Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Pháp luật về phong tỏa tài khoản để thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 155 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ PHONG TỎA TÀI KHOẢN
ĐỂ THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

NGUYỄN VĂN HOÀN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VŨ QUANG

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi và
được sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Quang.
Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong Luận văn này chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn theo quy định và được ghi rõ trong phần tài
liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày ….. tháng 12 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Hoàn



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành của mình đến TS. Vũ Quang, đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn.
Tôi chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa, các Thầy Cô giáo khoa Sau
đại học trường Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả những người thân, bạn bè, đồng nghiệp
của tôi đã quan tâm động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày ….. tháng 12 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Hoàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHONG TỎA TÀI KHOẢN CỦA
NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN TRONG THI HÀNH ÁN KDTM VÀ PHÁP LUẬT
VỀ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN BẰNG BIỆN PHÁP PHONG TỎA TÀI KHOẢN
CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN .........................................................................6
1.1. Những vấn đề lý luận về phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án ..........6
1.1.1. Khái quát về thi hành án và bảo đảm thi hành án dân sự ..................................6
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của bảo đảm thi hành án kinh doanh thương mại
bằng biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án ..............................15
1.1.3. Nội dung và hình thức bảo đảm thi hành bằng biện pháp phong tỏa tài khoản
của người phải thi hành án kinh doanh, thương mại .................................................19
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật bảo đảm thi hành án bằng biện pháp phong
tỏa tài khoản của người phải thi hành án ..................................................................24
1.2.1. Khái niệm và nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về bảo đảm thi hành án dân

sự bằng biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án .........................24
1.2.2. Cấu trúc pháp luật về bảo đảm thi hành án dân sự bằng biện pháp phong tỏa tài
khoản của người phải thi hành án .............................................................................25
Chương 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHONG TỎA TÀI KHOẢN CỦA
NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN KDTM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BẮC GIANG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............................................28
2.1. Thực trạng pháp luật về phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án trong thi
hành án ......................................................................................................................28
2.1.1. Thực trạng quy định về chủ thể và quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong quá
trình phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án ...............................................28
2.1.2. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp phong tỏa tài
khoản của người phải thi hành án .............................................................................33
2.1.3. Thực trạng quy định về xử lý vi phạm và giải quyết các tranh chấp phát sinh


trong quá trình thực hiện biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành...50
2.2. Thực tiễn thực hiện biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án
trong thi hành án kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ....................53
2.2.1. Những kết quả đạt được ..................................................................................53
2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc và hạn chế, bất cập ..........................................55
2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản
của người phải thi hành án trong thi hành án kinh doanh thương mại ở Việt Nam hiện
nay .............................................................................................................................64
2.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .......................................................................64
2.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ...........................................65
2.3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp phong tỏa
tài khoản của người phải thi hành án ........................................................................66
KẾT LUẬN ...............................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................71



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thực tiễn đời sống pháp lý, các bản án, quyết định xét xử của Toà án là
cơ sở pháp lý để các cơ quan thi hành án dân sự tổ chức việc thi hành án theo quy định
của pháp luật. Việc thi hành án kinh doanh thương mại ở mỗi quốc gia tuy có sự khác
nhau về quá trình thực hiện nhưng đều có một điểm chung là rất cần có sự tự giác,
thiện chí hợp tác của các bên liên quan trong quá trình thi hành án và trong trường
hợp các bên không tự giác thực hiện thì Nhà nước buộc phải áp dụng các biện pháp
bảo đảm thi hành án. Một trong những biện pháp đó chính là phong tỏa tài khoản của
người phải thi hành án tại các tổ chức tín dụng để đảm bảo việc thi hành án.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc áp dụng biện pháp này trong công tác
bảo đảm thi hành án kinh doanh thương mại, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật để quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành án, trong đó có
biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án tại các tổ chức tín dụng và
kho bạc nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong thời gian qua, việc bảo đảm thi
hành án kinh doanh thương mại nói chung và việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài
khoản của người phải thi hành án tại tổ chức tín dụng và kho bạc nhà nước nói riêng
vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập cần được nghiên cứu, tìm hiểu đế tìm
hướng giải quyết.
Đây chính là cơ sở thực tiễn để học viên lựa chọn vấn đề: “ Pháp luật về
phong tỏa tài khoản để thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh
Bắc Giang” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ cho mình. Bằng việc lựa chọn triển
khai nghiên cứu đề tài này, học viên mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc
nhận diện thực trạng áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành
án kinh doanh thương mại tại các tổ chức tín dụng và kho bạc nhà nước theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, trên cơ sở đó bước đầu
đưa ra các đề xuất về giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc phong tỏa tài khoản
1



để bảo đảm THAKDTM ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do tính chất quan trọng của thi hành án dân sự nên một số năm gần đây có
nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Một cách khái quát, có thể kể đến một số
công trình tiêu biểu đã công bố như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế
định Thừa phát lại", do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở Tư
pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện;
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành
án” do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện;
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh
thương mại, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Công Long;
- Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác
giả Nguyễn Thanh Thủy;
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về “Xã hội hóa thi hành
án dân sự ở Việt Nam”;
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Quang Thái về “Đổi mới tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam”;
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn về “Đổi mới thủ tục thi
hành án dân sự ở Việt Nam”;
Bên cạnh đó, còn một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành
như Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật
cũng có những nghiên cứu tương đối chuyên sâu về vấn đề này. Có thể nhận thấy các
đề tài đã công bố ít nhiều có liên quan đến vấn đề phong tỏa tài khoản tại ngân hàng
nhằm đảm bảo thi hành án dân sự nói chung trong đó có thi hành án kinh doanh
thương mại, nhưng chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo bằng một công trình
2



nghiên cứu độc lập ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học. Chính vì vậy, có thể cho rằng
việc học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài này ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học là việc
làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đáp ứng được các yêu cầu về tính mới đối với luận
văn thạc sĩ luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn đưa
ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc phong tỏa tài khoản tại ngân hàng,
kho bạc, tổ chức tín dụng vì biện pháp phong tỏa tài khoản có vai trò khá quan trọng
trong công tác thi hành án kinh doanh thương mại cũng như trong thực tiễn, đặc biệt
có hiệu quả tối ưu trong vụ việc liên quan tới nghĩa vụ trả tiền. Để việc phong tỏa phát
huy tác dụng tốt hơn nữa trong hiện tại và tương lai ta cần phải nghiên cứu thấu đáo,
toàn diện về phong tỏa tài khoản cũng như quy định của pháp luật về vấn đề phong
tỏa tài khoản tại ngân hàng, kho bạc, tổ chức tín dụng để cưỡng chế thi hành án kinh
doanh thương mại.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về việc phong
tỏa tài khoản tại ngân hàng để đảm bảo thi hành án kinh doanh thương mại; đánh giá
đúng thực trạng về quy định về phong tỏa tài khoản tại ngân hàng cũng như thực tiễn
thực hiện các quy định về phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án tại ngân
hàng để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc phong tỏa tài
khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc nhà nước để bảo đảm thi
hành án kinh doanh thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là các quan điểm, lý thuyết về bảo
đảm thi hành án trong lĩnh vực kinh doanh thương mại bằng biện pháp phong tỏa tài
khoản của người phải thi hành án; các quy định pháp luật về phong tỏa tài khoản của
người phải thi hành án kinh doanh thương mại và thực tiễn thực hiện các quy định này
ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn tập trung vào việc phân tích, làm rõ
3



các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về bảo đảm thi hành án dân sự bằng biện pháp
phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc nhà nước. Luận
văn không chủ trương nghiên cứu về bảo đảm thi hành án dân sự bằng các biện pháp
khác ngoài biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án, đồng thời cũng
không nghiên cứu về các quy định pháp luật ngân hàng liên quan đến tài khoản tại
ngân hàng, kho bạc nhà nước. Về phương diện pháp lý chỉ có Luật thi hành án dân sự
nói chung trong đó có thi hành án trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tác giả xác
định phạm vi, đối tương của luận văn là thi hành án trong lĩnh vực kinh doanh, thương
mại.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận là phép duy vật biện chứng của học thuyết Mác Lê nin, luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu có tính phổ biến
trong khoa học xã hội như: phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa được sử
dụng để giải quyết các vấn đề lý luận đặt ra của đề tài; phương pháp tiếp cận lịch sử;
phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp thống kê, khảo sát...được sử dụng để
giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra của đề tài luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về phương diện lý luận, những kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn sẽ góp
phần hoàn thiện hơn hệ thống lý luận về bảo đảm thi hành án kinh doanh thương mại
bằng biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc
nhà nước, trên cơ sở đó góp phần đưa ra các nhận xét, đánh giá về mức độ hoàn thiện
quy định của pháp luật về bảo đảm thi hành án kinh doanh thương mại bằng biện pháp
phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc nhà nước.
Về phương diện thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn sẽ
góp phần nhận diện đầy đủ, khách quan hơn về thực trạng quy định pháp luật liên
quan đến bảo đảm thi hành án dân sự nói chung bằng biện pháp phong tỏa tài khoản
tại ngân hàng, kho bạc nhà nước của người phải thi hành án. Đặc biệt, kết quả nghiên
cứu của luận văn sẽ giúp đánh giá được thực tiễn áp dụng biện pháp phong tỏa tài
4



khoản của người phải thi hành án trong quá trình tổ chức thi hành án trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang. Từ đó, tạo cơ sở thực tiễn để đề xuất các giải pháp hoàn thiện khung pháp
lý cho việc bảo đảm thi hành án dân sự nói chung bằng biện pháp phong tỏa tài khoản
của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận
văn gồm hai chương như sau:
Chương 1 : Những vấn đề lý luận về phong tỏa tài khoản của người phải thi
hành án trong thi hành án kinh doanh, thương mại và pháp luật về bảo đảm thi hành
án bằng biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về phong tỏa tài khoản của người phải thi
hành án trong thi hành án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thực hiện trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHONG TỎA TÀI
KHOẢN CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN TRONG
THI HÀNH ÁN KDTM VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
THI HÀNH ÁN BẰNG BIỆN PHÁP PHONG TỎA TÀI
KHOẢN CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN
1.1. Những vấn đề lý luận về phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án
Như đã xác định ở phần phạm vi nghiên cứu, về phương diện pháp luật thực
định chỉ có Luật Thi hành án Dân sự. Vấn đề thi hành án kinh doanh thương mại cũng
chỉ là một dạng của thi hành án dân sự, vì vậy về mặt lý thuyết cũng như pháp luật
thực định chỉ có khái niệm chung thi hành án dân sự. Trong luận văn, tác giả sử dụng
khái niệm chung thi hành án dân sự.

1.1.1. Khái quát về thi hành án và bảo đảm thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Trong khoa học pháp lý, có hai quan điểm cơ bản về THADS, cụ thể là:
Theo quan điểm thứ nhất, thi hành án là một giai đoạn của tố tụng vì có xét xử
thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của công tác xét xử. Xét xử và thi
hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự. Quan điểm
này thừa nhận không phải mọi hoạt động trong quá trình thi hành án và quyết định
của tòa án đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật tố tụng nhưng lại cho rằng thi
hành án thực chất là hoạt động tố tụng của tòa án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền nhằm bảo đảm cho bản án và quyết định của tòa án được thi hành một cách
chính xác, kịp thời.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng thi hành án là dạng hoạt động của cơ quan hành
6


chính nhà nước. Theo quan điểm này, tố tụng là quá trình tiến hành giải quyết các vụ
án theo quy định của pháp luật; quá trình này trải qua nhiều giai đoạn nhưng các giai
đoạn có liên quan mật thiết với nhau trong thể thống nhất và xét xử là giai đoạn cuối
cùng của quá trình tố tụng cho nên bản án, quyết định của toà án là kết quả cuối cùng
đánh dấu sự kết thúc của quá trình tố tụng. Quan điểm này được thừa nhận rộng rãi,
bởi lẽ: Thi hành án có mục đích khác với mục đích của tố tụng. Điều này thể hiện ở
chỗ, mục đích của tố tụng là xác định các chứng cứ để khôi phục lại trạng thái ban đầu
của sự việc. Nói cách khác, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn
ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng các quy định của pháp
luật. Với mục đích đó, toàn bộ quá trình tố tụng diễn ra theo quy trình hết sức chặt chẽ
và phải bảo đảm các nguyên tắc như bình đẳng, công khai, dân chủ, tôn trọng quyền
và lợi ích của người tham gia tố tụng... và khi có phán quyết của toà án thì quá trình tố
tụng kết thúc. Trong khi đó, thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm
thực hiện các bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, có thể
nói một cách hình ảnh rằng, tố tụng là quá trình đi tìm chân lí để áp dụng công lí (pháp

luật); còn thi hành án là quá trình thực thi chân lí bằng công lí. Ở đây chân lí đã rõ, có
tội hay vô tội, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng, thi hành án chỉ nhằm thực hiện
các bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Quá trình này có thể do
các chủ thể bị thi hành án tự giác thi hành hoặc do các cơ quan có thẩm quyền (không
phải chỉ có tòa án) buộc các chủ thể đó phải thi hành. Tuy nhiên, THADS cũng không
đơn giản là hoạt động của cơ quan hành chính. Thi hành án là giai đoạn kế tiếp của
giai đoạn xét xử (tuy không phải là giai đoạn tiếp theo), là hoạt động nối liền giữa
hoạt động tư pháp và hoạt động hành chính. Với tính chất là một hoạt động chấp
hành, căn cứ để THADS là các bản án, quyết định của Tòa án. Trong quá trình
THADS, cơ quan THADS và các bên có liên quan không chỉ áp dụng các quy định
của pháp luật về hành chính - tư pháp. Bên cạnh những quan hệ pháp luật phát sinh
trong quá trình thi hành án không do luật tố tụng điều chỉnh như: Kê biên tài sản, hoãn
thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án... thì thi hành án còn có những quan hệ pháp luật
tố tụng phát sinh do Luật tố tụng điều chỉnh và chi phối. Như vậy, ta có thể hiểu rằng
7


THADS là hoạt động có định hướng của Nhà nước, được thực hiện bởi các chủ thể
do pháp luật quy định, nhằm mục đích thực hiện trên thực tế các quyết định dân sự có
hiệu lực thi hành bằng cách áp dụng các biện pháp tác động phù hợp với pháp luật và
tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
1.1.1.2. Khái niệm bảo đảm thi hành án
Theo từ điển Tiếng Việt, “bảo đảm” là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ
gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết. Như vậy, có thể hiểu bảo đảm thi hành
án là làm cho quá trình thi hành án được thực hiện một cách chắc chắn hơn, đạt kết
quả cao hơn. Từ đó, ta có thể khái quát thêm về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
là biện pháp pháp lý được chấp hành viên áp dụng theo một trình tự, thủ tục luật định
trong quá trình tổ chức thực hiện việc thi hành án, đặt tài sản của người phải thi hành
án trong tình trạng bị hạn chế hoặc tạm thời bị cấm sử dụng, định đoạt, chuyển dịch,
thay đổi hiện trạng nhằm bảo toàn điều kiện thi hành án, ngăn chặn người phải thi

hành án thực hiện tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng về tài sản trốn tránh việc thi
hành án, làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong
trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.
Có thể nhận thấy, các biện pháp bảo đảm thi hành án giữ vai trò rất quan trọng,
hỗ trợ đắc lực quá trình tổ chức thi hành án, góp phần bảo vệ các quyền và nghĩa vụ
dân sự được ghi nhận trong bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 (LTHADS 2014) đã dành hẳn Mục I
Chương IV, bao gồm các điều: từ Điều 66 đến Điều 69 để quy định về các biện pháp
bảo đảm THADS. Đây là một chế định hoàn toàn mới trong pháp luật về THADS ở
nước ta.
Về lý thuyết, biện pháp bảo đảm THADS có các đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, đối tượng được sử dụng để bảo đảm THADS là tài sản, tiền trên tài
khoản ở ngân hàng, kho bạc nhà nước của người phải thi hành án. Để việc thi hành án
được thuận lợi, biện pháp bảo đảm thi hành án được Chấp hành viên áp dụng đối với
đối tượng là các tài sản, tài khoản được cho là của người phải thi hành án. Tài sản đó
8


có thể đang do người phải thi hành án hoặc do người khác chiếm giữ. [5, tr.20]
Thứ hai, biện pháp bảo đảm THADS được áp dụng linh hoạt, tại nhiều thời
điểm, nhiều địa điểm khác nhau trong quá trình thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu
tán, hủy hoại, trốn tránh việc thi hành án. Biện pháp bảo đảm THADS có thể được áp
dụng ngay tại thời điểm ra quyết định thi hành án và trong thời hạn tự nguyện thi hành
án và cũng có thể được áp dụng tại thời điểm trước hoặc trong quá trình cưỡng chế thi
hành án nếu xét thấy cần phải ngăn chặn ngay hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc
trốn tránh việc thi hành án của đương sự. Biện pháp bảo đảm THADS cũng có thể
được Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới. [5,
tr.21]
Thứ ba, biện pháp bảo đảm THADS được thực hiện với trình tự, thủ tục linh
hoạt, gọn nhẹ, ít tốn kém, có thời gian áp dụng ngắn, có tác dụng thúc đẩy nhanh việc

thi hành án: Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm THADS được thực hiện một cách
khá linh hoạt, xuất phát từ yêu cầu của người được thi hành án hoặc do Chấp hành
viên chủ động áp dụng trong trường hợp cần thiết. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm
chỉ nhằm để ngăn chặn hành vi tẩu tán, thay đổi hiện trạng, chuyển dịch hoặc hủy
hoại tài sản của người phải thi hành án mà chưa cần phải huy động lực lượng để thực
hiện việc cưỡng chế nên thời gian thực hiện nhanh gọn, ít tốn kém kinh phí. [5, tr.21]
Thứ tư, biện pháp bảo đảm THADS khi được áp dụng chưa làm thay đổi,
chuyển dịch về quyền sở hữu, sử dụng tài sản của chủ sở hữu, chủ sử dụng. Với mục
đích ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện hành vi tẩu tán, thay đổi hiện trạng
hoặc hủy hoại tài sản, nhằm bảo toàn tài sản đó, đảm bảo điều kiện thi hành án, biện
pháp bảo đảm THADS chưa làm mất đi quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của chủ
sở hữu, chủ sử dụng mà mới chỉ làm hạn chế quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản đó
của chủ sở hữu, chủ sử dụng tài sản. [5, tr 22]
Thứ năm, khi áp dụng biện pháp bảo đảm THADS, Chấp hành viên không bắt
buộc phải thực hiện việc xác minh và thông báo trước cho đương sự. Để đảm bảo tính
nhanh chóng, kịp thời, linh hoạt, nhằm ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản,
9


trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên không cần thực hiện việc xác minh và
thông báo trước cho đương sự biết. Tùy theo từng loại tài sản mà Chấp hành viên sẽ
ban hành quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm THADS tương ứng. [5,tr.22]
Thứ sáu, biện pháp bảo đảm THADS có thể được Chấp hành viên tự mình ra
quyết định áp dụng hoặc theo yêu cầu của đương sự và người yêu cầu phải chịu trách
nhiệm về việc áp dụng: Trong quá trình tổ chức thực hiện việc thi hành án, Chấp hành
viên có quyền tự mình áp dụng biện pháp bảo đảm THADS hoặc ra quyết định áp
dụng theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự. Trường hợp đương sự yêu cầu áp dụng
biện pháp bảo đảm THADS không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện
pháp bảo đảm THADS hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường. Trường hợp Chấp
hành viên tự mình áp dụng biện pháp bảo đảm THADS không đúng hoặc Chấp hành

viên ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm THADS vượt quá, không đúng theo
yêu cầu của đương sự mà gây ra thiệt hại thì Chấp hành viên có trách nhiệm phải bồi
thường. [5, tr.23]
Thứ bảy, việc áp dụng biện pháp bảo đảm THADS được thể hiện thông qua
việc ban hành quyết định của Chấp hành viên: Chỉ Chấp hành viên mới có quyền
được áp dụng biện pháp bảo đảm THADS. Ngoài Chấp hành viên thì các chủ thể khác
trong Cơ quan THADS không có quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp này. Mặt
khác, việc áp dụng biện pháp bảo đảm THADS chỉ có hiệu lực pháp lý khi được Chấp
hành viên quyết định dưới hình thức văn bản quyết định. [5, tr 23]
Thứ tám, khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm THADS
được giải quyết một lần và có hiệu lực thi hành. Quyết định áp dụng biện pháp bảo
đảm THADS có tác dụng làm hạn chế quyền sở hữu, sử dụng tài sản mà không có tính
chất làm thay đổi, chuyển dịch về quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản đó. Vì vậy,
khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm THADS chỉ được xem xét,
giải quyết một lần và có hiệu lực thi hành. [5, tr.24]
1.1.1.3. Các biện pháp đảm bảo thi hành án
Về bản chất, biện pháp bảo đảm THADS được ví như là biện pháp khẩn cấp
10


tạm thời của hoạt động THADS. Theo đó, biện pháp bảo đảm THADS giữ vai trò hỗ
trợ cho việc thi hành các bản án, quyết định nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài
sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, đảm bảo hiệu lực thi hành của các bản án, quyết
định, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Tùy từng trường hợp cụ thể mà biện pháp bảo đảm THADS tương ứng
sẽ được Chấp hành viên áp dụng để tổ chức việc thi hành án.
Xuất phát từ định hướng về mục tiêu, bản chất, đặc điểm của biện pháp bảo
đảm thi hành án, để đảm bảo hiệu quả của việc áp dụng biện pháp này, pháp luật phải
quy định tất cả các nội dung liên quan đến biện pháp bảo đảm THADS. Các nội dung
này bao gồm: Các biện pháp bảo đảm THADS được áp dụng, người có quyền yêu cầu

và người có thẩm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng, về các biện pháp bảo đảm THADS,
theo quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật thi hành án dân sự 2014 bao gồm: Phong tỏa
tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự và tạm dừng việc đăng ký, chuyển
dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản. Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu
cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm
ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện
pháp bảo đảm thi hành án, Chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự.
Các biện pháp này bao gồm:
Thứ nhất, phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho
bạc nhà nước để đảm bảo thi hành án.
Trong pháp luật thực định Việt Nam hiện nay, biện pháp phong tỏa tài khoản
đã được nhà làm luật quy định tại Điều 67 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung
năm 2014), theo đó Chấp hành viên được áp dụng trong trường hợp người phải thi
hành án phải thi hành nghĩa vụ trả tiền và họ có tiền gửi trong tài khoản tại các tổ chức
tín dụng. Biện pháp phong tỏa tài khoản nhằm tác động đến tài khoản của người phải
thi hành án, thông qua đó kiểm soát, ngăn chặn được hành vi tẩu tán tiền trong tài
khoản của đương sự nhằm đảm bảo việc thi hành án được thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người được thi hành án. Việc phong toả tài khoản, tài sản ở nơi gửi
11


giữ được thực hiện trong trường hợp người phải thi hành án có tài khoản, tài sản gửi
giữ. Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ phải xác định rõ số tiền, tài
sản bị phong tỏa. Chấp hành viên phải giao quyết định phong toả cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án. Trường hợp
cần phong tỏa ngay tài khoản, tài sản của người phải thi hành án ở nơi gửi giữ mà
chưa ban hành quyết định phong tỏa thì Chấp hành viên lập biên bản yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án phong tỏa
tài khoản, tài sản đó. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên
phải ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản của người phải thi hành án. Cơ quan, tổ

chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản phải thực, hiện ngay yêu cầu của Chấp
hành viên về phong toả tài khoản, tài sản. Biên bản, quyết định phong tỏa tài khoản,
tài sản trong trường hợp này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định phong toả tài khoản, tài sản ở
nơi gửi giữ, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc ra quyết định
chấm dứt việc phong tỏa.
Thứ hai, tạm giữ tài sản, giấy tờ của người phải thi hành án để bảo đảm việc thi
hành án.
Giống như biện pháp phong tỏa tài khoản, biện pháp tạm giữ giấy tờ, tài sản
của đương sự cũng được nhà làm luật ghi nhận tại Điều 68 Luật Thi hành án dân sự
(sửa đổi, bổ sung năm 2014). Tạm giữ tài sản của đương sự là biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự được tiến hành trên các động sản của người phải thi hành án, đặt
những động sản này trong tình trạng bị hạn chế quyền sử dụng, định đoạt nhằm ngăn
chặn việc người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản để trốn tránh việc thi hành
án. Ngoài ra, biện pháp tạm giữ tài sản có thể được áp dụng trong trường hợp người
phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ trả vật. Tạm giữ giấy tờ của đương sự là biện
pháp bảo đảm thi hành án dân sự được tiến hành trên các động sản phải đăng ký
quyền sở hữu, giấy tờ có giá hoặc bất động sản của người phải thi hành án. Việc áp
12


dụng biện pháp tạm giữ giấy tờ của đương sự là tiền đề, cơ sở cho việc áp dụng biện
pháp cưỡng chế như: thu giữ giấy tờ có giá; kê biện quyền sở hữu trí tuệ; kê biên
phương tiện giao thông... Cụ thể là: Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành
án có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà đương sự, tổ
chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có
trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên trong việc tạm
giữ tài sản, giấy tờ. Quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải xác định rõ loại tài sản,
giấy tờ bị tạm giữ. Chấp hành viên phải giao quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ cho

đương sự hoặc tổ chức, cá nhân đang quản lý, sử dụng. Trường hợp cần tạm giữ ngay
tài sản, giấy tờ mà chưa ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ thì Chấp hành
viên yêu cầu giao tài sản, giấy tờ và lập biên bản về việc tạm giữ. Trong thời hạn 24
giờ, kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ban hành quyết định tạm giữ tài sản,
giấy tờ. Biên bản, quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải được gửi ngay cho Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Khi tạm giữ tài sản, giấy tờ phải lập biên bản có chữ ký của Chấp hành viên và
người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ; trường hợp người đang quản lý, sử dụng
tài sản, giấy tờ không ký thì phải có chữ ký của người làm chứng. Biên bản tạm giữ tài
sản, giấy tờ phải được giao cho người quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ.
Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung
cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo
cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác
định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ. Trường hợp cần thiết,
Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền
xác định người có quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ tạm giữ
thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải ra
quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định; trường hợp có căn cứ xác
định tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi
13


hành án hoặc thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án nhưng đã thực
hiện xong nghĩa vụ của mình thì Chấp hành viên phải ra quyết định trả lại tài sản, giấy
tờ cho người có quyền sở hữu, sử dụng.
Thứ ba, biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng và
thay đổi hiện trạng tài sản.
Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản
được quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. Tạm

dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án
là biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được áp dụng đối với các động sản phải đăng
ký quyền sở hữu hoặc bất động sản của người phải thi hành án nhằm ngăn chặn hoặc
tạm dừng các hành vi của người phải thi hành án như chuyển quyền sở hữu, sử dụng,
tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự này là tiền đề cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án; cưỡng chế trả vật, chuyển
quyền sử dụng đất. Trường hợp cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn
tránh việc thi hành án, Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án, tài sản
chung của người phải thi hành án với người khác. Quyết định tạm dừng việc đăng ký,
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản phải được gửi ngay cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu,
sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đó. Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh
quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản.
Trường hợp cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ
quan có thẩm quyền xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết
tranh chấp tài sản; yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản theo quy định
của pháp luật.
14


Tóm lại, có thể cho rằng việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản để bảo
đảm thi hành án dân sự có vai trò rất quan trọng đối với công tác tổ chức thi hành các
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của bảo đảm thi hành án kinh doanh thương
mại bằng biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án

1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm thi hành bằng biện pháp phong tỏa tài
khoản của người phải thi hành án
Biện pháp phong tỏa tài khoản áp dụng trong trường hợp người phải thi hành
án phải thi hành khoản nghĩa vụ trả tiền và các thông tin về điều kiện thi hành án cho
thấy người đó đang có tiền trong tài khoản tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng, tài
chính khác. Việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản nhằm ngăn chặn người phải
thi hành án thực hiện việc rút toàn bộ tiền hay một khoản tiền trong tài khoản làm cho
số tiền của họ còn lại trong tài khoản nhỏ hơn nghĩa vụ mà họ phải thi hành án. Theo
đó, mọi giao dịch đầu ra tài khoản của chủ tài khoản sẽ không thực hiện được hoặc bị
hạn chế thực hiện. Tuy nhiên, cần hiểu đúng về biện pháp này là không ngăn chặn đối
với các dòng tiền chuyển vào tài khoản mà chỉ ngăn chặn đối với giao dịch đầu ra
tương ứng với nghĩa vụ thi hành án của đương sự chứ không phải là ngăn chặn, cấm
giao dịch đối với toàn bộ tiền trong tài khoản.
Về mặt bản chất, phong tỏa tài khoản là biện pháp nhằm ngăn chặn việc người
có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án
nhanh chóng, hiệu quả. Trước đây, theo quy định tại Điều 67 Luật Thi hành án dân sự
năm 2008 và Điều 11 Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 13/7/2008 của Chính phủ
quy định biện pháp bảo đảm là phong tỏa tài khoản mà không quy định biện pháp
phong tỏa tài sản tại nơi gửi giữ. Theo đó, phong tỏa tài khoản là một biện pháp làm
cho mọi hoạt động rút tiền ra từ một tài khoản nhất định bị hạn chế và bị kiếm soát;
đối tượng bị áp dụng biện pháp phong toả tài khoản là người phải thi hành án có tài
khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước.
Thực tế hoạt động thi hành án dân sự trong thời gian qua cho thấy nhiều trường
15


hợp người phải thi hành án có tài sản không phải là tiền mà còn là các loại tài sản như
kim khí quý, đá quý... đang gửi người khác giữ (có thể là ngân hàng, các tổ chức tín
dụng hoặc người thứ ba khác...), nhưng Luật thi hành án dân sự 2014 không quy định
Chấp hành viên được quyền áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa đối với loại tài sản

này dẫn đến người phải thi hành án dễ dàng tẩu tán, trốn tránh nghĩa vụ. Do đó, Luật
sửa đổi, bổ sung đã bổ sung biện pháp bảo đảm “phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ” vào
Điều 67 và quy định cách thức thực hiện tương tự như biện pháp phong tỏa tài khoản,
nhằm tạo điều kiện tốt hơn để bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án. Đồng
thời, bổ sung đối tượng “cá nhân” đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi
hành án được nhận và phải thực hiện quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm.
Luật thi hành án dân sự ghi nhận thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp
bảo đảm thi hành án trong đó có biện pháp phong tỏa tài khoản đối với người có nghĩa
vụ thi hành án tại khoản 5 Điều 20; Điều 66 Luật thi hành án dân sự năm 2014 quy
định rất rõ:“Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của
đương sự áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy
hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án,
Chấp hành viên không phải thông báo cho đương sự... ” [12, tr 10].
Chấp hành viên là người duy nhất có quyền hạn quyết định áp dụng biện pháp
phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án (tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, Kho
bạc nhà nước...) để sau đó cưỡng chế thi hành án dân sự, nhưng cần phải hội tụ đủ căn
cứ sau đây: Sự phân công vụ việc cho Chấp hành viên tổ chức thi hành của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự; kết quả xác minh hoặc thông tin về điều kiện, về
tài khoản của người phải thi hành án từ người được thi hành án hoặc từ người có
quyền lợi liên quan, nhờ đó có căn cứ xác đáng tránh được khiếu kiện sau này về việc
phong tỏa tài khoản, khi áp dụng thì buộc mọi người tuyệt đối tuân thủ và chấp hành
một cách nghiêm túc.
Như vậy, khi tiến hành việc phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, kho bạc, tổ
chức tín dụng thì Chấp hành viên chỉ thực hiện những gì pháp luật cho phép và phải
16


tuân theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp 1uật; phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hoạt động phong tỏa tài khoản của mình thực hiện. Ngoài ra, nếu là
thủ trưởng hay phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cũng bắt buộc phải là Chấp

hành viên và khi tổ chức thi hành án vụ việc cụ thể phải thực hiện đúng nhiệm vụ
quyền hạn của Chấp hành viên theo quy định tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự
2014. Vì vậy, trong quá trình tác nghiệp về phong tỏa tài khoản cũng như khấu trừ
tiền trong tài khoản của người phải thi hành án không ai khác chỉ có Chấp hành viên
mới có thẩm quyền ra quyết định phong tỏa hoặc khấu trừ tiền trong tài khoản của
người có nghĩa vụ thi hành án trong vụ việc thi hành án cụ thể.
1.1.2.2. Vai trò của bảo đảm thi hành án kinh doanh,thương mại bằng biện pháp
phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án
Xét trên bình diện lý thuyết, việc bảo đảm thi hành án dân sự bằng biện pháp
phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc nhà nước có
những vai trò cơ bản sau đây:
Việc bảo đảm thi hành án dân sự bằng biện pháp phong tỏa tài khoản của
người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc nhà nước có ý nghĩa sử dụng quyền lực
nhà nước bảo đảm tính hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án nhằm ổn định chính trị
và trật tự xã hội. Điều này đã được ghi nhận trong các quy định của pháp luật, theo đó:
“Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải bảo đảm bí mật thông tin
liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng tại tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài
sản gửi, các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng”, từ
việc đảm bảo được lợi ích của người được thi hành án nên củng cố được niềm tin
pháp luật của người dân vì nếu trong tất cả các trường hợp không được biết thông tin
của khách hàng thì sẽ tạo tâm lý e ngại của mọi người dân vào pháp luật. Luật ghi
17


nhận “trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, cơ quan, tổ
chức quản lý tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp cho Chấp

hành viên người được phân công trong vụ án đây là cơ sở pháp lý để Chấp hành viên
thực hiện hoạt động tác nghiệp một cách thuận lợi hơn. Luật đã ghi nhận trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức quản lý tài khoản của người phải thi hành án như vậy nhưng khi
áp dụng thì các cơ quan, tổ chức thực hiện như thế nào khi có yêu cầu cung cấp thông
tin liên quan đến tài khoản của khách hàng là một câu hỏi lớn khi đi vào thực tế thi
hành án?
Khi phát hiện người phải thi hành án có tiền trong tài khoản tại ngân hàng
đồng nghĩa với việc người phải thi hành án đang có điều kiện thi hành án nhưng cố
tình không tự nguyện thi hành nghĩa vụ dân sự theo Bản án, Quyết định của Tòa án đã
được Cơ quan thi hành án thụ lý thi hành nên việc phong tỏa tài khoản có ý nghĩa vô
cùng quan trọng nhằm đảm bảo cho việc khấu trừ tiền trong tài khoản người phải thi
hành án thuận lợi và nhanh chóng hơn. Tránh tình trạng việc tẩu tán tiền trong tài
khoản gây khó khăn trong công tác thi hành án dân sự và vụ việc không được giải
quyết dẫn đến bế tắc, tồn đọng nhiều năm. Trong những trường hợp như trốn tránh
không thực hiện nghĩa vụ thi hành án thì việc phong tỏa tài khoản đóng vai trò vô
cùng quan trọng, nó sẽ phát huy được tác dụng nhất định trong công tác thi hành án
dân sự.
Nhìn từ góc độ tâm lý bị phong tỏa tài khoản thì ảnh hưởng một phần tâm lý lo
ngại của người phải thi hành án, bắt buộc người có nghĩa vụ phải chấp hành nghĩa vụ
của mình nếu không thực hiện thì tài khoản bị phong tỏa, khấu trừ và không đủ tiền
đảm bảo trong giao dịch, kinh doanh có điều kiện như mua bán hàng hóa phải đảm
bảo có đủ số tiền tương ứng trong tài khoản để thanh toán, nếu không sẽ gây tâm lý
hoang mang cho chủ tài khoản, từ đó góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
của người dân nói chung, chủ tài khoản cụ thể nói riêng.
Nhìn từ góc độ các doanh nghiệp thì tài khoản là tài sản của doanh nghiệp
dùng để bảo đảm tín nhiệm trong giao dịch cũng như thanh toán, đảm bảo hoạt động
18


của công ty nhưng tài khoản bị phong tỏa sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của

công ty, gây tâm lý e ngại khi giao dịch hoặc ký kết hợp đồng với đối tác vì liên quan
đến pháp luật do có tranh chấp. Vì thế, các doanh nghiệp và cá nhân tham gia giao
dịch kinh doanh phải thi hành án thường ít khi để tình trạng tài khoản của mình bị
phong tỏa và tìm mọi cách để giải quyết vụ việc nhanh chóng nhằm đảm bảo hoạt
động kinh doanh thuận lợi. Thực tế khi tài khoản bị phong tỏa, xác minh để tìm biện
pháp xử lý cũng mất vài ngày ảnh hưởng trực tiếp đến giao dịch, các hoạt động kinh
doanh và lợi nhuận bị giảm sút... Do đó, bản thân các doanh nghiệp cũng không muốn
trường hợp tài khoản của mình bị phong tỏa kéo theo nhiều hệ lụy xấu cho doanh
nghiệp, từ đó vụ việc liên quan trực tiếp đến việc phong tỏa tài khoản sẽ có thể được
giải quyết nhanh chóng.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng việc phong tỏa tài khoản có vai trò và ý nghĩa
vô cùng lớn suốt quá trình giải quyết vụ việc trong công tác thi hành án dân sự. Công
tác cưỡng chế thi hành án dân sự là một trong những biện pháp cơ bản, được áp dụng
trong từng vụ việc cụ thể thi hành án rất hiệu quả nhưng tốn khá nhiều thời gian, công
sức. Với hạn chế là trước khi có Luật thi hành án dân sự chưa có cơ chế kịp thời ngăn
chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án nên luật thi hành án
dân sự cho ra đời biện pháp phong tỏa tài khoản nhằm lắp chỗ cho việc mất thời gian
đó, để vụ việc được giải quyết có hiệu quả hơn, không đi vào bế tắc, đặc biệt biện
pháp này có hiệu quả thiết thực đối với vụ án thi hành nghĩa vụ trả tiền (khấu trừ tiền
trong tài khoản), từ khi ra đời thì Luật thi hành án dân sự đã phát huy được tác dụng
của nó là góp phần làm giảm đi một phần các án tồn đọng trong THADS. Có thể ghi
nhận đây là bước tiến đáng kể trong việc xây dựng pháp luật về thi hành án dân sự của
Nhà nước ta ngày càng phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong
thời kỳ hội nhập.
1.1.3. Nội dung và hình thức bảo đảm thi hành bằng biện pháp phong tỏa tài
khoản của người phải thi hành án kinh doanh, thương mại
1.1.3.1. Nội dung bảo đảm thi hành án bằng biện pháp phong tỏa tài khoản của người
19



phải thi hành án
Luật thi hành án dân sự hiện hành quy định về biện pháp phong tỏa tài khoản
nhằm tác động đến tài khoản của người phải thi hành án, thông qua đó kiểm soát,
ngăn chặn được hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản của đương sự nhằm đảm bảo việc
thi hành án được thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành
án. Tuy nhiên, khi nghiên cứu, so sánh quy định tại Điều 37 Pháp lệnh thi hành án dân
sự năm 2004 và Điều 67 Luật thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi, bổ sung 2014 về
biện pháp phong tỏa tài khoản, chúng ta nhận thấy có một số khác biệt cơ bản như
sau:
Thứ nhất, nếu như Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 quy định phong tỏa
tài khoản là một trong sáu biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự (khoản 3 Điều 37
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004) thì Luật thi hành án dân sự lại quy định
phong tỏa tài khoản chỉ là một biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
Thứ hai, nếu như Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và các văn bản
hướng dẫn thi hành quy định về trình tự, thủ tục phong tỏa tài khoản của người phải
thi hành án chỉ mới mang tính chất sơ khai, chưa đầy đủ, cụ thể thì đến Luật thi hành
án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành về biện pháp
phong tỏa tài khoản đã được quy định một cách chi tiết, cụ thể và đầy đủ hơn về trình
tự, thủ tục áp dụng, thời hạn thực hiện.
Phong tỏa tài khoản là một trong những biện pháp bảo đảm cơ bản được sử
dụng phổ biến trong công tác đảm bảo thi hành án dân sự. Biện pháp này được áp
dụng trong trường hợp cần ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản, hủy hoại tài
sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án.
Điều 67, Luật thi hành án dân sự quy định sau khi có thông tin về tài khoản của
người phải thi hành án,Chấp hành viên có quyền áp dụng biện pháp phong tỏa tài
khoản của người đó ngay. Việc áp dụng biện pháp này cần phải tuân theo những điều
kiện và thủ tục nhất định như: khi tiến hành phong tỏa tài khoản, Chấp hành viên phải
giao quyết định phong tỏa tài khoản cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của
20



×