Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Các giải pháp nâng cao hoạt động huy động vốn của ngân hàng CP Sài Gòn Thường Tín chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.42 KB, 75 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín – Chi nhánh Hà Nội
và hoàn thành báo cáo thực tập, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã được sự giúp đỡ của
ban lãnh đạo, các anh chị cán bộ công nhân viên chi nhánh Hà Nội và đặc biệt là sự hướng
dẫn tận tình của thầy giáo Lê Đức Tố, tôi có điều kiện nắm bắt tổng quát chung về tình hình
hoạt động của ngân hàng, giúp tôi tìm hiểu sâu hơn về vấn đề nghiên cứu, tiến hành hoàn thiện
được khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mặc dù tôi đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu trong quá trình thực tập và nghiên cứu đề
tài này, nhưng do hạn chế về thời gian, kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên khóa luận sẽ có
những thiếu sót, hạn chế. Tôi mong nhận được sự đánh giá của các thầy giáo, cô giáo để khóa
luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Xuân Dũng

1


MỤC LỤC

2


DANH MỤC BẢNG

3


DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1: Sơ đồ tổ chức của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín – Chi nhánh


Hà Nội
Hình 2: Tình hình tiền gửi thanh toán của các TCKT
Hình 3:Tiền gửi tiết kiệm
Hình 4: Tiền gửi của các TCTD
Hình 5: Doanh số cho vay theo thời hạn
Hình 6: Doanh số cho vay theo mục đích sử dụng vốn
Hình 7: Doanh số thu nợ theo thời hạn
Hình 8: Doanh số thu nợ theo mục đích sử dụng vốn
Hình 9: Dư nợ theo thời hạn
Hình 10: Dư nợ theo mục đích sử dụng vốn
Hình 11: Nợ xấu theo thời hạn
Hình 12: Nợ xấu theo mục đích sử dụng vốn
Hình 13: Kết quả hoạt động kinh doanh của Sacombank chi nhánh Hà Nội

4


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

5

Từ viết tắt

Từ đầy đủ

TMCP

Thương Mại Cổ Phần

ATM


Automated Teller Machine

NHTM

Ngân Hàng Thương Mại

TSCĐ

Tài Sản Có Định

NVHĐ

Nguồn Vốn Huy Động

Sacombank

Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn Thương Tín

HĐKD

Hoạt Động Kinh Doanh

GTCG

Giấy Tờ Có Giá

VNĐ
TĐH
TCKT


Việt Nam Đồng
Trung Dài Hạn
Tổ Chức Kinh Tế

TCTD

Tổ Chức Tín Dụng

NHNN

Ngân Hàng Nhà Nước


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay xã hội ngày càng phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đời sống người dân ngày càng được nâng cao. Hơn thế nữa,
đất nước ta đang trong quá trình hội nhập, mọi thành phần kinh tế đều ra sức đầu tư và phát
huy nguồn lực của mình để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cùng với sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp, nhà máy, khu chế xuất, khu công
nghiệp…thì hoạt động của ngân hàng cũng không kém phần náo nhiệt. Việt Nam đã bắt đầu
những ngày tháng đầu tiên trong lộ trình thực hiện cam kết gia nhập vào các lĩnh vực tài
chính. Các hoạt động ngân hàng bán lẻ thật sự sôi động và có tính cạnh tranh giữa các ngân
hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài (HSBC, Standard Chartered Bank, ACB, Sacombank,
ABBank…). Hòa với xu thế phát triển chung, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank) được đánh giá là cánh chim đầu đàn của hệ thống ngân hàng thương mại cổ
phần. Sacombank luôn chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng mạng lưới
hoạt động và hiện đại hóa chi nhánh ngân hàng. Với chiến lược xây dựng Sacombank thành
một ngân hàng bán lẻ, hiện đại, đa năng hàng đầu Việt Nam, toàn thể lãnh đạo và cán bộ nhân

viên Sacombank nói chung và Sacombank chi nhánh Hà Nội nói riêng đã phấn đấu và đổi mới
không ngừng để gia tăng giá trị khách hàng, cổ đông và các nhà đầu tư.
Hiện nay hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín rất phong
phú và đa dạng. Trong đó phải kể đến hoạt động huy động vốn – vấn đề quan trọng hàng đầu
trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Vốn không những giúp cho ngân hàng thực
hiện các hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan trọng trong việc đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Nhất là trong giai
đoạn hiện nay, các ngân hàng luôn phải cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển. Vấn đề
đặt ra là làm sao để huy động được nguồn vốn nhàn rỗi với nhiều mức lãi suất tương ứng với
nhiều kì hạn khác nhau và sử dụng nguồn vốn đó một cách hiệu quả. Nhận thức vấn đề
quan trọng của việc huy động vốn tại ngân hàng

6


trong thời điểm hiện nay vì vậy em chọn đề tài “Các giải pháp nâng cao hoạt động
huy động vốn của ngân hàng CP Sài Gòn Thường Tín chi nhánh Hà Nội ” làm luận văn,
từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm giúp Sacombank – chi nhánh Hà Nội nâng cao hiệu quả
hoạt động huy động vốn, đồng thời phát huy được thế mạnh sẵn có của mình trong tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu
-

Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về huy động vốn tại NHTMCP Sài Gòn Thường Tín chi

-

nhánh Hà Nội.
Nhận dạng thành công các vấn đề tồn tại và nguyên nhân hoạt động huy động vốn của

-


NHTMCP Sài Gòn Thường Tín chi nhánh Hà Nội..
Trên cơ sở phân tích thực trạng, kết hợp với phân tích các yếu tố môi trường kinh doanh của
đơn vị thực tập, đưa ra các kết luận và đề xuất giải pháp còn nhằm đẩy mạnh công tác huy
động vốn của NHTMCP Sài Gòn Thường Tín chi nhánh Hà Nội.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài nghiên cứu này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu

-

sau đây:
Phương pháp thu thập dữ liệu
Thực hiện khóa luận, tôi đã dùng các dữ liệu được thu thập từ nguồn sau:
Thực hiện phỏng vấn các chuyên gia tại

-

Thực hiện các cuộc phỏng vấn các chuyên gia tại NHTMCP Sài Gòn Thường Tín chi nhánh
Hà Nội.

+ Giáo trình, tài liệu về hoạt động của NHTM, các quy định pháp luật về các TCTD, các điều
luật liên quan đến lĩnh vực huy động tiền gửi của NHTM.
-

Số liệu thực tế trên báo cáo tài chính của NHTMCP Sài Gòn Thường Tín chi nhánh Hà Nội.

+

Trong giai đoạn năm 2014 – 2016.


-

Phương pháp xử lý dữ liệu:

+ Phương pháp thống kê tổng hợp: Thống kê tổng hợp các dữ liệu thứ cấp thu thập được.
+ Phương pháp so sánh kết hợp bảng biểu: Các dữ liệu thu được thể hiện được sự tăng giảm các
chỉ tiêu qua các năm, so sánh với kế hoạch, chỉ tiêu đã đề ra để đánh giá được sự thành công
hay hạn chế.


-

Phương pháp phân tích: Kết hợp các phương pháp trên để tổng hợp phân tích dữ liệu, đánh
giá thực trạng huy động vốn tại NHTMCP Sài Gòn Thường Tín chi nhánh Hà Nội và thông
qua dữ liệu ngoại vi để phân tích tác động của các yếu tố bên ngoài và bên trong. Kết hợp so
sánh để từ đó đưa ra giải pháp khắc phục.
4. Bố cục khóa luận
Về kết cấu, ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng TMCP Sài
Gòn Thương Tín – Chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Định hướng và một số đề xuất hoàn thiện hoạt động huy động vốn
của ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín – Chi nhánh Hà Nội.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.
Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về NHTM


Ngân hàng thương mại là nơi nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để
sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính
ngân hàng.
Theo điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua tháng
12/1997 có nêu: Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Tổ chức tín dụng là loại hình
doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật
để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng
tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Hiện nay ở Việt Nam, NHTM tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau:
- Ngân hàng thương mại Nhà nước: Đây là các ngân hàng giữ vai trò chủ đạo trong hệ
thống ngân hàng ở nước ta, do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức hoạt động kinh
doanh, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
- Ngân hàng thương mại cổ phần: Là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ
phần, trong đó có các doanh nghiệp Nhà nước, tổ chức tín dụng, tổ chức khác và cá nhân cùng
góp vốn theo quy định của ngân hàng Nhà nước. Loại hình ngân hàng này hiện tại nhỏ hơn
ngân hàng thương mại Nhà nước về quy mô nhưng về số lượng nhiều hơn và ngày càng tỏ ra
năng động và nhanh chóng đổi mới công nghệ nhằm mục tiêu hội nhập.
- Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài, có trụ sở
chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài,
được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ và cam kết của
chi nhánh tại Việt Nam. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền và nghĩa vụ do pháp luật
Việt Nam quy định, hoạt động theo giấy phép mở chi nhánh và các quy định liên quan của
pháp luật Việt Nam.
Bất cứ hình thức hoạt động nào của NHTM cũng bao gồm ba nghiệp vụ: nghiệp vụ nợ
(huy động vốn), nghiệp vụ có (sử dụng vốn) và nghiệp vụ môi giới trung gian (dịch vụ thanh



toán, tư vấn, bảo lãnh…). Ba loại nghiệp vụ trên có mối quan hệ mật thiết, có tác động hỗ trợ,
thúc đẩy cùng phát triển tạo nên uy tín cho ngân hàng.
Ngân hàng thương mại ra đời do yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế: cơ sở nền sản
xuất và lưu thông hàng hóa, và nền kinh tế ngày càng phát tiển càng cần đến hoạt động của
các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình nhất là chức năng
trung gian tín dụng NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.2.

Chức năng của NHTM
Trong quá trình hoạt động của mình, NHTM thực hiện các chức năng sau:

-

Chức năng làm trung tín dụng
Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM làm "cầu nối" giữa người thừa vốn và
người thiếu vốn và nó đã không chỉ đem lại lợi ích cho những người dư thừa vốn và những
người thiếu vốn mà còn đem lại lợi ích kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân
hàng, đây là lợi nhuận của ngân hàng từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi
hoặc hoa hồng môi giới. Với chức năng này, ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động
thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.

-

Chức năng trung gian thanh toán
Chức năng trung gian thanh toán có nghĩa là ngân hàng thực hiện thanh toán hộ cho
khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác theo yêu cầu của họ.
Thông qua chức năng này ngân hàng đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và
cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tiền của khách hàng, chi tiền hộ cho khách hàng. Nền
kinh tế thị trường càng phát triển thì chức năng này của ngân hàng ngày càng được mở rộng.

Thông qua chức năng trung gian thanh toán, hệ thống NHTM góp phần phát triển nền
kinh tế. Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng sẽ làm giảm rủi ro, giảm chi phí
thanh toán cho khách hàng đồng thời tốc độ luân chuyển vốn kinh doanh của khách hàng
nhanh hơn, làm cho hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng tăng. Đối với NHTM, chức năng
này góp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Hơn nữa, nó
lại tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có tài khoản tiền gửi của khách
hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của NHTM.

-

Chức năng tạo tiền


Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng: Từ một số dự trữ ban
đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng chuyển khoản của ngân hàng thì lượng
tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá
trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng.
Một ngân hàng sau khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền gửi của khách hàng
tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại một khoản dự trữ bắt buộc, ngân
hàng sư đem đi đầu tư, cho vay từ đó nó sẽ chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với
vòng quay của vốn thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng, NHTM thực
hiện được chức năng tạo tiền.
1.1.3 Vai trò của NHTM
1.1.3.1. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế muốn sản
xuất, kinh doanh thì cần phải có vốn để đầu tư, mua sắm tư liệu, phương tiện để sản xuất kinh
doanh…mà nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, cá nhân luôn luôn lớn hơn vốn tự có, do đó cần
phải tìm đến những nguồn vốn từ bên ngoài. Mặt khác lại có một lượng vốn nhàn rỗi do quá
trình tiết kiệm, tích luỹ của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác.
Với hoạt động đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá

nhân, mọi thành phần kinh tế thông qua nghiệp vụ tín dụng, NHTM đã cung cấp vốn cho nền
kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Chính nhờ hoạt động của hệ thống
NHTM, đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện cải thiện hoạt động
kinh doanh của mình, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế.
1.1.3.2. Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có hiệu quả
sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua
hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở
rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho
nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị
trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo
phương châm “Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.3.3. Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác
động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh


tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường về mọi phương diện giá cả, khối
lượng, chất lượng... Để có thể đáp ứng tốt nhất những nhu cầu đó doanh nghiệp không những
cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ cấu kinh tế mà còn phải không
ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất, tìm tòi và sử dụng nguyên
vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi phải
có một lượng vốn đầu tư lớn, nhiều khi vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Do đó để giải
quyết khó khăn này doanh nghiệp đến ngân hàng xin vay vốn để thoả mãn nhu cầu đầu tư của
mình.Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho doanh nghiệp, ngân hàng là cầu nối doanh
nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp đóng
vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh
doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc
trong cạnh tranh.
1.1.3.4. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính

quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường khi các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng được mở
rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên
cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế ở các quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy nền tài chính của
mỗi quốc gia cũng phải hòa nhập với nền tài chính quốc tế và NHTM với các hoạt động của
mình đã đóng góp vai trò vô cùng quan trọng trong sự hòa nhập này. Với các nghiệp vụ như
thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác NHTM tạo điều kiện thúc đẩy
hoạt động ngoại thương phát triển. Còn thông qua hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại
hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài
chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1.1.4

Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa, cung cấp vốn cho nền kinh tế. Với
sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh,
đa dạng và phong phú hơn song ngân hàng vẫn duy trì các nghiệp vụ cơ bản sau:
1.1.4.1. Nghiệp vụ huy động vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản và quan trọng nhất, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân
hàng. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng sẽ tạo uy tín cho ngân hàng ngày
càng cao. Do đó các NHTM phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước,
của địa phương, từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp, nhất là các nguồn vốn trung, dài
hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghiệp vụ
huy động vốn cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau:


 Nghiệp vụ tiền gửi
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động ngân hàng nhận các khoản tiền gửi từ các doanh
nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó NHTM có thể huy
động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay

các hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền
gửi.
 Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá
Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính thời hạn
tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, khả năng cung cấp đủ các khoản tín
dụng mang tính trung và dài hạn vào nền kinh tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này còn giúp các
NHTM giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh.
 Nghiệp vụ đi vay
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích tạo vốn
kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay ngân
hàng Nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo. Trong đó các khoản
vay từ ngân hàng Nhà nước chủ yếu nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân
NHTM khi mà nó không tự cân đối được nguồn vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ.
 Nghiệp vụ huy động vốn khác
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể tạo vốn kinh
doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động không thường xuyên của NHTM, thường để
nhận được khoản vốn này đòi hỏi các ngân hàng phải lập ra các dự án cho từng đối tượng
hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay.
1.1.4.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ sử dụng vốn có
hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường. Do vậy ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho
hợp lý nhất.
 Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê nhìn chung thì
khoảng 60%-75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công hay thất
bại của một ngân hàng tùy thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và thành công
của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại
bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp

hoàn trả…

 Hai là, tiến hành đầu tư


Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu khác
nhau. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình
thức chủ yếu mà các NHTM có thể tiến hành là :
- Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các doanh
nghiệp, các công ty khác.
- Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
 Ba là, nghiệp vụ ngân quỹ
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản xuất
kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng loạt các nhân tố cần quan
tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy
mạo hiểm, trong hoạt động của mình ngân hàng không thể bỏ qua sự an toàn. Vì vậy, ngoài
việc cho vay và đầu tư để thu lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy
động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt
buộc do Trung ương đề ra.
1.1.4.3. Nghiệp vụ khác
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó là
ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để thanh
toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều
hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ cung cấp
mạng lưới thanh toán điện tử… Mặt khác, các NHTM còn tiến hành môi giới, mua, bán chứng
khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty. Ngoài ra ngân
hàng còn thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát,
ủy thác giải ngân và thu hộ. Như vậy, các nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho
ngân hàng tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như
hiện nay, vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với

nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng
vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo
thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều
kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
1.2.
Vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.1. Khái niệm về vốn của NHTM

Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được, dùng
để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Vốn của ngân hàng được hình thành qua các nguồn khác nhau. Để bắt đầu hoạt động
của ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định, được gọi là vốn ban đầu.
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng khối lượng vốn của mình thông qua các hoạt


động huy động vốn như nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ đi vay và các nghiệp vụ khác (dịch vụ
ủy thác, trung gian thanh toán…).
Thực chất, vốn của ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi
trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân
hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền
sử dụng vốn cho ngân hàng, để ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập.
Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn dưới hình
thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích thích mọi hoạt động kinh tế phát
triển. Đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
1.2.2.

Vai trò của nguồn vốn với hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.2.1. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Khác với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt động của

ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn
là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên
thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài
hạn). Quá trình kinh doanh tiền tệ của ngân hàng được mã hóa bằng công thức T-T’, trong đó
T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là nguồn vốn thu về sau một quá trình đầu tư, tiến hành hoạt
động kinh doanh : T’>T. Từ công thức này có thể khẳng định ngân hàng nào trường vốn là
ngân hàng có nhiều thế mạnh trong cạnh tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết
(vốn điều lệ) theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn
trong suốt quá trình hoạt động của mình.
1.2.2.2. Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên
thương trường
Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, nếu không có uy tín thì ngân
hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín được thể hiện ở khả
năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng
càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả
năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng
của ngân hàng nói riêng. Với khả năng huy động vốn cao, ngân hàng có thể hoạt động kinh
doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả, góp
phần vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thương trường.
1.2.2.3. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng


Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh giúp
các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng vốn chính là yếu tố
quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh : quy mô vốn, trình độ
nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện
tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô,
khối lượng tín dụng, chủ động về thời hạn, lãi suất. Kết quả của sự gia tăng trên giúp ngân
hàng kinh doanh đa năng trên thị trường, phân tán rủi ro, tạo thêm vốn cho ngân hàng và khi

đó tất yếu trên thương trường sức cạnh tranh của ngân hàng sẽ tăng lên.
1.2.2.4. Vốn quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác
Tùy theo quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động được mà các ngân hàng sẽ quyết định
quy mô và cơ cấu đầu tư. Với nguồn vốn huy động lớn, ngân hàng có đủ khả năng mở rộng
phạm vi và khối lượng cho vay không chỉ giới hạn trên thị trường trong nước mà còn cho vay
vượt ra khỏi lãnh thổ một quốc gia (cho vay trên thị trường quốc tế). Ngược lại, do khả năng
vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không có những phản ứng nhanh nhạy trước sự biến động
của lãi suất, ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư. Nói chung, một ngân hàng có nguồn
vốn dồi dào sẽ đáp ứng được nhu cầu xin vay, dễ dàng mở rộng thị trường tín dụng, tăng khả
năng thanh toán và các dịch vụ khác của ngân hàng.
1.2.3.

Kết cấu nguồn vốn của NHTM
Nguồn vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được,
dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó bao gồm:
Vốn chủ sở hữu
Trong các loại vốn của NHTM, vốn chủ sở hữu mang tính ổn định và có tính bắt buộc.

1.2.3.1.

Ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để trang bị cơ sở vật chất, các điều kiện hình thành khi
mới thành lập. Vốn chủ sở hữu cũng là căn cứ để tính toán các tỉ lệ đảm bảo an toàn trong
hoạt động ngân hàng. Vậy “Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn riêng của một NHTM, bao gồm số
vốn ban đầu và số vốn gia tăng không ngừng cùng với sự phát triển của NHTM”(Nguồn:

-

Giáo trình quản trị tác nghiệp NHTM – Đại học Thương Mại)
Thành phần của vốn chủ sở hữu:
Vốn điều lệ

Là nguồn vốn đầu tư ban đầu của chủ ngân hàng. Vốn điều lệ được ghi trong bản điều
lệ của ngân hàng. Vốn điều lệ phải đạt mức tối thiểu theo quy định của pháp luật và được gọi
là vốn pháp định. Tuỳ vào từng loại ngân hàng mà Chính phủ quy định mức vốn pháp định

-

khác nhau.
Vốn bổ sung trong quá trình kinh doanh


Ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên những điều kiện pháp lý về vốn phải
tuân thủ nghiêm ngặt. Ngoài ra, việc bổ sung vốn trong quá trình hoạt động luôn là nhiệm vụ
hàng đầu của mỗi ngân hàng, góp phần nâng cao vị thế của NHTM trên thương trường. Tuỳ
vào điều kiện cụ thể mà ngân hàng có thể gia tăng vốn theo các phương thức khác nhau và
tuân thủ các quy định của pháp luật:
Một là, bổ sung vốn từ lợi nhuận.
Việc bổ sung vốn từ nguồn thu nhập luôn là mong muốn của hầu hết các ngân hàng vì
khi thu nhập ròng lớn ngân hàng có thể thực hiện việc gia tăng vốn bằng cách chuyển một
phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Luật pháp cho phép các ngân hàng giữ lại một phần lợi
nhuận để mở rộng hoạt động kinh doanh hoặc đầu tư.
Hai là, bổ sung thêm vốn phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm.
Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần việc phát hành thêm cổ phiếu là phương
thức hiệu quả để tăng vốn chủ sở hữu. Công việc này được thực hiện bằng cách ngân hàng
phát hành quyền mua cổ phần cho các cổ đông hiện hữu, mỗi cổ đông sẽ được mua cổ phiếu
theo tỉ lệ cổ phiếu đang nắm giữ. Ngân hàng sử dụng vốn để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của
-

chủ sở hữu do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Các quỹ
Hoạt động của ngân hàng không thể thiếu các quỹ như quỹ thặng dư cổ phần, quỹ dự

phòng tổn thất, quỹ bảo tồn vốn… Mỗi quỹ có mục đích riêng và việc trích lập phải đảm bảo

1.2.3.2.
-

nguyên tắc và quy định trong hạch toán kế toán
Vốn tiền gửi
Khái niệm
Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, với chức năng huy động vốn và sử dụng
nguồn vốn để cho vay và đầu tư. Ngân hàng huy động vốn từ dân chúng, trả lãi cho các khoản
tiền gửi đó, sử dụng vốn đố vào mục đích kinh doanh của mình là cho vay và đầu tư với mục
tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Vì thế, vốn tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất trong hoạt động
kinh doanh của một NHTM. Vậy “Tiền gửi là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà
ngân hàng đang tam thời quản lý sử dụng với trách nhiệm hoàn trả”. (Nguồn: Giáo trình quản

-

trị tác nghiệp NHTM – Trường đại học Thương Mại)
Đặc điểm

+ Tiền gửi trong NHTM chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM
+ Các NHTM hoạt động được chủ yếu nhờ vào nguồn vốn tiền gửi. Do nguồn vốn này chiếm tỷ
trọng lớn nên hầu hết các hoạt động chính của ngân hàng đều phải dựa vào nguồn vốn này.
+ Tiền gửi là nguồn vốn không ổn định, khách hàng vẫn có thể rút tiền của họ và không bị rằng
buộc, nếu có ngân hàng chỉ phạt bằng việc trả lãi thấp hơn lãi đã cam kết với khách hàng.


-

Các loại tiền gửi


+ Tiền gửi thanh toán
Việc mở tài khoản và cung cấp dịch vụ thanh toán là một trong những dịch vụ đầu tiên
của một NHTM. Khách hàng nộp tiền vào ngân hàng và khoản này sẽ được hạch toán vào tài
khoản thanh toán. Thực chất đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng
nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ.
+ Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Nhiều doanh nghiệp, tổ chức xã hội có hoạt động thu, chi tiền theo các chu kỳ xác
định. Họ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi đồng thời tình toán như cầu vốn ở một thời
điểm nhất định để lựa chọn kỳ hạn tiền gửi. Mức lãi suất tiền gửi có kì hạn phụ thuộc vào thời
hạn ghi trên hợp đồng và thông thường thời hạn gửi càng dài thì lãi suất càng cao và ngược
lại.
+ Tiền gửi tiết kiệm
Trong dân chúng luôn tồn tại các khoản thu nhập tậm thời chưa sử dụng. Khi đó họ có
thể tới ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ hộ và mong muốn ngân hàng sẽ trả một khoản lãi. Đó
là hành vi gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Để có thể sử dụng tiền gửi, ngân hàng cam kết cho
người gửi tiền một khoản lãi. Phần lãi này sẽ được tính toán dựa trên số tiền gửi và kỳ hạn.
+ Tiền gửi của các ngân hàng khác
Để đảm bảo khả năng thanh khoản hoặc nhờ thanh toán hộ hoặc nằm trong chiến lược
sử dụng vốn của mình, các ngân hàng thường có những giao dịch nhận gửi tiền qua nhau.
Ngân hàng gửi tiền tại một ngân hàng khác được coi là một khách hàng và được hưởng những
quyền lợi như một khách hàng tiền gửi thông thường.
1.2.3.3.
-

Các nguồn vốn phi tiền gửi
Tiền vay
Sự phát triển của ngân hàng, đặc biệt là sự lớn mạnh của hoạt động tín dụng đòi hỏi
các ngân hàng cần phải bổ sung những nguồn vốn mới dồi dào hơn so với nguồn truyền thống
và ngân hàng đã tìm tới thị trường tiền tệ. Hiện nay, các ngân hàng có thể sử dụng một số

kênh sau:
Thứ nhất, vay Ngân hàng Nhà Nước


Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế. Khi
rơi vào tình trạng thiếu vốn hoặc cần giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả, các NHTM có
thẻ vay tiền tại NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là chiết khấu hoặc tái cấp vốn.
Thứ hai, vay các tổ chức tín dụng
Ngành ngân hàng càng phát triển thì hoạt động thanh toán giao dịch liên ngân hàng
cũng phát triển. Cụ thể là giữa các NHTM có thể vay mượn nhau trên thị trường liên ngân
hàng trong một thời gian ngắn với mức lãi suất hợp lý để đảm bảo mức dự trữ tiền gửi theo
quy định và đáp ứng nhu cầu ngân quỹ đột xuất.
Thứ ba, vay trên thị trường tài chính
NHTM có thể huy động vốn trên thị trường tài chính. Ngân hàng có thể thực hiện huy
động vốn bằng các phát hành các giấy tờ có giá như: kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Khi sử
dụng phương pháp huy động này các NHTM xác nhận nghĩa vụ trả nợ trọng một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác. Thời hạn huy động vốn có thể là ngắn
-

hạn, trung hạn và dài hạn.
Vốn phi tiền gửi
Ngoài vốn vay, vốn phi tiền gửi khác gồm: tiền trong thanh toán, nguồn uỷ thác,
thuế chưa nộp, tiền lương chưa trả.

+ Tiền trong thanh toán
Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt bao gồm hoạt động thanh toán quốc tế,
thanh toán trong nước và thanh toán nội bộ. Các hoạt đồng này hình thành nguồn vốn trong
thanh toán của các NHTM.
+ Các khoản treo chờ xử lý
Ngân hàng trong quá trình hoạt động thường có những giao dịch chưa xác định đúng

phát sinh giao dịch mà phải chờ xử lý.Ngân hàng có thể coi đây như một nguồn vốn và được
phép sử dụng khi chưa xác định nguyên nhân và quyết toán.
+ Tiền uỷ thác
Tiền uỷ thác là nguồn tiền mà NHTM được Nhà nước hoặc các tổ chức tín dụng khác
uỷ thác cho nhiệm vụ nào đó. Các nghiệp vụ uỷ thác bao gồm: uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu
tư, uỷ thác cấp phát… Với chức năng này, NHTM thể hiện vay trò là một tổ chức tài chính
trung gian, kênh dẫn vốn cho những chủ thể nhận vốn đúng mục đích. Nguồn vốn này bổ
sung vào tổng vốn kinh doanh của NHTM.
1.3.
Một số vấn đề lý luận về hoạt động huy động vốn của NHTM
1.3.1. Khái niệm huy động vốn


Huy động vốn là nghiệp vụ tiếp nhận nguồn vốn tạm thời nhàn dỗi từ các tổ chức và
nhân bằng nhiều hình thức khác nhau để tạo thành nguồn vốn hoạt động của ngân hàng.
(Nguồn: Giáo trình quản trị tác nghiệp NHTM – Đại học Thương Mại)
1.3.2.
-

Các hình thức huy động vốn
Cơ cấu vốn theo kì hạn

+ Vốn ngắn hạn: Là hình thức NHTM huy động vốn không kỳ hạn và có kỳ hạn với thời gian
ngắn. Nguồn vốn này tối đa là 1 năm.
+ Vốn trung/dài hạn: Có thời gian huy động trên 1 năm. Nguồn vốn này được các NHTM sử
dụng để cho các doanh nghiệp vay trung hạn đối với các dự án đầu tư chiều sâu mở rộng sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho bản thân doanh
nghiệp. Lãi suất mà NHTM phải trả cho chủ sở hữu nguồn vốn này thường cao hơn nguồn
vốn ngắn hạn
-


Cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng

+ Huy động từ các tổ chức kinh tế: Với tư cách là trung tâm thanh toán, các NHTM thực hiện
việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho các khách hàng. Từ đó một khối lượng tiền khổng
lồ được chuyển qua các NHTM để thực hiện chức năng thanh toán của nó theo yêu cầu của
chủ tài khoản. Do đó sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải trả, cho nên hệ
thống tài khoản thanh toán của ngân hàng luôn hình thành một số dư tiền gửi nhất định và nó
đã trở thành nguồn vốn huy động có chi phí thấp, nếu biết khai thác sử dụng thì nguồn vốn
này sẽ mang lại hiệu quả rất lớn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
+ Huy động từ các tầng lớp dân cư: Mỗi một gia đình và cá nhân trong xã hội đều có những
khoản tiền tiết kiệm để dự phòng cho những nhu cầu chi dùng cho tương lai. Khi xã hội càng
phát triển thì khoản dự phòng này càng lớn. Nắm được tình hình đó, các NHTM đã tìm mọi
hình thức nhằm huy động tối đa các khoản tiết kiệm này, từ đó tạo ra một nguồn vốn không
nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và thu được lợi nhuận cho bản thân ngân hàng.
+ Vốn vay từ ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn vốn mà ngân
hàng có được nhờ quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHNN, giữa các NHTM với nhau và
với các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn này ngân hàng phải chịu với chi phí cao hơn, vì vậy
chỉ trong trường hợp ngân hàng thiếu vốn khả dụng trong thời gian ngắn thì ngân hàng mới đi
vay.


-

Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền gửi

+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng mà không có sự thoả
thuận trước về thời gian rút tiền. Với loại tiền gửi này ngân hàng chỉ phải trả với một mức lãi
suất thấp. Bởi vì tiền gửi loại này rất biến động, khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào, do đó
ngân hàng không chủ động sử dụng số vốn này, ngân hàng phải dự trữ một số tiền đảm bảo để

có thể thanh toán ngay khi khách hàng có nhu cầu.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng có sự thoả thuận trước về
thời hạn rút tiền. Loại tiền gửi này tương đối ổn định vì ngân hàng xác định được thời gian rút
tiền của khách hàng. Do đó ngân hàng có thể chủ động sử dụng số tiền gửi đó vào mục đích
kinh doanh trong thời gian ký kết. Đối với loại tiền gửi này, ngân hàng có rất nhiều loại thời
hạn từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng… mục đích là tạo cho khách hàng có được nhiều kỳ hạn gửi
phù hợp với thời gian nhàn rỗi của khoản tiền mà họ có. Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn
lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
-

Cơ cấu theo nghiệp vụ huy động vốn

+ Huy động vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi
Ở Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu là số tiền
của khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi
có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Trên phương diện chủ thể gửi tiền thì tiền
gửi có thể được chia thành hai loại: tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội
và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
+ Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là lẽ tất nhiên,
đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Khi một NHTM thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu vốn của khách
hàng hay cho mục đích đầu tư phát triển mà các nguồn khác chưa đủ đáp ứng thì NHTM có
thể đi vay. Nghiệp vụ vay vốn của NHTM có thể chia thành hai loại chính: Vay thông qua
phát hành giấy tờ có giá và vay trực tiếp.
+ Huy động vốn qua nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá


Trái phiếu ngân hàng: Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của
ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi phát
hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung/dài hạn.Việc phát hành trái phiếu, các NHTM

chịu sự quản lý của ngân hàng nhà nước, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán
và có thể bị chi phối bởi uy tín của ngân hàng.
Kỳ phiếu ngân hàng: Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc
điểm giống như trái phiếu nhưng có thời gian ngắn hạn hơn trái phiếu, vì vậy nó được sử
dụng cho mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một
ngân hàng, người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến
hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường.
+ Huy động vốn qua hình thức khác
Ngoài các nghiệp vụ trên, ngân hàng có thể huy đông vốn bằng cách sử dụng nguồn
tiền trong thanh toán, tiền treo chờ xử lý, tiền uỷ thác. Đây cũng là nguồn vốn ngân hàng có
thể tận dụng để phục vụ cho nhu cầu cho vay và cung cấp các dịch vụ cho thị trường.
1.4.
Chất lượng huy động vốn và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng huy động vốn của NHTM
1.4.1. Khái niệm chất lượng huy động vốn

Huy động vốn được xem là có hiệu quả, đạt được chất lượng khi thỏa mãn những điều
-

kiện say:
Vốn huy động phải đạt được chỉ tiêu mà ngân hàng lập kế hoạch đề ra, đáp ứng được nhu cầu
cho vay đối với mọi thành phần kinh tế, bên cạnh đó ngân hàng còn có thể dùng để đầu tư

-

hoặc kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Chi phí cho nguồn vố huy động phải thấp nhất, đảm bảo cho việc cho vay có lãi.
Cơ cấu nguồn huy động dài phải chiếm tỷ trọng nhiều hơn cơ cấu vốn huy động ngắn hạn vì
nguồn vốn huy động dài hạn có tính chất ổn định, ngân hàng có thể dễ dàng lập kế hoạch cho
việc sử dụng vốn này.

Với những điều kiện trên thì nếu một NHTM thực hiện được thì công tác huy động
vốn của NHTM đó đạt được chất lượng và hiệu quả.

1.4.2. Các chỉ tiêu định lượng

Sự biến đổi về quy mô, kết cấu nguồn vốn huy động sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay,
đầu tư và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro của hoạt động kinh doanh. Xu hướng
biến đổi nguồn vốn huy động phải đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong tương lai về cho vay
ngắn hạn, trung dài hạn, cho vay nội tệ và ngoại tệ.
-

Quy mô huy động vốn, kết cấu huy động vốn


+

Tỉ lệ vốn huy động/tổng nguồn vốn =

Vốn huy động

Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này đánh giá tỷ lệ vốn huy động được so với tổng nguồn vốn, cho thấy trong tổng
nguồn vốn hoạt động của ngân hàng có bao nhiêu vốn hình thành từ huy động.

+

Tổng dư nợ
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng huy động vốn của các chi nhánh để phục vụ cho vay, chỉ tiêu
Chỉ tiêu sử dụng vốn =


này còn đánh giá ngân hàng có sử dụng hiệu quả vốn huy động để cho vay hay không.
+

Tổng NVHĐ năm(n) – Tổng NVHĐ năm(n-1)
Tổng NVHĐ năm(n-1)
Chi tiêu này thể hiện khả năng tăng trưởng lượng vốn huy động qua từng năm. Chỉ tiêu này
Tỉ lệ tăng trưởng NVHĐ =

càng cao, thì chứng tỏ ngân hàng đó có sức tăng trưởng mạnh, tính cạnh tranh cao trong thị
trường.
-

Chi phí huy động vốn

+

Tỉ lệ chi phí huy động vốn =

Chi phí huy động vốn
Tổng chi phí
Chỉ tiêu này đánh giá chi phí của ngân hàng phải bỏ ra cho hoạt động huy động vốn so với
tổng chi phí hoạt động, tỉ lệ này càng cao thì càng tốt.

+

Chênh lệch lãi suất = Lãi suất cho vay – Lãi suất huy động
Chỉ tiêu này phản ảnh lợi nhuận thu được trong quá trình huy động vốn và cho vay

-


Đảm bảo an toàn vốn

+

Tỉ lệ vốn chủ sở hữu/Tổng nguồn vốn =

Tổng vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Chỉ số này thể hiện mối quan hệ giữa tổng vốn chủ sở hữu và tổng nguồn vốn của ngân hàng.
Chỉ số này thể hiện mối quan hệ giữa tổng vốn chủ sở hữu với các khoản nợ, khả năng bù đắp
các tổ thất đối với các cam kết hoàn trả của ngân hàng.

+

Tổng chi phí trả lãi + Chi phí phi lãi
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này phản ánh chi phí bình quân ngân hàng phải bỏ ra trong quá trình huy

Chi phí huy động vốn bình quân =

động vốn. Vì trong quá trình này, ngân hàng còn phải chịu các chi phí khác như chi phí tiền
lường cho nhân viên, chi phí in ấn phát hành, chi phí cơ sở, chi phí giao dịch…
+

Tổng vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản rủi ro
Chỉ số này là tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn, nó đo lường mối quan hệ giữa tổng vốn chủ

Tỉ lệ đảm bảo an toàn vốn =


sở hữu với tổng tài sản rủi ro. Ở đây tài sản rủi ro bao gôm tất cả các loại tài sản của ngân
hàng trừ tiền mặt.
-

Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn


Nguồn vốn và sử dụng vốn đó là hai quá trình hoạt động của ngân hàng. Công tác cân
đối vốn của ngân hàng là một chiến lược huy động vốn đúng đắn, phù hợp với kế hoạch sử
dụng vốn trong từng thời kỳ sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại đạt được mục tiêu
lợi nhuận tối đa và tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh. Sự hài hoà giữa huy động vốn và sử
dụng vốn chính là công tác cân đối vốn của ngân hàng. Công tác cân đối vốn là hết sức quan
trọng và cần thiết đối với bất kỳ ngân hàng nào. Đó là một biện pháp nghiệp vụ, là một công
cụ quản lý của nhà lãnh đạo ngân hàng, thông qua bảng cân đối đa lập, các cán bộ ngân hàng
xem xét, phân tích cơ cấu, tỷ trọng các nguồn và từng khoản sử dụng để dự đoán nhu cầu vốn
biến động trong tương lai, từ đó có chính sách huy động vốn thích hợp.
1.5.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM
1.5.1. Các nhân tố môi trường kinh doanh
- Chính sách pháp luật của nhà nước về hoạt động ngân hàng

Pháp luật được đặt ra để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội, là một trong những nhân tố
ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của các NHTM.Do vậy tất cả mọi hoạt động
của ngân hàng đều chịu sự điều chỉnh của luật pháp. Cụ thể là: Luật các tổ chức tín dụng
2010, Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các văn bản pháp luật khác như: Thông tư, chỉ
thị... .Lĩnh vực hoạt động của ngân hàng là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy các
hoạt động của ngân hàng luôn được Nhà nước quản lý chặt chẽ bằng các văn bản pháp
quy.Mỗi văn bản đều có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động ngân hàng, kể cả hoạt động huy
động vốn.

Cụ thể chính sách pháp luật tác động hoạt động huy động vốn của ngân hàng: Bằng
công cụ điều chỉnh lãi suất, thay đổi quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hay các chính sách về
kinh tế, sự thay đổi đó sẽ tác động trực tiếp tới lãi suất của ngân hàng, các quy trình, quy định
về nghiệp vụ, ảnh hưởng tới nhu cầu của khách hàng. Do đó chính sách pháp luật tác động
làm ngân hàng có thể sẽ gặp khó khăn hơn hoặc thuận lợi hơn trong hoạt động huy động vốn
của mình.
-

Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến khả năng thu nhập,
chi tiêu, thanh toán và nhu cầu về vốn và tiền gửi của dân cư và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động huy động vốn của ngân hàng.
Sự thay đổi của các yếu tố: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỉ lệ lạm phát, thu nhập bình
quân đầu người thay đổi, chính sách đầu tư, tiết kiệm của chính phủ… sẽ ảnh hưởng đến khả
năng tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư và từ đó ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của


NHTM. Ví dụ khi thu nhập bình quân đầu người tăng thì tiêu dùng và tiết kiệm tăng và người
dân gửi tiền vào NH tăng và ngược lại.
-

Dân số
Môi trường dân số là yếu tố rất quan trọng bởi nó không chỉ tạo thành nhu cầu và kết
cấu nhu cầu của dân cư về sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà còn là căn cứ để hình thành hệ
thống phân phối của ngân hàng. Đồng thời, môi trường dân số là cơ sở để xây dựng và điều
chỉnh hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Môi trường dân số ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động của ngân hàng do đó ngân hàng phải nghiên cứu kĩ lưỡng môi trường kinh tế trước khi
đưa ra chiến lược huy động để có thể có được nguồn vốn phù hợp với nhu cầu của ngân hàng
về chất lượng, số lượng và thời hạn…


-

Môi trường công nghệ
Sự thay đổi về công nghệ có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế và xã hội. Hoạt động
ngân hàng là một trong những hoạt động chịu sự tác động mạnh mẽ của công nghệ, hoạt động
ngân hàng là hoạt động không thể tách rời khỏi sự phát triển của công nghệ đặc biệt là công
nghệ thông tin.
Công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quy trình phát triển của ngân hàng, nó đem lại cho
ngân hàng nhiều cơ hội nhưng cũng mang lại hàng loạt thách thức mới. Công nghệ mới cho
phép ngân hàng đổi mới quy trình, nghiệp vụ, cách thức phân phối sản phẩm, phát triển sản
phẩm mới… Nhờ có công nghệ mà hoạt động huy động vốn được cải tiến, rút ngắn thời gian
giao dịch và thực hiện nghiệp vụ chính xác… giúp ngân hàng có khả năng thu hút được nhiều
vốn, nhiều khách hàng, tăng thu nhập và uy tín của khách hàng.

-

Môi trường văn hóa xã hội
Mỗi quốc gia đều có văn hoá riêng, văn hoá chính là yếu tố tạo nên bản sắc dân tộc
như: Tập quán thói quen tâm lí… Đối với ngân hàng hoạt động huy động vốn là hoạt động
chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường văn hoá. Cụ thể ở các nước phát triển người dân có thói
quen gửi tiền vào ngân hàng để hưởng những tiện ích trong thanh toán, hưởng lãi và trong
tiềm thức của họ ngân hàng là một phần không thể thiếu được, là một phần tất yếu trong nền
kinh tế. Do vậy ngân hàng gặp không mấy khó khăn trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong
dân cư và tổ chức kinh tế. Ngược lại, ở các nước đang phát triển như Việt Nam việc huy động
vốn của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn vì người dân Việt Nam nay vẫn chưa quen sử dụng
các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng đã chú trọng đến Marketing, tiếp thị sản phẩm nhưng chưa
đẩy mạnh các hoạt động này nên người dân còn thiếu hiểu biết về chủ trương chính sách của
nhà nước, hoạt động của ngân hàng vì vậy cho đến nay vẫn còn tình trạng có tiền nhưng



×