới chủ sử dụng lao động, công đoàn, cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên địa
bàn quận.
Tình hình tư tưởng CNVCLĐ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý,
điều hành của nhà nước; hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa
bàn nhìn chung ổn định và có sự phát triển vững chắc, không xảy ra vụ đình công, lãn
công làm mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó cũng có nhiều
doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ tình hình SXKD gặp nhiều khó khăn, một bộ phận
công nhân lao động (CNLĐ) băn khoăn, lo lắng vì thiếu việc làm, thu nhập giảm, đời
sống gặp khó khăn. Thực hiện trách nhiệm của mình, LĐLĐ Quận chỉ đạo các CĐCS
tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục CNVCLĐ, tích cực tham gia quản lý, kiểm
tra, phối hợp với chuyên môn đồng cấp tháo gỡ các khó khăn, chú trọng chăm lo những
CNVCLĐ có hoàn cảnh khó khăn và CNLĐ thuộc các hộ nghèo trên địa bàn quận nhân
dịp Tháng công nhân. Đồng thời đề nghị LĐLĐ Thành phố trợ cấp đặc biệt 01 trường hợp
với mức cao nhất 2.000.000đ, LĐLĐ Quận trợ cấp cho 02 trường hợp CNVCLĐ bị mắc
bệnh hiểm nghèo, 01 trường hợp CNLĐ bị mất do tai nạn giao thông mỗi suất 1.000.000đ.
Nhân “Tháng hành động về ATVSLĐ”, thăm và tặng quà 05 CNLĐ bị tai nạn lao động,
mất sức do tai nạn lao động.

15



CNLĐ có hoàn cảnh khó khăn. Tổ chức thực hiện, với phương châm “Chủ động, đổi
mới, sáng tạo, quyết liệt; hướng các hoạt động về cơ sở, vì việc làm, đời sống của
người lao động, đồng hành vì sự phát triển bền vững của doanh nghiệp”, LĐLĐ Quận
và các CĐCS đã đạt được kết quả toàn diện trên các mặt công tác, trong đó có nhiều
thành tích nổi bật, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Công đoàn quận
Long Biên khóa III
Tổ chức gắn biển, bàn giao sửa chữa nhà “Mái ấm công đoàn” cho đoàn viên
công đoàn Phường Cự Khối trị giá 30 triệu đồng3.
1.2.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền nhân thân của người lao động
Như đã phân tích ở trên, pháp luật Việt Nam thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ
các quyền nhân thân của các cá nhân nói chung và của NLĐ nói riêng qua các quy
định của pháp luật. Quyền nhân thân của NLĐ có ảnh hưởng không nhỏ đời sống
của mỗi cá nhân, mỗi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của NLĐ sẽ ảnh
hưởng sâu sắc và trực tiếp đến đời sống tinh thần của con người bị xâm phạm. Vì
vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của NLĐ trong trường hợp bị xâm phạm có ý
nghĩa rất quan trọng và cần thiết không chỉ đối với mỗi cá nhân NLĐ mà còn đối
với cả Nhà nước và xã hội.
• Luật lao động phải thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước
Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN
- của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân - nông dân và đội ngũ trí thức. Với nhiệm vụ
trọng tâm là đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và phát triển toàn diện cho
mọi công dân và NLĐ, pháp luật lao động hướng tới bảo vệ tốt nhất các quyền nhân
thân của NLĐ. Tinh thần này luôn luôn được quán triệt trong chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước. Mọi hành vi xâm phạm đến các giá trị nhân thân của NLĐ
Công trình có tổng mức đầu tư, sửa chữa trên 60 triệu đồng (trong đó kinh phí từ LĐLĐ
Thành phố hỗ trợ 20 triệu đồng; LĐLĐ quận Long Biên hỗ trợ 5 triệu đồng; Đảng ủy HĐND -UBND và đoàn viên công đoàn phường ủng hộ 7,3 triệu đồng; người thân hỗ trợ,
cho vay và hỗ trợ công 30 triệu đồng).
3


16


đều được coi là trái với quy định của pháp luật và Hiến pháp. Do đó, bảo vệ quyền
nhân thân của NLĐ cũng chính là bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ chế độ pháp quyền
XHCN của nhà nước Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ có nêu rõ: “Nhà nước tạo môi trường và điều kiện cho
mọi lao động có việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện lao động " Tư tưởng của Nhà
nước XHCN trong thời kỳ này cũng coi mục tiêu và động lực của sự phát triển là
"con người, phát huy nhân tố con người, trước hết là người lao động [9]. Tiếp đó,
tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành TW Đảng khóa VIII đã chỉ ra đường lối và chiến lược phát triển trong giai
đoạn tới, phải "chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao
động, phòng chống tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Khẩn
trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực
hiện chính sách bảo hiểm đối với người lao động thất nghiệp".
Trong nhiều văn kiện quan trọng, Đảng và Nhà nước ta khẳng định chủ trương
"phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa", về mặt lý thuyết KTTT định hướng XHCN được xác định với mục tiêu:
"Thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân là
chủ, nhân ái, có văn hoá, kỉ cương, xoá bỏ áp lực, bất công, tạo điều kiện cho mọi
người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc" . Về phân phối trong nền kinh tế nói chung
và trong quan hệ lao động nói riêng phối thúc đẩy tăng cường kinh tế đi đôi với đảm
bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, KTTT tự nó không giải quyết các vấn đề xã hội
một cách tổng thể, không đương nhiên đạt đến tiến bộ xã hội trong lĩnh vực lao
động mà không có sự can thiệp của Nhà nước bằng pháp luật.
Thực tế cho thấy, Việt Nam chưa có kinh nghiệm quản lý KTTT. Hầu hết, NSDLĐ
chưa nhận thức đầy đủ về NLĐ trong chiến lược đầu tư lâu dài. Phần lớn giới NSDLĐ ở

Việt Nam là những người làm ăn nhỏ, vốn ít, chỉ quan tâm đến những cơ hội trước mắt.
Nhiều đơn vị tồn tại là nhờ những khoảng trống của cơ chế quản lý lợi dụng điều kiện
cung cầu mất cân đối, lợi dụng sự không hiểu biết của NLĐ đang tìm việc mà NSDLĐ
17


có những hành vi xâm hại đến quyền nhân thân của NLĐ. Hiện nay, nhận thức của các
chủ thể tham gia vào quan hệ lao động còn thấp. Vì vậy, việc lựa chọn kinh tế thị trường
định hướng XHCN với những chỉ tiêu trên là hướng phát triển phù hợp. Để đạt được
mục tiêu đề ra, Nhà nước bằng pháp luật lao động để bảo vệ NLĐ định hướng XHCN
phải trên cơ sở luật pháp, với tư cách là công cụ của Nhà nước pháp quyền. Các quyền
và lợi ích hợp pháp của NLĐ nói chung và quyền nhân thân của NLĐ nói riêng phải
được pháp luật hóa, đảm bảo thực hiện trên các cơ sở của pháp luật.
• Khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường:
Trong nền KTTT nhiều quan hệ lao động mới được hình thành rất đa dạng và
phức tạp. Khi nhận xét về KTTT, người ta thường nói về tính hai mặt của nó. Đó là
những tác động tích cực không thể phủ nhận đối với sự phát triển kinh tế và các tác
động tiêu cực không thể không có đến đời sống mỗi quốc gia. Mặt tiêu cực này thể
hiện rất rõ trong quan hệ lao động vì bản thân lĩnh vực này vừa chứa đựng các yếu
tố kinh tế, vừa thể hiện các vấn đề xã hội sâu sắc. Mặt khác, sức lao động còn được
coi là một loại hàng hóa đặc biệt, là đối tượng khi tham gia giao kết hợp đồng
NSDLĐ muốn hướng tới và tận dụng tối đa và vắt kiệt sức lao động của NLĐ để
phục vụ cho hoạt động lao động sản xuất. Đây chính là mặt trái của nền KTTT.
Trong lĩnh vực lao động, kinh tế thị trường đã mở ra điều kiện thuận lợi để
phát huy các nguồn lực, tạo nhiều việc làm cho NLĐ đồng thời thúc đẩy năng lực
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Điều đó đã tạo ra một nền kinh tế đa dạng, năng
động, có tốc độ phát triển cao. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu linh hoạt của thị
trường, các nhà kinh doanh (NSDLĐ) thường xuyên phải thay đổi kế hoạch, quy
mô sản xuất. Đặc biệt khi mục đích cao nhất là lợi nhuận, NSDLĐ thường có xu
hướng kéo dài thời gian làm việc, giảm thời giờ nghỉ ngơi, cắt giảm chi phí liên

quan đối với NLĐ. Điều đó không những ảnh hưởng tới sức khỏe, tới khả năng tái
sản xuất sức lao động mà còn ảnh hưởng đến các nhu cầu khác trong đời sống, ảnh
hưởng đến khả năng phát triển toàn diện của NLĐ. Vì vậy, các quy định về quyền
nhân thân của NLĐ đã trở thành một trong những nội dung cơ bản trong luật lao
động ở các quốc gia, để sức lao động được sử dụng hợp lý tránh bị lạm dụng, làm
18


×