Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.09 KB, 10 trang )

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

N

gày 29/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai năm 2013. Luật Đất
đai năm 2013 đã khắc phục, giải quyết được nhiều tồn tại, hạn chế phát sinh
trong quá trình thi hành Luật Đất đai năm 2003. Đây là đạo luật quan trọng,
có tác động sâu rộng đến chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, thu hút
được sự quan tâm rộng rãi của nhân dân. Luật Đất đai 2013 đã chính thức có hiệu lực từ
ngày 01/7/2014. Và một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý nhà nước
về đất đai là việc giải quyết tranh chấp đất đai. Theo quy định của pháp luật các chủ thể
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai bao gồm Tòa án nhân dân, Chủ tịch UBND,
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường.
Theo đó, khi có tranh chấp xảy ra trong cộng đồng dân cư, thì theo yêu cầu của một hoặc
các bên tranh chấp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành giải quyết các mâu
thuẩn, tranh chấp đó theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất.
Tại Điều 202 Luật Đất đai 2013 quy định hòa giải tranh chấp đất đai:
“1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh
chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND
cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
3. Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa
phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt
Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa
giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45
ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa
giải thành hoặc hòa giải không thành của UBND cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến
các bên tranh chấp, lưu tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp”.
Như vậy, khi nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, trong thời hạn không quá


45 ngày (Luật Đất đai 2003 quy định là 30 ngày) UBND cấp xã có trách nhiệm:
+ Thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu
có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất, thực tế hiện
trạng sử dụng đất;


+ Tiến hành thành lập hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Theo
quy định tại Điều 202 Luật Đất đai 2013 và khoản 1 điều 88 của Nghị định số 43/NĐ-CP
Ngày 15/5/2014 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai thì thành phần Hội đồng
hòa giải cấp xã (phường, thị trấn) gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là
Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ
dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của
một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình
sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy
từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến
binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…
+ Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên hội đồng
hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc hòa giải phải
được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa
giải không thành của UBND cấp xã. Và biên bản hòa giải tranh chấp đất đai sẽ được gửi
đến các bên tranh chấp.
Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng
đất thì UBND cấp xã gửi biên bản hòa giải đến phòng tài nguyên và môi trường đối với
trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi
đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.
Trường hợp hòa giải không thì UBND cấp xã lập biên bản hòa giải không thành và hướng
dẫn các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tiếp
theo.
Theo quy định tại Điều 136 Luật Đất đai 2003 thì những tranh chấp về quyền sử dụng đất
mà đương sự có giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các giấy tờ quy

định tại các khoản 1, 2 và khoản 5 Điều 50 của Luật Đất đai và tranh chấp về tài sản gắn
liền với đất thì chủ thể có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân. Còn đối với những
tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và cũng không có các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 điều 50 thì thuộc thẩm
quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân.
Còn theo Điều 203 Luật đất đai 2013 quy định: Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại
Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
“1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy
tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa
án nhân dân giải quyết;


2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong
các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một
trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo
quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự;”
Nhìn chung, các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 này vẫn giữ nguyên nội
dung các quy định tại khoản 1,2 và khoản 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 và có sự bổ sung
thêm một số trường hợp đó là:
+ Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15/10/1993 theo quy định của Chính
phủ;
+ Giấy tờ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15/10/1993 đến ngày 01/7/2014;
+ Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường,
nhà thờ họ; đất nông nghiệp.
Như vậy căn cứ theo khoản 2 Điều 203 Luật đất đai thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp
được mở rộng hơn, Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp đất đai
bao gồm:

- Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với đất
- Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong
các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai.
Tranh chấp đất đai mà đương sự không có giấy chứng nhận hoặc không có một trong các
loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai thì đương sự được lựa chọn một trong
hai hình thức: Khởi kiện tại tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự hoặc nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm
quyền theo quy định của Luật Đất đai.


Thẩm quyền của Tòa án đối với việc khởi kiện quyết định giải quyết tranh
chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân

T

heo quy định của Luật Đất đai năm 2013, ở nước ta hiện nay, tồn tại hai hệ
thống cơ quan khác nhau có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai đó là hệ
thống cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân) và hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước (ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh, Bộ Tài nguyên và Môi trường).
Cơ sở để Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành xác định thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đất đai là căn cứ vào tình trạng pháp lý của đất đang có tranh chấp,
tài sản gắn liền với đất và sự lựa chọn của đương sự. Theo đó, trường hợp đương sự có
Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật và
tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết (Khoản 1 Điều
203); trường hợp đương sự không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã được cấp trước ngày 10/12/2009;
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
(gọi chung là giấy chứng nhận), hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại

Điều 100 của Luật, thì đương sự được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh
chấp đất đai như sau:
1. Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự, trình tự thủ tục thực hiện theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự;
2. Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo
quy định tại khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.
Khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Trường hợp đương sự lựa chọn giải
quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp
đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết
thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án
nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền
khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân
dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính”.


Từ những quy định trên có thể thấy rằng so quy định tại Khoản 2 Điều 136 Luật Đất đai
năm 2003 (đã được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 1 Điều 264 của Luật Tố tụng Hành chính
năm 2010[1]), thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án đã được Luật Đất đai
2013 mở rộng hơn. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án theo thủ tục tố
tụng dân sự không chỉ giới hạn trong phạm vi các tranh chấp mà mở rộng sang cả những
trường hợp đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại
giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật tùy theo sự lựa chọn của đương sự. Theo chúng
tôi, quy định như trên, về cả mặt lý luận và thực tiễn vẫn còn nhiều vướng mắc bất cập,
tuy nhiên, trong phạm vi của bài này chúng tôi xin tập trung vào một số vướng mắc bất
cập về thẩm quyền của Tòa án đối với việc khởi kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất

đai của Chủ tịch ủy ban nhân dân như sau:
(1). Vướng mắc thứ nhất, tranh chấp đất đai đã được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền
giải quyết và đã có quyết định giải quyết tranh chấp có thể xảy ra các tình huống như: do
không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp nên một người (hoặc một bên) vừa
khởi kiện tại Toà án có thẩm quyền, đồng thời khiếu nại đến Thủ trưởng cơ quan hành
chính nhà nước (Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường), những người khác (hoặc bên khác) còn lại không khởi kiện tại Tòa án và
cũng không khiếu nại tới Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải
quyết; hoặc một số người lựa chọn khởi kiện Toà án giải quyết, nhưng một số người lựa
chọn khiếu nại tiếp đến Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước.
Đây là những tình huống đã và sẽ xảy ra trong thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai, tuy
nhiên, hiện nay có hai quan điểm về thẩm quyền giải quyết, cụ thể là:
Theo quan điểm thứ nhất, Khoản 14 Điều 22 Luật Đất đai quy định giải quyết tranh chấp
về đất đai là một trong các nội dung quản lý nhà nước về đất đai nên quyết định giải
quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân là quyết định hành chính. Theo
quy định tại Điều 1 của Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29-7-2011 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng
hành chính thì quyết định giải quyết tranh chấp đất đai trong quản lý nhà nước về đất đai
là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính[2]. Do đó, thẩm
quyền giải quyết trong các tình huống trên sẽ áp dụng quy định tại Điều 31 Luật Tố tụng
hành chính[3] và hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29-72011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật tố tụng hành chính để giải quyết[4].
Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch
ủy ban nhân dân là quyết định được ban hành trong quá trình quản lý nhà nước về đất đai


nhưng Điều 203 Luật Đất đai quy định một cơ chế giải quyết riêng đối với các tranh chấp
về đất đai, khác với cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai quy định tại Điều
204 của Luật. Do đó, nếu vận dụng giải quyết như quan điểm thứ nhất là chưa chặt chẽ,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này đó có cơ sở

pháp lý chắc chắn cho việc giải quyết.
(2) Vướng mắc thứ hai, theo quy định tại Khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai, sau khi có
quyết định giải quyết tranh chấp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, nếu đương sự không
đồng ý và tiếp tục chọn hình thức khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
(Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường) và sau
khi có quyết định giải quyết khiếu nại, đương sự vẫn không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại đó thì họ có được khởi kiện ra Tòa án không và trong trường hợp này Tòa
án có thẩm quyền thụ lý giải quyết không?
Cũng tương tự như vướng mắc thứ nhất, hiện nay có hai quan điểm về thẩm quyền của
Tòa án đối với việc khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại trong trường hợp này, cụ
thể:
Quan điểm 1 cho rằng quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai theo quy định của Khoản
14 Điều 22 Luật Đất đai là quyết định hành chính và theo quy định của Luật Tố tụng
hành chính, Luật Khiếu nại thì quyết định này là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

Quan điểm hai thì lại cho rằng: cũng là quyết định giải quyết khiếu nại nhưng quyết định
giải quyết khiếu nại này khác với quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành
chính, hành vi hành chính quy định tại Điều 204 Luật Đất đai. Sở dĩ như vậy vì tranh
chấp hành chính được giải quyết theo quy định tại Điều 204 là tranh chấp hành chính
giữa một bên là người cá nhân, tổ chức với một bên là cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước quản lý về đất đai, trong khi đó quyết định giải quyết
khiếu nại theo quy định tại Điều 203 giải quyết tranh chấp không những một bên là cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước quản lý về đất đai với
người cá nhân, tổ chức mà còn giải quyết cả nội dung tranh chấp giữa các bên là cá nhân,
tổ chức với nhau. Do đó, cần phải có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để thực hiện trên
thực tế.
(3) Sự không tương đồng về cơ chế giải quyết đối với cùng một quan hệ pháp luật về
tranh chấp: theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành, tranh chấp đất đai giữa các bên
đương sự là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau hoặc một bên là tổ chức, cơ
sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước



ngoài, nếu đương sự lựa chọn Tòa án giải quyết theo hình thức thứ nhất thì việc giải
quyết được thực hiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Trong khi đó, cũng cùng loại tranh chấp
giữa các bên đương sự như trên nhưng trường hợp đương sự lựa chọn nộp đơn yêu cầu
giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết
tranh chấp đó, đương sự có quyền khiếu nại đến Thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên
(Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường) hoặc
khởi kiện ra Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính.
Như vậy, có thể thấy rằng cùng một quan hệ pháp luật tranh chấp đất đai, nhưng theo quy
định của pháp luật và sự lựa chọn của đương sự thì tranh chấp đó có thể được giải quyết
theo cơ chế tư pháp bằng thủ tục tố tụng dân sự hoặc theo cơ chế hành chính bằng thủ tục
giải quyết khiếu nại hành chính hoặc bằng thủ tục tố tụng hành chính. Trong khi đó, đặc
điểm giải quyết của mỗi cơ chế, thủ tục này là rất khác nhau, nhất là sự khác nhau giữa
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự và giải quyết do cơ quan hành chính thực hiện.
Từ những vướng mắc, bất cập như trên, chúng tôi xin có một số kiến nghị như sau:
Một là, trước mắt, để tháo gỡ các vướng mắc và thống nhất áp dụng chung trên toàn quốc
về thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với việc khởi kiện quyết định giải quyết tranh
chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, tránh việc đùn đẩy, né tránh trên thực tế giữa
các cơ quan Tòa án với cơ quan hành chính nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao khẩn
trương chủ trì phối hợp với các cơ quan hữu quan, xây dựng, hoàn thiện và ban hành
thông tư liên tịch hướng dẫn quy định của Luật Đất đai 2013 về thẩm quyền, thủ tục giải
quyết tranh chấp đất đai, trong đó có hướng dẫn cụ thể thẩm quyền của Tòa án đối với
việc khởi kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
Việc hướng dẫn nên thực hiện theo hướng tôn trọng sự lựa chọn của đương sự và tạo điều
kiện để đương sự có điều kiện tiếp cận với công lý một cách tối đa theo quy định của
pháp luật. Chẳng hạn như trong những trường hợp có nhiều người không đồng ý với
quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, trong đó một số
người lựa chọn khởi kiện Toà án giải quyết, nhưng một số người lựa chọn khiếu nại tiếp
đến Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước và không thể tách riêng thành các vụ việc

độc lập thì nên quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết thay bằng việc giao thẩm
quyền giải quyết những vụ việc này cho cơ quan hành chính nhà nước.
Hai là, quan hệ tranh chấp đất đai trong trường hợp này xuất phát từ bản chất ban đầu là
tranh chấp dân sự giữa các bên đương sự là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với
nhau hoặc một bên là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, về lâu dài, theo chúng tôi, chỉ giao thẩm
quyền giải quyết loại tranh chấp này cho Tòa án để thực hiện theo tố tụng dân sự. Đây là


con đường tiếp cận công lý tốt nhất cho các bên đương sự và cũng phù hợp với chủ
trương cải cách tư pháp, đề cao, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Điều này là bởi lẽ so với giải quyết tranh chấp bởi cơ quan hành chính nhà
nước - một cơ chế mà thủ tục giải quyết còn mang tính khép kín và nặng tính hành chính
thì giải quyết tranh chấp bằng Tòa án có ưu điểm là công khai, minh bạch và tạo điều
kiện các bên có cơ hội “tranh tụng” để tìm ra sự thật khách quan của vụ việc bởi Tòa án
là cơ quan tư pháp, thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử nên về nguyên tắc bảo đảm khách
quan hơn khi phán quyết các đối tượng bị khởi kiện.
Trên đây là một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về
thẩm quyền của Tòa án đối với việc khởi kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, chúng tôi xin nêu ra để được trao đổi, thảo luận cùng các
quý vị./.
[1] Khoản 1 Điều 264 của Luật Tố tụng Hành chính năm 2010 quy định Khoản 2 Điều
136 của Luật đất đai được sửa đổi, bổ sung như sau: “2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất
mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các
loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như
sau:
a) Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải
quyết mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có
quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải
quyết hoặc khởi kiện theo quy định của Luật tố tụng hành chính;

b) Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải
quyết mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có
quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện theo quy
định của Luật tố tụng hành chính.”
[2] Điều 1 của Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP quy định:
“1. Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án
hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác
như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức
khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội
dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng
cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho
rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (trừ những văn bản thông báo của cơ
quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu cá nhân,


cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết, xử lý
vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó), bao gồm:
a) Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý
những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính;
b) Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ
sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại
điểm a khoản này”.
[3] Điều 31 của Luật Tố tụng hành chính xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có
đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện: “1. Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện
vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của người
khởi kiện. 2. Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy định tại Điều này”.
[4] Điều 5 của Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP xác định thẩm quyền trong trường hợp
vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện quy định tại Điều 31 của Luật TTHC:

“1. Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm
quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Toà
án phải yêu cầu người khởi kiện làm văn bản lựa chọn cơ quan giải quyết; trường hợp
người khởi kiện không làm được văn bản lựa chọn thì Toà án phải lập biên bản về việc
người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải quyết.
2. Trường hợp quyết định hành chính, hành vi hành chính chỉ có liên quan đến một người
mà người đó vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, đồng thời có đơn
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì việc giải quyết theo sự lựa
chọn của người khởi kiện. Trường hợp người khởi kiện lựa chọn Toà án giải quyết thì Toà
án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho
Toà án (nếu có). Trường hợp người khởi kiện lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại giải quyết thì Toà án căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 109 của Luật TTHC trả
lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện. Nếu hết thời hạn giải
quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng
người khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại và có đơn khởi kiện vụ án
hành chính thì Toà án xem xét để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung.


3. Trường hợp quyết định hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến nhiều người
thì phân biệt như sau:
a) Trường hợp chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm
quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, những
người khác còn lại không khởi kiện vụ án hành chính và cũng không khiếu nại đến người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết được thực hiện như trường
hợp được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này;
b) Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền,
đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và tất cả những
người này đều lựa chọn một trong hai cơ quan có thẩm quyền giải quyết (Toà án hoặc
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại) thì thẩm quyền giải quyết được thực hiện như

trường hợp được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này;
c) Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền,
đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, trong đó có
một hoặc một số người lựa chọn Toà án giải quyết và một hoặc một số người lựa chọn
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết hoặc trường hợp chỉ có một hoặc
một số người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, một hoặc một số
người khác chỉ khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì phân biệt như
sau:
c.1) Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại độc lập với
nhau thì việc giải quyết yêu cầu của người khởi kiện thuộc thẩm quyền của Toà án, còn
việc giải quyết khiếu nại của những người khiếu nại thuộc thẩm quyền của người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại. Trong trường hợp này, Toà án thụ lý giải quyết đối với yêu
cầu của người khởi kiện, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại biết về việc Toà án đã thụ lý giải quyết đối với yêu cầu của người khởi kiện;
c.2) Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại không độc
lập với nhau thì Toà án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo
cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải
quyết khiếu nại cho Toà án (nếu có)”.



×