Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT
VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÀO CAI

PHÙNG THỊ KIM THÚY

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT
VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÀO CAI

PHÙNG THỊ KIM THÚY

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS BÙI THỊ HUYỀN

HÀ NỘI – 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung
số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Ngoài ra, trong luận văn còn tham khảo
một số tài liệu có nêu rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phùng Thị Kim Thúy

XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Bùi Thị Huyền – Giảng viên
Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, góp ý và động viên tôi trong
quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này.
Sau đó tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy, cô giáo Giảng viên, các
thầy cô lãnh đạo Khoa Đào tạo sau Đại học – Trường Đại học Mở Hà Nội và các
bạn lớp Luật Kinh Tế 17M-LKT61 đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
khóa học vừa qua.
Cùng đó tôi xin gửi lời cảm ơn đồng nghiệp, lãnh đạo cơ quan nơi tôi đang
công tác và cảm ơn lãnh đạo, cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai, Tòa án nhân
dân thành phố Lào Cai, Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, cán bộ Ủy ban nhân dân
thành phố Lào Cai đã tạo điều kiện tốt nhất và hỗ trợ về tài liệu vụ việc, các số liệu
có giá trị nhằm phục vụ giúp tôi hoàn thành luận văn nghiên cứu này.
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2019
NGƯỜI VIẾT LUẬN VĂN


Phùng Thị Kim Thúy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI ...............................................6
1.1. Khái niệm pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai ......................6
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai ...........................................................................6
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân
dân .............................................................................................................................10
1.1.3. Khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân
dân và Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính .........................................................17
1.1.4. Khái niệm pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai ................19
1.2. Cơ sở lý luận về xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai ................21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..........................................................................................23
Chương 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI ......................................................................................24
2.1. Pháp luật hiện hành về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án
nhân dân theo thủ tục tố tụng dân sự.........................................................................24
2.1.1. Thẩm quyền theo loại việc về giải quyết tranh chấp đất đai ..........................25
2.1.2. Thẩm quyền theo cấp về giải quyết tranh chấp đất đai ..................................27
2.1.3.Thẩm quyền theo lãnh thổ đối với tranh chấp đất đai .....................................30
2.2. Pháp luật hiện hành về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Ủy
ban nhân dân và Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính ..........................................31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..........................................................................................46
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI Ở TỈNH LÀO CAI VÀ KIẾN NGHỊ ............47



3.1. Đặc điểm tình hình Kinh tế - Chính trị - Xã hội ở Lào Cai ...............................47
3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai ở
tỉnh Lào Cai ...............................................................................................................50
3.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án
nhân dân ở tỉnh Lào Cai ...........................................................................................50
3.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
của Ủy ban nhân dân ở tỉnh Lào Cai ........................................................................73
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai ở tỉnh Lào Cai ..................................................81
3.3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai hoàn thiện luật ............................................................................81
3.3.2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai ở tỉnh Lào Cai ...................................................................84
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3..........................................................................................94
KẾT LUẬN ..............................................................................................................95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................96


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS

:

Bộ luật tố tụng dân sự

GCNQSDĐ

:


Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TAND

:

Tòa án nhân dân

TCĐĐ

:

Tranh chấp đất đai

TTDS

:

Tố tụng dân sự

TTHC

:

Tố tụng hành chính

UBND

:


Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1. Số liệu thụ lý và giải quyết án từ năm 2015 đến tháng 9/2019 của Tòa
thành phố Lào Cai .................................................................................................... 51
Bảng 3.2. Số liệu thụ lý và giải quyết án từ năm 2015 đến tháng 9/2019 của Tòa cấp
huyện ....................................................................................................................... 52
Bảng 3.3. Kết quả hoạt động của tổ hòa giải trên địa bàn thành phố Lào Cai ........ 74


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong xu thế phát triển của xã hội nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Trên cơ sở Quy hoạch điều chỉnh tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, các đơn vị rà
soát điều chỉnh quy hoạch của ngành, lĩnh vực, địa phương, thời gian xong trước ngày
30/6/2015. Tăng cường công tác quản lý quy hoạch Ủy ban nhân dân các huyện, thành
phố tập trung đẩy nhanh công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xây dựng các khu
tái định cư để triển khai các công trình, dự án. Do vậy làm phát sinh những tranh chấp
về bồi thường giải phòng mặt bằng giữa chủ đầu tư và người dân hay tranh chấp giữa
những người dân với nhau khi đất ngày càng có giá trị phát sinh ngày càng nhiều. Đối
với mỗi người dân đất đai không chỉ là nguồn sống, là tư liệu sản xuất mà đất đai đã và
đang trở thành một phương thức tích lũy của cải lâu dài và vững chắc nhất, nó có ý
nghĩa hàng đầu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng của mỗi
quốc gia. Với sự phát triển và tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh, cùng với sự gia tăng
dân số, nhu cầu sử dụng đất đai ngày càng cao thì tranh chấp đất đai có xu hướng ngày
càng gia tăng cả về số lượng cũng như mức độ phức tạp, diễn ra ngày càng phổ biến.

Tình trạng tranh chấp đất đai kéo dài với số lượng các vụ khiếu kiện ngày càng nhiều
là vấn đề rất đáng được quan tâm.
Tranh chấp đất đai phát sinh nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ
trong cộng đồng dân cư, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, đạo đức tốt đẹp của người
dân Việt Nam, thậm chí có thể gây ra sự mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Tranh chấp đất đai kéo dài nếu không được giải quyết dứt điểm sẽ dễ dẫn đến “điểm
nóng”, bị kẻ xấu lợi dụng, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước và kìm
hãm sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Chính vì vậy, vấn đề tranh chấp đất đai đòi
hỏi các cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết một cách nhanh chóng, triệt để và
1


đúng pháp luật nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả đang tiếc có thể xảy ra.
Từ những tranh chấp đó mà vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai của Uỷ ban nhân dân
huyện, thành phố và Tòa án nhân dân ngày càng nhiều với diễn biến các vụ việc ngày
càng phức tạp. Nguyên nhân tình trạng đó là do các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến việc giải quyết tranh chấp còn nhiều bất cập, chồng chéo; Xác định sai thẩm
quyền, mặt khác do nhận thức không đúng pháp luật của những người tiến hành tố tụng
và các đương sự khi tham gia tố tụng... dẫn đến việc giải quyết một số vụ án kéo dài, bị
hủy gây lãng phí thời gian, công sức, tài sản của Nhà nước và làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, việc nghiên cứu, trên cơ sở nhận thức
đúng đắn tầm quan trọng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, từ đó tìm ra
nguyên nhân và kiến nghị một số giải pháp khắc phục tình trạng trên là một yêu cầu
cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng đồng thời hạn chế thấp nhất những hạn chế, bất cập
về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
Với tất cả các lý do nêu trên, dựa vào các phân tích về ý nghĩa và tầm quan
trọng của vấn nghiên cứu, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai từ thực tiễn tỉnh Lào Cai” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học
chuyên ngành Luật Kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Có rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết có liên quan đến đề tài tranh
chấp đất đaivà thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai ở cả khía cạnh lý luận cũng
như thực tiễn được công bố. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như
sau: Năm 2019 ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải với vài viết “Giải quyết tranh chấp về quyền
sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo tố tụng dân sự ở nước ta hiện nay”. Năm 2011
ThS. Ngô Xuân Quỳnh với bài viết Luận văn“Áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân ở tỉnh Hưng Yên”Học viên Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Năm 2017 ThS. Lương Ngọc Anh với Luận Văn “Thụ lý

2


tranh chấp đất đai – Thực tiễn giải quyết tại Tòa án trên địa bàn thành phố Hải Phòng”
Viện Đại Học Mở Hà Nội. Năm 2006 ThS. Lý Thị Ngọc Hiệp với Luận văn “Giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bằng tòa án tại Việt Nam” Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh. Năm 2013 TS. Mai Thị Tú Oanh với Luận án Tiến sỹ “Tranh chấp đất
đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta”. Tài liệu Hội thảo khoa
học: Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai, do Trung tâm thông tin, Tư
liệu và Nghiên cứu Khoa học - Văn phòng Quốc hội và Ủy ban nhân dân tỉnh Đắc Lắc
tổ chức tại Buôn Mê Thuột, tháng 5/2007.
Những công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến những vấn đề khác nhau
vềtranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.Trên cơ sở kế thừa
những thành quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố về giải
quyết tranh chấp đất đai, xem xét dưới góc độ pháp luật, luận văn đi sâu tìm hiểu,
nghiên cứu pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thông qua TAND, cơ
quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Lào Cai trên cả hai phương diện: Phương
diện lý luận và phương diện thực. Lần đầu tiên tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm góp
phần hoàn thiện hơn nữa về lĩnh vực thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai từ thực
tiễn tỉnh Lào Cai nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyềngiải quyết tranh chấp đất
đai thông qua Tòa án nhân dân và thông qua Uỷ ban nhân dân.Từ đó đề xuất những
giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai cũng như thẩm quyền giải quyết tranh đất đai ở tỉnh Lào Cai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận về pháp luật thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai.
3


Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai qua việc tìm hiểu, phân tích thực trạng áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai của các Uỷ ban nhân dân, Tòa án nhân dân ở tỉnh Lào Cai.
Nêu các phương hướng và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằn hoàn thiện pháp
luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Uỷ ban nhân dân, Tòa án nhân dân một cách có hiệu quả, tránh việc khiếu kiện kéo dài
gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định hiện hành của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
Các văn bản quy phạm pháp luật nội dung về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
đất đai qua các thời kỳ lịch sử khác nhau.
Thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai trên địa bàn tỉnh Lào Cai, thông qua một số vụ án cụ thể trong những năm gần đây.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân, Uỷ ban nhân
dân. Hệ thống các quy phạm pháp luật thực định về giải quyết Tranh chấp đất đai nói
chung và giải quyết Tranh chấp đất đai đến nay cụ thể văn bản luật cơ bản là luật Đất
đai năm 2013 và Luật dân sự 2015; Các các báo cáo tổng kết tình hình, bản án giải

quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện và thành phố
trên địa bàn tỉnh Lào Cai và Tòa án nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lào Cai;
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết dựa trên các phương
pháp thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu, các tư

4


duy logic, các phương pháp luận, phương pháp bình luận, phương pháp so sánh luật
học, phương pháp đánh giá, phân tích – tổng hợp để từ đó rút ra các kết luận cho việc
nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện thêm về khái niệm,
đặc điểmthẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai cũng như làm sáng tỏ các chiều cạnh
lý thuyết khi vận dụng trong nghiên cứu thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Tòa án nhân dân và Uỷ ban nhân dân bằng pháp luật. Các kết quả thực nghiệm sẽ cung
cấp cơ sở dữ liệu về bức tranh thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết
Tranh chấp đất đai khi nghiên cứu vấn đề này. Đưa ra những định hướng, giải pháp
hoàn thiện về mặt pháp luật, cơ chế, hiệu quả hoạt động góp phần bổ sung và phát triển
lý luận, phục vụ yêu cầu thực tiễn của việc không ngừng hoàn thiện nâng cao chất
lượng bảo đảm thi hành luật.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần mục lục, nội
dung Luận văn kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
Chương 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI Ở TỈNH LÀO CAI VÀ KIẾN NGHỊ

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Việc nhận diện bản chất pháp lý của tranh chấp đất đai sẽ là tiền đề cho việc xác
định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
Dưới góc nhìn lịch sử thì đất đai là một thành phần có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với đời sống của con người và mọi sự sống trên trái đất. Đất đai đóng góp to
lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng như sự hình thành, phát triển của
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc nói riêng. Trong lịch sử, đất đai vừa là cơ sở để mỗi quốc
gia thể hiện lãnh thổ, chủ quyền của mình nhưng đồng thời cũng là tư liệu sản xuất là
cơ sở để tạo ra của cải vật chất cho toàn xã hội.
Từ bao đời nay, qua nhiều thay đổi thăng trầm lịch sử, tranh chấp quyền sử
dụng đất đã hình thành, tồn tại và diễn ra như là một tất yếu của xã hội. Ở Việt Nam,
tranh chấp đất đai đã gây ra những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn
xã hội. Các tranh chấp này xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu sau:
(i) Nguyên nhân khách quan:
Chiến tranh kéo dài đã để lại hậu quả khác nhau trên cả 02 miền. Ở miền Bắc,
sau cách mạng tháng Tám và sau năm 1953, Đảng và Chính phủ đã tiến hành cải cách
ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của thực dân, phong kiến, xác lập quyền
sở hữu ruộng đất cho người dân. Năm 1960 thông qua con đường hợp tác hóa nông
nghiệp, ruộng đất của người dân được đưa vào làm tư liệu sản xuất chung, thuộc sở
hữu tập thể, do đó tính hình sử dụng đất đai khá ổn định.
6



Ở miền Nam, sau hai cuộc kháng chiến tình hình sử dụng đất đai có nhiều diễn
biến phức tạp hơn. Trong 9 năm kháng chiến 1945-1954, Chính phủ đã chia cấp ruộng
cho người nông dân hai lần vào các năm 1949-1950 và 1954. Nhưng đến cuối năm
1957, ngụy quyền Sài Gòn đã tiến hành việc cải cách điền địa, tiến hành việc “truất
hữu” nhằm xóa bỏ thành quả cách mạng, gây ra những xáo trộn lớn về quyền sở hữu
ruộng đất của người nông dân. Cộng thêm vào đó là tình hình chiến tranh khiến cho cư
dân phân tán, rời bỏ ruộng đất đi lánh nạn nên quan hệ đất đai biến động thường xuyên.
Sau năm 1975, Nhà nước đã tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, đồng thời xây
dựng hàng loạt các nông trường, lâm trường, trạm trại. Nhìn chung, những tổ chức này
bao chiếm nhiều diện tích nhưng sử dụng lại kém hiệu quả. Đặc biệt, qua hai lần điều
chỉnh ruộng đất vào các giai đoạn 1978 - 1979 và 1982 - 1983, cùng với chính sách
chia cấp theo kiểu bình quân đã dẫn đến những xáo trộn lớn về ruộng đất, ranh giới và
mục đích sử dụng.
Hiện nay, trong quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước việc thu hồi
đất để mở rộng đô thị, xây dựng hạ tầng, thực hiện các dự án đầu tư làm cho quỹ đất
canh tác ngày càng giảm. Trong khi đó, sự gia tăng dân số vẫn ở tỷ lệ cao, cơ cấu kinh
tế chưa đáp ứng được vấn đề giải quyết việc làm và cuộc sống cho người lao động. Đặc
biệt do tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường làm cho giá đất tăng đã và đang là
những áp lực lớn gây nên tình trạng tranh chấp gắn với quyền sử dụng đất trở lên gay
gắt trong xã hội.
(ii) Nguyên nhân chủ quan:
Về cơ chế quản lý: trong thời gian qua, công tác quản lý đất đai còn nhiều yếu
kém. Nhà nước phân công, phân cấp cho quá nhiều ngành dẫn đến việc quản lý đất đai
thiếu chặt chẽ. Có thời kỳ mỗi loại đất do một ngành quản lý. Đất lâm nghiệp do ngành
lâm nghiệp quản lý, đất chuyên dùng thuộc ngành nào thì ngành đó quản lý. Cũng có
tình trạng, có loại đất không được cơ quan nào quản lý. Bên cạnh đó, tổ chức cơ quan
7



quản lý đất đai từ trung ương đến cơ sở không ổn định, hoàn toàn không đủ sức giúp
cho nhà nước trong lĩnh vực này.
Công tác phân vùng quy hoạch đất đai làm chậm, thiếu đồng bộ, việc phân chia
địa giới hành chính có nhiều thay đổi nhưng xác định mốc giới không kịp thời hoặc
không rõ ràng làm cho tình trạng tranh chấp đất đai phức tạp thêm. Phương tiện và hồ
sơ phục vụ cho công tác quản lý đất đai còn thiếu. Hồ sơ địa chính chưa hoàn bị lại
không đồng bộ, thiếu căn cứ pháp lý và thực tế, việc lưu trữ lại không đầy đủ, khi có
tranh chấp xảy ra việc xác định người có quyền sử dụng đất rất khó khăn. Vấn đề cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm do nhiều nguyên nhân, trong đó có phần
là do chưa có đầy đủ cơ sở khoa học và phương pháp quản lý cần thiết để xác định
quyền sử dụng đất cho các chủ thể. Chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều
bất cập, đời sống của người sử dụng đất bị thu hồi chưa được quan tâm thỏa đáng.
Những điều đó đã và đang làm giảm hiệu lực của Nhà nước trong việc giải quyết tranh
chấp đất đai.
Về chính sách pháp luật, pháp luật Đất đai chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, có
mặt không rõ ràng và đang còn nhiều biến động. Thực tế áp dụng các chính sách còn
nhiều tùy tiện, người có khả năng sản xuất nông nghiệp thì thiếu ruộng, người không
có khả năng thì lại được chia ruộng, đất được sử dụng kém hiệu quả. Bên cạnh đó, các
văn bản hướng dẫn thi hành luật chậm được ban hành làm cho các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc gặp nhiều khó khăn, khiến cho việc áp dụng
pháp luật thiếu hiệu quả.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật Đất đai chưa thực sự được coi trọng,
vì thế trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân còn
hạn chế. Nhiều văn bản pháp luật Đất đai chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Về nhân sự, một bộ phận cán bộ, công chức còn thiếu gương mẫu, tùy tiện trong
khi thực hiện nhiệm vụ, vi phạm chế độ quản lý và sử dụng đất đai. Một số cán bộ còn
8



có tư tưởng đặc quyền đặc lợi, chỉ lo cho lợi ích của mình; năng lực cán bộ, công chức
thực hiện công vụ quản lý đất đai còn có phần hạn chế.
Ngoài ra, việc tranh chấp đất đai ở mỗi địa phương khác nhau còn có những
nguyên nhân đặc thù khác nhau. Việc tìm ra những nguyên nhân cụ thể của tranh chấp
phải căn cứ vào thực tế sử dụng đất, phong tục tập quán của từng địa phương là một
việc cần thiết để có được những giải pháp tốt nhất cho từng vụ việc.
Như vậy, có thể thấy tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội xảy ra trong
đời sống xã hội với những nguyên nhân khách quan và chủ quan nhất định. Theo nghĩa
rộng thì tranh chấp đất đai là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc xác định
quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai, phát sinh trực tiếp
hoặc gián tiếp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Tuy nhiên, bên cạnh khái
niệm “tranh chấp đất đai” còn có khái niệm “tranh chấp quyền sử dụng đất”. Vậy
tranh chấp đất đai có đồng nghĩa với tranh chấp quyền sử dụng đất hay không cũng là
vấn đề cần được làm sáng tỏ về phương diện lý luận.
Trong các quy định trong luật Đất đai 1987 và luật Đất đai 1993 đều có dùng
thuật ngữ “tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” mà không có
phần giải thích thuật ngữ. Nhưng đến luật Đất đai 2003, tại khoản 26 Điều 4 về giải
thích từ ngữ thì “tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai” [13, tr.12]. Kết hợp lập luận
trên và với quy định tại Điều 136 luật Đất đai 1993 quy định tranh chấp đất đai đã được
hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự
không nhất trí thì thẩm quyền giải quyết được xác định theo hướng: “tranh chấp về
quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một
trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết...” thì chúng ta có thể
nhận thấy dường như có một sự tương đồng giữa hai thuật ngữ “tranh chấp đất đai” và
“tranh chấp về quyền sử dụng đất”.

9



Tuy nhiên, đến Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì khoản 9 Điều 26 BLTTDS
không sử dụng thuật ngữ tranh chấp quyền sử dụng đất nữa mà thay bằng khái niệm
tranh chấp đất đai. Việc thay đổi này là phù hợp với quy định của luật Đất đai năm
2013. Theo Khoản 24, Điều 3, luật Đất đai năm 2013 thì “tranh chấp đất đai là tranh
chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ
đất đai”.
Do đó, có thể rút ra khái niệm tranh chấp đất đai như sau: “tranh chấp đất đai là
sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể
khi tham gia vào quan hệ pháp luật Đất đai”1.
Trong khái niệm này chúng ta cần lưu ý: đối tượng của tranh chấp đất đai không
phải là quyền sở hữu đất, các chủ thể tham gia tranh chấp không phải là các chủ thể có
quyền sở hữu đối với đất, bởi nước ta hiện nay đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà
nước ta là đại diện chủ sở hữu. Tại Điều 53, Hiến pháp 2013 hay Điều 4, luật Đất đai
năm 2013 quy định rất rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý. Tranh chấp đất đai có thể thuộc thẩm quyền giải quyết tại
Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân
Trước hết chúng tôi tiếp cận khái niệm từ thuật ngữ “thẩm quyền”. Theo định
nghĩa của Từ điển tiếng Việt thì “Thẩm quyền là xem xét để kết luận và định đoạn một
vấn đề theo pháp luật”2. Theo từ điển Luật học thì “thẩm quyền” được hiểu là tổng hợp
các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống
bộ máy nhà nước do pháp luật quy định”3. Như vậy khái niệm thẩm quyền gồm hai nội
dung chính là quyền hành động và quyền quyết định. Quyền hành động là quyền được
làm những công việc nhất định, còn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công
Khái niệm này cũng được đưa ra trong giáo trình Luật Đất đai của Đại học Luật Hà Nội.
Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXb. Đà Nẵng, 2003, Tr922.
3
Từ điển Luật Học, Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội, 1999, Tr459.
1

2

10


việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học về
luật Dân sự, luật Hôn nhân và gia đình, Luật tố tụng dân sự thì thẩm quyền dân sự của
Tòa án nhân dân được hiểu là thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, giải quyết
các việc theo thủ tục tố tụng dân sự. Giáo trình Luật tố tụng hành chính Trường Đại
học luật Hà Nội (2001) cũng định nghĩa: “Thẩm quyền là quyền hạn theo pháp luật quy
định của cơ quan công quyền và công chức giữ chức vụ nhà nước nhất định”4. Mỗi
công dân, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình đều hoạt động trong một lĩnh vực nhất định, được giải quyết, quyết định trong
khuôn khổ của một phạm vi theo quy định của pháp luật, đó chính là quyền của các chủ
thể được thực hiện, giải quyết công việc trong phạm vi theo quy định của pháp luật. Từ
những phân tích trên, chúng tôi cho rằng: Thẩm quyền là quyền hạn được thực hiện,
giải quyết công việc trong phạm vi theo quy định của pháp luật.
Đối với "tranh chấp đất đai" có những điểm khác biệt so với vi phạm pháp luật
về đất đai. Vi phạm pháp luật về đất đai là hành vi trái pháp luật xâm phạm các quy
định về đất đai. Còn tranh chấp đất đai chỉ là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
sử dụng đất giữa các chủ thể. Tranh chấp đất đai có thể có cả vi phạm pháp luật về đất
đai nhưng không phải tất cả các trường hợp tranh chấp đất đai đều vi phạm pháp luật
về đất đai. Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thẫu hay xung đột về lợi ích, về
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sử dụng đất, bao gồm các tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ sử dụng đất giữa các chủ thể thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan
hành chính, cơ quan tư pháp và các tranh chấp đất đai do các chủ thể tự hoà giải, để
giải quyết.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, việc nghiên cứu khái niệm về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân phải căn cứ vào quy định của pháp luật
về là quyền của Toà án giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử

4

Trường đại học luật Hà Nội (2001) Giáo trình Luật tố tụng hành chính năm 2001, Hà Nội, Tr 29.

11


dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Với cách hiểu này, căn cứ các
quy định của pháp luật Đất đai về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được quy
định trong luật Đất đai năm 2013, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án
nhân dân về loại việc cũng được hiểu là quyền giải quyết tất các tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ của người sử dụng đất, bao gồm: các tranh chấp cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; các tranh chấp về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất…
Theo tác giả, khi quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà
án nhân dân cần tuân thủ nguyên tắc Hiến định là đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà
nước là chủ sở hữu. Vì vậy thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án là nội
dung nằm trong nội hàm của thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, có nghĩa là
không phải bất cứ tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất nào cũng
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân. Căn cứ vào các quy định của pháp
luật Đất đai, cần xác định tranh chấp đất đai là những tranh chấp nào? Loại tranh chấp
nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án? Tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan hành chính? Bên cạnh đó, đối với mỗi loại việc, pháp luật lại quy
định các điều kiện cần và đủ khác nhau để xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án
như điều kiện hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã phường, thị trấn…Bản chất của các
tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là những tranh chấp phát
sinh từ quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng). Đó là tranh chấp giữa các cá nhân, cơ quan,
tổ chức liên quan đến quyền sử dụng đất đai. Theo đó các tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của Toà án bao gồm:
- Tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất như tranh chấp về ranh

giới đất, lối đi chung, tranh chấp về việc ai là chủ thể có quyền sử dụng đất...(đây chính
là tranh chấp đất đai theo nghĩa hẹp);
- Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền
sử dụng đất và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất;
12


- Thừa kế quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp về việc xâm phạm quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất.
Như vậy, các tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND là các
tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định pháp luật. Thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án là xác định những tranh chấp đất đai
nào sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục TTDS. Việc xác định thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng dân sự là cơ sở để phân biệt
thẩm của Tòa án và UBND, phân biệt thẩm quyền của Tòa án theo thủ tục TTDS và
thủ tục tố tụng hành chính. Khi xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Tòa án trước hết cần xác định loại tranh chấp đất đai nào thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án theo thủ tục TTDS, sau đó phải xác định tranh chấp đó thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án cấp tỉnh hay Tòa án cấp huyện và cuối cùng là thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án cụ thể nào.
Từ các phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai của Toà án nhân dân như sau:
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân là thẩm quyền
dân sự của Toà án, giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể về quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật.
Trong đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân theo
loại việc là việc xác định những tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân theo cấp làviệc
phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện đối với
tranh chấp đất đai.
13


Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân theo lãnh thổ là
việc xác định thẩm quyền của một Tòa án cụ thể đối với một tranh chấp, đất đai cụ thể.
Từ khái niệm này giúp ta chỉ ra các đặc điểm cơ bản về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân như sau:
Như trên đã nêu, pháp luật Đất đai của Nhà nước ta quy định những cơ quan có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai gồm: thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai của cơ quan hành chính nhà nước, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Toà án nhân dân; thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành
chính do cơ quan hành chính và Quốc hội có thẩm quyền giải quyết. Vì vậy đặc điểm
của thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của của Toà án nhân dân là căn cứ để
phân biệt thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan hành chính nhà nước
và thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan có thẩm quyền khác.
Bất cứ một loại việc nào cũng vậy (vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương
mại, hành chính, lao động) khi quyết định có thụ lý hay không việc đầu tiên là Toà án
phải xác định vụ việc đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án không. Tuy nhiên
ở từng vụ việc, mức độ, tầm quan trọng của việc xác định thẩm quyền của Toà án khác
nhau. Ví dụ:Việc xác định thẩm quyền thụ lý vụ án hình sự chủ yếu là xác định vụ án
thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh hay cấp huyện, không có việc xác định vụ án
hình sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, bởi khi cơ quan điều tra đã
khởi tố vụ án, khởi tố bị cán, kết luận điều tra và Viện Kiểm sát đã truy tố thì Toà án
phải thụ lý. Không có việc Viện Kiểm sát truy tố, Toà án không thụ lý vì vụ án không
thuộc thẩm quyền. Có trường hợp, Viện Kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án hình sự, Toà án
không nhận là do thiếu các thủ tục theo quy định của pháp luật. Trường hợp xác định
vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh hay cấp huyện cũng rất hãn hữu

bởi việc xác định khung khoản truy tố đã được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát điều tra,
truy tố xem xét khá kỹ lưỡng. Nếu có quan điểm khác phải đến giai đoạn xét xử mới có
14


thể có căn cứ làm rõ. Đối với việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự khác
như ly hôn, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì khi thụ lý vụ án hầu như không có
việc xác định vụ việc đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án không vì theo quy
định của pháp luật các loại việc này chỉ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Nhưng riêng đối với việc giải quyết tranh chấp đất đai, việc xác định thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai là công việc đầu tiên, hết sức quan trọng của giai đoạn thụ lý
vụ án dân sự của Toà án. Bởi cùng một loại việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất, luật pháp của Nhà nước ta quy định nhiều cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân có
ý nghĩa hết sức quan trọng.Xác định đúng thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Toà án là căn cứ để Toà án xem xét quyết định thụ lý vụ án tranh chấp đất đai đúng
theo quy định của pháp luật. Xác định không đúng thẩm quyền của Toà án về giải
quyết tranh chấp đất đai sẽ dẫn đến việc Toà án thụ lý vụ việc không đúng thẩm quyền,
dẫn đến phải ra các quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án sau khi thụ lý, gây mất
thời gian đi lại, tốn kém cho các đương sự. Nếu vụ việc đã giải quyết ở cấp sơ thẩm,
phúc thẩm thì việc thụ lý vụ án tranh chấp đất đai không đúng thẩm quyền là căn cứ để
cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm huỷ bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm do vi phạm
nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.Xác định đúng thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai là một trong những căn cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự,
giải quyết kịp thời các mâu thuẫn tranh chấp đất đai trong nội bộ nhân dân.Đảm bảo
thực hiện nội dung Nhà nước thống nhất quản lý về đất đai.
Khác với thẩm quyền xét xử hành chính và thẩm quyền xét xử hình sự của tòa
án, thẩm quyền dân sự của tòa án có những đặc trưng sau:
- Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước, độc lập trong việc xem xét giải quyết
và ra các phán quyết đối với các vụ việc phát sinh từ các quan hệ mang tính tài sản,

nhân thân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận
giữa các chủ thể với nhau;
15


- Thẩm quyền dân sự của toà án được thực hiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Do
vậy, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung về tố tụng như tòa án độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật, đảm bảo sự vô tư, khách quan v.v thì tòa án khi xem xét giải
quyết các vụ việc dân sự phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương
sự. Phạm vi xem xét giải quyết và quyền quyết định của toà án được giới hạn bởi
những yêu cầu mà đương sự đưa ra cũng như trên cơ sở sự thỏa thuận của họ về
những vấn đề có tranh chấp.
Việc xác định thẩm quyền giữa các tòa án một cách hợp lý, khoa học tránh được
sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa tòa án với các cơ quan nhà nước,
giữa các tòa án với nhau, góp phận tạo điều kiện cần thiết cho tòa án giải quyết nhanh
chóng và đúng đắn các vụ việc dân sự, nâng cao được hiệu quả của công việc giải
quyết vụ việc dân sự. Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền giữa các tòa án một cách
hợp lý, khoa học còn tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp trước tòa án, giảm bớt những phiền phức cho đương sự.
Ngoài ra, việc xác định thẩm quyền của các tòa án một cách hợp lý và khoa học
còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những điều kiện về chuyên môn, nghiệp
vụ cần thiết của đội ngũ cán bộ ở mỗi tòa án và các điều kiện khác, trên cơ sở đó có kế
hoạch đáp ứng bảo đảm cho tòa án thực hiện được chức năng nhiệm vụ.
“Thẩm quyền dân sự của tòa án theo loại việc là thẩm quyền của tòa án trong
việc thụ lý giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự. Theo Điều 102 Hiến pháp
năm 2013, Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Điều 1 BLTTDS thì tòa án
có thẩm quyền giải quyết các vụ án và các việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Thẩm quyền
theo loại việc của tòa án phân định thẩm quyền của tòa án với thẩm quyền của các cơ
quan, tổ chức khác trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội;

phân định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các loại việc theo thủ tục tố tụng

16


dân sự với thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các loại việc theo thủ tục tố
tụng hình sự và tố tụng hành chính”5.
1.1.3. Khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân và
Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính
Tranh chấp đất đai có thể được giải quyết theo hai phương thức: Khởi kiện tại
Tòa án có thẩm quyền; Khiếu nại lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên,
tương ứng với mỗi phương thức giải quyết tranh chấp đất đai thì quy trình và thủ tục
giải quyết cũng khác nhau. Dù theo con đường tố tụng tại Tòa án hoặc thủ tục giải
quyết tại cơ quan hành chính nhà nước thì thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất
tranh chấp là thủ tục và điều kiện bắt buộc. Bên cạnh đó, luật Đất đai năm 2013 còn
quy định khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh
chấp đất đai thông qua hòa giải tại cơ sở, nếu không hòa giải được thì gửi đơn đến
UBND cấp xã nơi có đất để tiến hành hòa giải.
Tranh chấp đất đai có thể sẽ được giải quyết theo trình tự hành chính. Trình tự
này sẽ được áp dụng đối với những tranh chấp mà các đương sự không có giấy tờ
chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định và lựa chọn giải quyết tranh chấp tại
UBND. Đối với TCĐĐ giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì khiếu
nại đến chủ thể có thẩm quyền giải quyết là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Nếu
một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu thì có
quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Đối với tranh chấp giữa tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài với nhau hoặc giữa các đối tượng đó
với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thì các đương sự này có quyền khiếu nại
đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nếu một trong các bên đương sự không đồng ý


5

Trường đại học luật Hà Nội (2017) Giáo trình Luật tố tụng dân sự 2017, Hà Nội, Tr 60.

17


×