Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Pháp luật về thi hành án trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng từ thực tiễn ở thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN TRONG LĨNH VỰC TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LÊ VĂN THỤY

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Pháp luật về thi hành án trong
lĩnh vực tín dụng ngân hàng từ thực tiễn ở thành phố Hải Phòng” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Bùi Ngọc Cường.
Các kết quả nêu trong luận văn, các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Người cam đoan

Lê Văn Thụy


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, hướng dẫn,


giúp đỡ của nhiều cá nhân, tổ chức.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô đã tham gia giảng dạy chương
trình đào tạo thạc sĩ ngành Luật Kinh tế tại Viện Đại học Mở Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Ngọc Cường, đã tận tình
giảng dạy, hỗ trợ và định hướng nghiên cứu trong suốt quá trình tôi thực hiện
đề tài luận văn thạc sĩ này.
Hà Nội, ngày

tháng

Học viên

Lê Văn Thụy

năm 2018


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. CHV

Chấp hành viên

2. CQTHADS

Cơ quan thi hành án dân sự

3. TAND

Tòa án nhân dân


4. THA

Thi hành án

5. THADS

Thi hành án dân sự

6. THATDNH

Thi hành án tín dụng ngân hàng

7.VAMC

Công ty quản lý tài sản của các tổ
Chức tín dụng.


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ THI HÀNH ÁN TRONG LĨNH VỰC
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG........................................................................... 7
1.1. Khái niệm thi hành án tín dụng ngân hàng ......................................... 7
1.2. Đặc điểm của thi hành án tín dụng ngân hàng .................................. 12
1.3. Vai trò của thi hành án tín dụng ngân hàng ...................................... 14
1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành án tín dụng ngân hàng ............. 16
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành án TDNH ................... 19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN TRONG
LĨNH VỰC TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ...................................................................... 23

2.1. Những vấn đề cơ bản của thi hành án trong lĩnh vực tín dụng ngân
hàng theo pháp luật hiên hành .................................................................. 23
2.1.1.Các quy định về thủ tục thi hành án tín dụng ngân hàng ...................... 23
2.1.2. Các quy định về biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án tín dụng
ngân hàng ..................................................................................................... 27
2.2. Thực tiễn thi hành án tín dụng ngân hàng ở Thành phố Hải Phòng 46
2.2.1. Những đặc điểm về kinh tế-xã hội của thành phố Hải Phòng ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động thi hành án tín dụng ngân hàng ................................ 46
2.2.2. Về hoạt động thi hành án tín dụng ngân hàng ở thành phố Hải Phòng
trong những năm gần đây ............................................................................. 49
2.2.3. Một số nhận xét về công tác thi hành án tín dụng ngân hàng ở thành
phố Hải Phòng.............................................................................................. 55
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN TRONG LĨNH VỰC TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM ........................................................ 75
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án.................................. 75


3.1.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của các bên liên quan trong quá trình thi hành án tín dụng ngân hàng .......... 75
3.1.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện thi hành án tín dụng ngân
hàng…………………………………………………………………78
3.1.3. Sửa đổi, bổ sung các quy định về sự phối hợp giữa cơ quan THADS với
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong THA tín dụng ngân hàng .. 82
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án trong lĩnh vực tín dụng
ngân hàng.................................................................................................... 84

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thi hành án là hoạt động đưa các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án nhân dân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra thi hành; bảo vệ
bình đẳng các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân; góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ
máy nhà nước và góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế - xã hội. Hiệu quả hoạt
động THA ảnh hưởng trực tiếp đến công lý, sự công bằng trong đời sống xã
hội. Chính vì vậy, THADS ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm, chỉ đạo
từ lãnh đạo Đảng và Nhà nước, cũng như sự phối hợp, hỗ trợ từ các ngành,
các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến địa phương.
Tuy nhiên, những khó khăn, bất cập không vì đó mà dừng lại và có ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả THA. Điển hình như trường hợp THADS mà
người được THA là ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây là loại án có điều
kiện thi hành nhưng tương đối khó khăn và phức tạp. Do đó, chậm THA trong
trường hợp này đang là vấn đề “nóng” đối với cơ quan quản lý THA và bên
được THA. Nguyên nhân không chỉ có khách quan, mà còn tồn tại nhiều
nguyên nhân chủ quan như ngân hàng và các tổ chức chưa thực hiện đúng quy
định của nhà nước; năng lực và tinh thần tích cực của CHV còn hạn chế; thiếu
sự kiểm tra, đôn đốc sát sao của lãnh đạo chi cục THA... Vì vậy, sự cần thiết
phải có những giải pháp để THA đạt được kết quả khả quan hơn.
Thực trạng và nguyên nhân nêu trên đòi hỏi phải có những phương
hướng, giải pháp để khắc phục tồn tại, khó khăn và nâng cao hiệu quả THA
tín dụng ngân hàng, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về thi hành án
trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng từ thực tiễn ở thành phố Hải Phòng” có



2

ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nâng cao
hiệu quả công tác THADS nói chung, THA liên quan đến tín dụng ngân hàng
nói riêng ở Việt Nam hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến THADS nói chung, THA tín dụng ngân hàng nói riêng
đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố ở các góc độ khác nhau. Có
thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây:
- Bàn về biện pháp phong tỏa tài sản tài khoản trong công tác THADS
hiện nay/ Thanh Hương// Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 02/2013. H.; 2013. - tr.23 - 26; 32.
- Kỹ năng giải quyết việc THADS phức tạp/ Lê Thị Lệ Duyên// Dân
chủ và pháp luật số chuyên đề/ tháng 02/2013. - H.; 2013. - tr.04-11.
- Một số bất cập sau ba năm thực hiện Luật THADS/ Phan Đức Vũ //
Tòa án nhân dân số 01/tháng 01/2013.- H.; 2013.- tr.22-25.
- Hoàn thiện các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục THADS/
Nguyễn Thùy Trang// Nhà nước và pháp luật số tháng 12(296)/2012. - H.;
2012. - tr.28 32.
- Bất cập trong việc tạm giữu tài sản, giấy tờ theo Luật THDS/ Phan
Tấn Pháp // Dân chủ và pháp luật Số chuyên đề Tháng 3/2011. - H.; 2011. tr.17 - 18.
- Những khó khăn trong xác minh THADS/ Đinh Duy Bằng// Dân chủ
và pháp luật Số chuyên đề Tháng 3/2011. - H.; 2011, - tr.12 - 13.
- “Đổi mới tổ chức và hoạt động THADS ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Quang Thái (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, 2003).


3


- “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động THA ở Việt
Nam trong giai đoạn mới” đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước do Bộ
Tư pháp chủ trì (2005).
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong THADS ở
Việt Nam Hà Nội” của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa (Luận văn thạc sỹ Luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005).
- “Vấn đề đổi mới thủ tục THADS ở nước ta hiện nay” của tác giả
Nguyễn Thanh Thủy đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số chuyên đề
về THADS, năm 2006).
- “Thực trạng về án tồn đọng và những giải pháp của THADS thành
phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn lực và Đào Anh Dũng đăng trên
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số chuyên đề về THADS năm 2008).
- “Hoàn thiện các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục THADS” của
tác giả Nguyễn Thùy Trang đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
tháng 12 (296)/2012.
- “Bàn về tính dân chủ trong pháp luật về THADS” của tác giả Bùi
Thái Bình đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 03/2012.
- “Những trăn trở từ thực tế THADS” của tác giả Hương Lan đăng trên
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 04/2012.
- “Một số giải pháp để giải quyết hiệu quả việc THADS tồn đọng” của
tác giả Lê Thị Tuyết Minh đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên
đề tháng 06/2012.
- “Bàn về quyền yêu cầu THA và thời hiệu yêu cầu THA của người phải
THADS” của tác giả Lê Anh Thọ đăng trên Tạp chí Kiểm soát số 14, tháng
07/2012.


4

- “Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan THA với các cơ quan hữu

quan trong THADS” của tác giả Lê Thị Lệ Duyên đăng trên Tạp chí Dân chủ
và pháp luật, số tháng 10/2012.
- “Những bất cập sau 3 năm thực hiện luật THADS” của tác giả Trần
Thế Hùng đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật (Số chuyên đề tháng
02/2013).
- “Một số bất cập sau ba năm thực hiện Luật THADS” của tác giả Phan
Đức Vũ đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 01/ tháng 01/2013.
- “Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc THADS” của
tác giả Nguyễn Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số Tân xuân, tháng
01/2013...
- “Pháp luật THA kinh doanh thương mại từ thực tiễn thực hiện tại địa
bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Lê Dương Hưng (Luận văn thạc sỹ Luật
kinh tế, Viện Đại học Mở Hà Nội, 2014)...
- Linh Quân, Giải quyết việc THADS liên quan đến các tổ chức tín
dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- “THADS trong trường hợp người được THA là ngân hàng và các tổ
chức tín dụng” của tác giả Trần Đại Sỹ đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, tháng 01/2015...
Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến hoạt động
THADS được công bố, đăng tải trên các báo, tạp chí, ... Nhìn chung, các công
trình đã công bố đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn về
THADS nhưng ít có công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp về THA trong lĩnh
vực tín dụng ngân hàng. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này sẽ nhận diện, đánh
giá tương đối toàn diện về THA tín dụng ngân hàng với những đặc thù nhất
định để từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả THA tín dụng ngân hàng
nói riêng cũng như hiệu quả THADS nói chung ở Việt Nam.


5


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
về thi hành án trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng và thực trạng pháp luật
THADS được áp dụng trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng và đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án, góp phần nâng cao hiệu quả
THA tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về THA tín dụng ngân hàng như:
xây dựng khái niệm, làm rõ đặc điểm, vai trò của THA tín dụng ngân hàng;
các tiêu chí đánh giá hiệu quả THA tín dụng ngân hàng và các yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả THA tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng THA tín dụng ngân hàng liên hệ từ thực tiễn thi
hành trên địa bàn Thành phố Hải phòng trong thời gian vừa qua..
- Xác định mục tiêu, yêu cầu và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả THA tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm về thi hành án;
các quy phạm pháp luật THA nói chung được áp dụng trong thi hành án tín
dụng ngân hàng để từ đó làm rõ đặc điểm của THA trong lĩnh vực tín dụng
nhân hàng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động THADS nói chung, THA tín dụng ngân hàng nói riêng có
thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Trong khuôn khổ
luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật THA được


6


áp dụng trong lĩnh vực thi hành án tín dụng ngân hàng theo quy định của Luật
THADS năm 2008( sửa đổi, bổ sung năm 2014) và liên hệ thực tiễn thi hành
tại Thành phố Hải phòng giai đoạn từ năm 2013 đên 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu truyền thống là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, thống kê, tổng kết
thực tiễn để giải quyết những vấn đề do đề tài đặt ra.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Khái quát về thi hành án trong lĩnh vực tín dung ngân hàng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thi hành án trong lĩnh vực tín dụng
ngân hàng và thực tiễn thi hành ở thành phố Hải Phòng
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành án trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng.


7

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THI HÀNH ÁN TRONG LĨNH VỰC TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm thi hành án tín dụng ngân hàng
Trong quá trình thực hiện chức năng của nhà nước, để bảo đảm hiệu
lực của bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhiều quy phạm pháp luật đã được ra đời để điều

chỉnh các mối quan hệ nêu trên, trong đó có pháp luật thi hành án. Trước hêt
phải khẳng định không có pháp luật riêng cho thi hành án TDNH mà chỉ có
Luật thi hành án Dân sự nói chung áp dụng thi hành cho cả án TDNH. Vì vậy
trước khi tìm hiểu khái niệm THATDNH cần phải hiểu thế nào là thi hành án
nói chung.
Thi hành án được hiểu là việc đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của tòa án để thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án một mặt
bảo đảm việc thực hiện quyền tư pháp của nhà nước, mặt khác là công cụ hữu
hiệu để khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân khi
bị xâm hại.
Để làm rõ khái niệm thi hành án TDNH thì trước hết cần phải hiểu rõ
khái niệm về thi hành án dân sự. Liên quan đến vấn đề này, hiện nay đã có
nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về thi
hành án dân sự. Cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: Thi hành án dân sự không phải một thủ tục tố
tụng dân sự mà là hoạt động mang tính chất chấp hành và điều hành. Như
vậy, theo quan điểm này thì thi hành án dân sự là thủ tục hành chính.
Tác giả không đồng tình với quan điểm này bởi lẽ bản chất của
THADS là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành phán quyết của cơ


8

quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm buộc người có
nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện
đúng các nghĩa vụ của mình. Và mục đích cuối cùng của THADS là bảo đảm
cho các quyết định của Tòa án được ghi trong bản án, quyết định được thực
thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết
định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt động hành chính. Mặt khác,
tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt động THADS mà còn là

yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước đó - chấp hành các quy
định của pháp luật.
Do đó, quan điểm cho rằng THADS là hoạt động mang tính chất chấp
hành và điều hành vẫn chưa phản ánh chính xác và đầy đủ bản chất của hoạt
động THADS.
Quan điểm thứ hai: Thi hành án dân sự là dạng hoạt động hành chính
- tư pháp2.
Theo tác giả, quan điểm này là hợp lý nhất, phản ánh đầy đủ bản chất
của THADS đó là vừa mang tính chất của hoạt động hành chính, vừa có
những yếu tố của hoạt động tư pháp, bởi lẽ: THADS không phải là một giai
đoạn tố tụng, có mục đích khác với mục đích của tố tụng. Tố tụng là quá trình
đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải
quyết vụ việc theo đúng các quy định của pháp luật. Với mục đích đó, toàn bộ
quá trình tố tụng diễn ra theo quy trình hết sức chặt chẽ và phải bảo đảm các
nguyên tắc như bình đẳng, công khai, dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích của
người tham gia tố tụng... và khi có phán quyết của Tòa án thì quá trình tố tụng
kết thúc. Trong khi đó, THADS là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm
thực hiện các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khác

2

Nguyễn Thanh Thủy (2001), Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Tr.14


9

với trong thủ tục tố tụng dân sự, mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động
THADS là tổ chức thi hành, có tính hành chính, mệnh lệnh liên quan. Theo
đó, quan điểm cho rằng THADS mang tính hành chính - tư pháp là thích hợp

hơn cả.
Tính hành chính thể hiện ở chỗ: THADS là dạng hoạt động chấp hành,
quản lý.
(i) Là dạng hoạt động chấp hành vì THA chỉ được tiến hành trên cơ sở
các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn
khổ luật định; toàn bộ quá trình THA với những hoạt động, biện pháp, cách
thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong
các bản án, quyết định của Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật.
Thi hành án dân sự là một giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có
mối quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng tại Tòa án trước đó.
Giai đoạn THADS có thể bắt đầu ngay từ khi việc xét xử vụ án chưa kết thúc
như việc thi hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án (Điều 130
Luật THADS) hoặc những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được
thi hành ngay như bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao
động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm
việc mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị (khoản 2 Điều 2 Luật THADS).
Ngay cả khi việc xét xử chấm dứt, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng mối quan hệ giữa cơ quan xét xử và cơ quan THADS vẫn tồn tại như
việc cơ quan THADS yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ hoặc
kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định khi phát hiện
có sai lầm hoặc án tuyên không khả thi, không thể thi hành được (khoản 2,
khoản 3 Điều 179 Luật THADS). Trong quá trình tổ chức THADS, Chánh án
Tòa án, Viện trưởng Viện Kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu cơ quan THADS


10

hoãn THA (điểm d, khoản 1, Điều 48 Luật THADS); tạm đình chỉ THADS để
xem xét lại bản án theo trình tự Giám đốc thẩm; tái thẩm hoặc Tòa án thông

báo về việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải THA
(khoản 1, khoản 2 Điều 49 Luật THADS). Những quyết định này mang tính
bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên
quan đến việc THADS. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi trách
nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để THADS đạt
hiệu quả.
(ii) Là dạng hoạt động quản lý vì THADS là sự tác động của pháp luật,
của các cơ quan THADS tới đối tượng phải THA để họ tự giác thi hành hoặc
áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong
các bản án, quyết định của Tòa án; phải tuân theo các quy định của pháp luật;
giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, tôn
trọng kỉ luật nhà nước.
Tính tư pháp thể hiện ở chỗ: căn cứ để THA là các bản án và quyết
định của Tòa án và có sự tham gia của các cơ quan tư pháp vào quá trình
THA. Về mặt hình thức, bên cạnh các chủ thể là Tòa án, Viện Kiểm sát, các
chủ thể tham gia vào giai đoạn THADS đông đảo và đa dạng hơn so với các
giai đoạn tố tụng tại Tòa án trước đó. Ví dụ: tham gia thi hành án dân sự còn
có tổ dân phố, Ủy ban nhân dân cấp xã (nơi người phải THA cư trú), Ủy ban
nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh; cơ quan, tổ chức nơi người phải THA làm việc;
ngân hàng, tổ chức tín dụng nơi người phải THA mở tài khoản, giao dịch...
Các chủ thể này có đặc điểm khác với các chủ thể trong giai đoạn tố tụng
trước đó về địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, tác giả đồng tình với
quan điểm coi thi hành án là một hoạt động quản lý hành chính - tư pháp. Do
đó, thi hành án được hiểu là hoạt động hành chính - tư pháp mang tính quyền


11

lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thi hành theo trình tự

thủ tục do pháp luật quy định, thông qua đó bản án, quyết định của cơ quan
có thẩm quyền được thi hành trên thực tế..
Từ khái niệm thi hành án dân sự nói chung, phải khẳng định thi hành án
TDNH là một bộ phận của hoạt động thi hành án dân sự. Những quy định của
pháp luật THADS cũng chính là các quy định của pháp luật THATDNH. Do
đó, không tồn tại một hệ thống pháp luật THATDNH chuyên biệt, độc lập so
với hệ thống pháp luật thi hành án dân sự nói chung. Hoạt động tín dụng ngân
hàng theo nghĩa chung nhất đó là hoạt động giao dịch giữa bên cho vay là các
ngân hàng, tổ chức tín dụng và bên vay thông thường là các thương nhân vay
vốn để phục vụ cho hoạt đông sản xuất kinh doanh. Theo đó bên cho vay giao
hoặc cam kết giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác
định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả
cả gốc và lãi, kèm theo đó là các cam kết về tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh.
Như vậy yêu cầu đặt ra là khi các giao dịch tín dụng ngân hàng được thiết lập
thì các bên phải thực hiện đúng cam kết của mình. Nếu các bên vi phạm các
nghĩa vụ đã cam kết, lúc đó tranh chấp sẽ phát sinh. Nếu các bên không tự
giải quyết được lúc đó tranh chấp sẽ được giải quyết theo quy định của pháp
luật. Kết quả giải quyết vụ việc tranh chấp về tín dụng ngân hàng thể hiện cụ
thể là các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền ( tòa án, trọng tài ).
Trên cơ sở bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành, nếu một bên không tự
giác thi hành thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thi hành để
bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Ở
nước ta, cơ quan có thẩm quyền thi hành bản án, quyết định của cơ quan có
thẩm quyền đó là cơ quan thi hành án dân sự. Từ những phân tích trên, căn cứ
vào khái niệm thi hành án nói chung, có thể đưa ra khái niệm thi hành án tín
dụng ngân hàng:


12


“Thi hành án tín dụng ngân hàng là hoạt động hành chính - tư pháp, do các
cơ quan THADS có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định để buộc người phải thi hành thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bồi thường
thiệt hại cho tổ chức tín dụng ngân hàng theo bản án, quyết định đã có hiệu
lực thi hành”.
1.2. Đặc điểm của thi hành án tín dụng ngân hàng
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì thi hành án trong lĩnh
vực tín dụng ngân hàng là một hình thức cụ thể của hoạt động thi hành án
dân sự. Đó cũng là hoạt động hành chính - tư pháp, do các cơ quan thi hành
án có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật thi hành án quy
định. Thi hành án tín dụng ngân hàng mang đầy đủ những đặc điểm của thi
hành án dân sự, tuy nhiên, thi hành án tín dụng ngân hàng xuất phát từ chính
hoạt động của các tổ chức tín dụng ngân hàng cũng như quan hệ của ngân
hàng với khách hàng và tranh chấp phát sinh giữa họ, cho nên việc thi hành án
trong lĩnh vực này có một số đặc trưng riêng, cụ thể:
Thứ nhất, chủ thể phải thi hành án tín dụng ngân hàng chủ yếu là các
tổ chức, cá nhân kinh doanh ( sau đây gọi là thương nhân). Theo đó, đặc điểm
để xác định các vụ án TDNH là tranh chấp giữa các chủ thể kinh doanh với
nhau là vì mục đích lợi nhuận. Hiện nay, chủ yếu là tranh chấp giữa một bên
là ngân hàng, tổ chức tín dụng với một bên là nhà kinh doanh ( tổ chức, cá
nhân). Ví dụ, ngân hàng với công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cũng có thể
giữa ngân hàng với các hộ kinh doanh cá thể... vấn đề quan trọng là lý do của
tranh chấp xuất phát từ hoạt động kinh doanh, mục đích của việc vay vốn
nhằm kinh doanh.
Thứ hai, tài sản để đưa ra thi hành trong án TDNH thông thường có giá
trị lớn. Tài sản của các chủ thể kinh doanh thương mại tồn tại dưới nhiều hình
thức khác nhau như: tài khoản tại ngân hàng, sản phẩm hàng hoá,... và nhiều


13


tài sản tương đối đặc biệt như: dây chuyền công nghệ, thương hiệu kinh
doanh, nhãn hiệu hàng hoá, các bất động sản... Đây đều là những tài sản có
giá trị lớn.
Trong quá trình hoạt động, để có được vốn hoạt động thì các thương
nhân phải thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, trong đo vay
vốn ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư
chiều sâu của doanh nghiệp là hình thức được các doanh nghiệp sử dụng khá
phổ biến. Do đó, doanh nghiệp thường sử dụng chính tài sản sẵn có của mình
để đảm bảo các khoản vay có giá trị, các hợp đồng tín dụng trong hoạt động
kinh doanh, thương mại thường có giá trị lớn. Dẫn tới khi đưa ra thi hành án,
các tài sản trong THATDNH cũng là những tài sản “khổng lồ” của doanh
nghiệp.
Thứ ba, thi hành án tín dụng ngân hàng thường liên quan đến việc áp
dụng pháp luật ở nhiều lĩnh vực như: Luật Đất đai,Luật Nhà ở, Luật Hàng hải,
Luật Phá sản… Vì án tín dụng ngân hàng thông thường đều liên quan đến các
loại tài sản bảo đảm khi vay vốn như tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Vì
vậy, khi thi hành án TDNH để xử lý một loại tài sản cụ thể nào cơ quan thi
hành án còn phải xem xét pháp luật liên quan đến loại tài sản đó. Ví dụ khi kê
biên tài sản là tàu biển để thi hành án sẽ liên quan đến Luật Hàng hải…
Thứ tư, điều kiện thi hành án và việc xử lý tài sản của người phải thi
hành án gặp nhiều khó khăn, tốn kém thời gian và chi phí tuân thủ pháp luật.
Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành liên quan đến TDNH là hệ quả của
việc các bên vi phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng tín dụng. Chủ yếu là bên
vay không thực hiện đúng cam kết thanh toán nợ, mặc dù hầu hết các vụ việc
người vay đều có tài sản thế chấp, bảo lãnh nhưng đến giai đoạn THA thì việc


14


xử lý tài sản của người phải THA gặp rất nhiều khó khăn phức tạp, thậm chí
có trường hợp người phải thi hành án bị phá sản.
Thứ năm, thi hành án tín dụng ngân hàng luôn đề cao quyền tự định
đoạt và thỏa thuận của các đương sự. Bởi lẽ chủ thể của quan hệ thi hành án
một bên là các tổ chức tín dụng ngân hàng và một bên là các thương nhân
(khách hàng chủ yếu, thường xuyên của ngân hàng). Vì vậy giữa hai bên luôn
có mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với nhau, cho nên trong suốt quá trình thi
hành án pháp luật luôn tôn trọng quyền tự định đoat, thỏa thuận của các bên.
Như: hoãn thi hành án trong thời hạn nhất định; thỏa thuận về viecj khai thác
tài sản kê biên; thỏa thuân về tiến độ thanh toán nợ; mua bán nợ…
1.3. Vai trò của thi hành án tín dụng ngân hàng
Thứ nhất, Thi hành án tín dụng ngân hàng góp phần bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các tổ chức tín dụng, ngân hàng
Thực tiễn cho thấy rằng thông qua THA tín dụng ngân hàng, các phán
quyết, quyết định liên quan đến việc thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng ngân
hàng được thực thi, đảm bảo công lý trong đời sống xã hội. Do đó, kết quả
THA tín dụng ngân hàng có thể coi là thước đo mức độ bảo đảm, bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, các tổ chức, cá nhân liên quan, đặc biệt
là của các tổ chức tín dụng ngân hàng. Điều này cũng có nghĩa là hiệu quả
THA tín dụng ngân hàng được thể hiện qua kết quả về giá trị thu hồi nợ cho
các tổ chức tín dụng, ngân hàng, vì vậy, trong quá trình THA, nếu các cơ
quan THADS thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức tín dụng, ngân
hàng sẽ đạt được và góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, củng cố niềm tin
của nhân dân đối với công lý, tính nghiêm minh của pháp luật; góp phần giảm
nợ xấu, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.


15


Thứ hai, Thi hành án tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động xét xử, giải quyết các tranh chấp về tín dụng ngân hàng
Kết quả xét xử, giải quyết tranh chấp của Tòa án và cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền là các bản án, quyết định, trong đó xác định cụ thể quyền, nghĩa
vụ của các đương sự. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn mà các đương sự, đặc
biệt là người được THA quan tâm là hiệu lực, hiệu quả thực thi các phán
quyết, quyết định đó trong đời sống xã hội thông qua hoạt động của cơ quan
THADS. Điều này cũng có nghĩa là thông qua các trình tự, thủ tục THA thì
các bản án, quyết định mới có hiệu lực thực tế, đồng thời tính thực tế, khả thi
của các bản án, quyết định cũng là cơ sở kiểm chứng chất lượng hoạt động xét
xử, giải quyết tranh chấp để từ đó Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có
thể nhận diện những tồn tại, hạn chế trong hoạt động của mình để nâng cao
chất lượng xét xử, giải quyết tranh chấp.
Đối với hoạt động THA tín dụng ngân hàng, hiệu lực, hiệu quả THA
phụ thuộc vào khả năng, kết quả xử lý tài sản của người phải THA, đặc biệt là
các tài sản đảm bảo; tính khả thi và kết quả xử lý tài sản đảm bảo trong quá
trình THA tín dụng ngân hàng là một yếu tố quan trọng khẳng định chất
lượng xét xử, giải quyết tranh chấp liên quan đến tín dụng ngân hàng, bởi vì
thực tế cho thấy còn có những bản án, quyết định chưa chính xác, khách quan,
gây bức xúc cho đương sự và khó khăn cho cơ quan THA.
Thứ ba, Thi hành án tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao ý thức pháp
luật, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong xã hội
THA tín dụng ngân hàng liên quan đến nghĩa vụ trả nợ cho các tổ chức
tín dụng ngân hàng theo các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, do đó,
việc tổ chức THA đòi hỏi không chỉ ở tính chủ động, trách nhiệm của cơ quan
THADS mà còn cần có sự tích cực, phối hợp có hiệu quả của các cơ quan, tổ
chức liên quan, sự ủng hộ của xã hội. Thông qua quá trình THA, các cá nhân,



16

tổ chức trong xã hội sẽ nhận thức rõ hơn ý thức, trách nhiệm của mình đối với
việc nghiêm chỉnh chấp hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật,
đảm bảo giá trị công lý trong đời sống xã hội, nhất là khi cơ quan THADS tổ
chức cưỡng chế đối với những cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, chây ỳ, cản
trở, chống đối việc THA.
Bên cạnh đó, quá trình THA tín dụng ngân hàng còn có ý nghĩa quan
trọng trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm, sự thận trọng của các cá nhân,
tổ chức và các ngân hàng trước khi tham gia các giao dịch, hợp đồng tín dụng
(điều kiện tài sản, sự thận trọng khi thẩm định cho vay, tính khả thi của việc
thực hiện nghĩa vụ...) nhằm giảm thiểu các rủi ro, tranh chấp phát sinh khi
thực hiện các giao dịch, hợp đồng tín dụng cũng như những khó khăn trong
việc thu hồi nợ.
1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả THA tín dụng ngân hàng
Trong công tác THADS, nhìn nhận hiệu quả trên cơ sở so sánh kết quả
và mục đích, có thể qua niệm tiêu chí đánh giá hiệu quả THADS là những
tính chất, dấu hiệu để xác định mức độ đạt được mục đích THADS, hay nói
cách khác đó là những căn cứ đánh giá kết quả, tác động của hoạt động
THADS trong một hoặc nhiều việc THA cụ thể ở từng thời điểm nhất định.
Hiệu quả THADS có thể được đánh giá theo các tiêu chí khác nhau tùy
thuộc vào cách tiếp cận. Về nguyên tắc, đánh giá hiệu quả THADS cần căn cứ
vào sự so sánh, mối tương quan giữa kết quả thu được tối đa so với chi phí đạt
được kết quả THA ở mức tối thiểu. Tuy nhiên, với tính chất đặc thù của
THADS, việc đánh giá chính xác, toàn tiện hiệu quả THADS là một việc rất
khó khăn, phức tạp và tùy vào các tiêu chí được xác định ban đầu. Thực tiễn
cho thấy hiệu quả THADS không chỉ đánh giá thuần túy về mặt số học, về
mặt định lượng mà còn phải đánh giá cả về mặt định tính, bởi vì với mục đích
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo trật tự pháp luật tại một



17

địa bàn cụ thể thì chi phí thực tế bỏ ra có thể lớn hơn giá trị thu được, thậm
chí hiệu quả THA lúc đó không chỉ dừng ở thời điểm kết thúc việc THA mà
còn thể hiện ở hiệu ứng, ảnh hưởng tích cực sau này về mặt xã hội (ý thức
pháp luật của cá nhân, tổ chức được nâng cao; sự thay đổi tích cực trong nhận
thức và hành vi của các tổ chức, cá nhân đối với công tác THA hay đối với
một việc THA cụ thể); mức độ giảm thiểu chi phí nguồn lực con người, thời
gian cho quá trình tổ chức THA...
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra một số tiêu chí cơ bản đánh
giá hiệu quả THA tín dụng ngân hàng như sau:
- Tiêu chí 1: Mức độ đạt được mục đích, yêu cầu THA
Mục đích của THA tín dụng ngân hàng là đảm bảo thi hành trên thực tế
các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích hợp
pháp của các tổ chức tín dụng ngân hàng.
Khi bản án, quyết định có hiệu lực được đưa ra thi hành thì các đương
sự những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đặc biệt là người được THA
đều mong muốn bản án, quyết định được thi hành nghiêm chỉnh để thu hồi
được tiền, tài sản. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc và có ý nghĩa quyết định đến
kết quả THA là điều kiện THA của người phải THA và khả năng thực hiện
nghĩa vụ. Bởi, nếu người phải THA chưa có điều kiện THA thì cho dù cơ
quan THADS có tác động, thuyết phục thì vụ việc vẫn thuộc diện chưa có
điều kiện thi hành, hoặc trường hợp tuy có điều kiện thi hành nhưng do người
phải THA chống đối hay có những yếu tố tác động, ảnh hưởng tiêu cực khác
làm cho việc xử lý tài sản gặp nhiều khó khăn thì mục đích THA cũng khó đạt
được.
Vì vậy, việc đánh gia hiệu quả THA tín dụng ngân hàng cần phải tính
đến số lượng các việc có điều kiện thi hành và tính khả thi của việc xử lý tài
sản để THA.



18

- Tiêu chí 2: Sự tiến triển khi thực hiện trình tự, thủ tục THA
Khi việc THA được xác định có điều kiện thi hành, CHV, cơ quan
THADS phải tiến hành áp dụng pháp luật theo các trình tự, thủ tục pháp luật
quy định nhằm thu được tiền, tài sản cho người được THA là các tổ chức tín
dụng. Vì vậy, hiệu quả thi hành án tín dụng ngân hàng cần dựa trên sự tiến
triển, kết quả thực hiện các trình tự, thủ tục THA. Kết quả và sự tiến triển của
hoạt động THA được thể hiện qua việc người phải THA hợp tác hay cản trở,
trốn tránh việc THA; sự thay đổi tích cực trong nhận thức, hành vi, sự ủng hộ,
phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; sự công bằng, bình đẳng
giữa các bên; tính khả thi của việc kê biên, xử lý tài sản thế chấp, bảo lãnh để
thi hành nghĩa vụ; tính chính xác của việc áp dụng pháp luật của CHV trong
quá trình THA (vì nếu áp dụng pháp luật không đúng thì sẽ dẫn đến khiếu nại,
tố cáo làm cho quá trình THA bị gián đoạn hoặc bị hủy)...
Do đó, để đáp ứng tiêu chí này, CHV phải nắm vững quy định pháp
luật, thường xuyên cập nhật thông tin, điều kiện của người phải THA cũng
như mong muốn của các bên liên quan ở từng thời điểm nhất định để có thể
lựa chọn biện pháp, cách thức áp dụng pháp luật phù hợp với thực tế diễn biến
của quá trình THA (ví dụ như: sự thỏa thuận của đương sự về việc nhận tài
sản để THA; thỏa thuận về việc giảm một phần nghĩa vụ THA)...
- Tiêu chí 3: Gia trị thực tế thu được trong quá trình THA
Một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả THA tín
dụng ngân hàng là phải căn cứ vào những kết quả thực tế do tác động của hoạt
động THA mang lại. Quá trình THA, cơ quan THADS phải giành các nguồn
lực nhất định (nguồn lực con người; trang thiết bị, phương tiện làm việc; chi
phí cho việc xác minh, thẩm định tài sản; thù lao cho các cơ quan, đơn vị phối
hợp cưỡng chế), do đó khi kết thúc một giai đoạn hay một việc THA hoặc xử

lý xong tài sản đảm bảo... thì phải xác định được kết quả đạt được về giá trị
định lượng qua quá trình THA đó: giá trị tiền, tài sản thu được sau khi trừ các


19

chi phí thực tế và các chi phí pháp luật quy định (phí THA; chi phí thẩm định
giá...). Với tiêu chí này, hiệu quả THA được thể hiện ở kết quả THA về giá
trị, qua đó có thể xác định chính xác tỷ lệ (%) về giá trị mà người phải THA
đã thi hành được cho người được THA. Hay nói cách khác tiêu chí này là cơ
sở đánh giá hiệu quả THA tín dụng ngân hàng thông qua mức độ, kết quả
thực hiện nghĩa vụ mang tính định lượng về giá trị của người phải THA theo
bản án, quyết định có hiệu lực thi hành.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả THA tín dụng ngân hàng
Hiệu quả THADS nói chung, hiệu quả THA tín dụng ngân hàng nói
riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nhất định. Từ thực
tiễn THA tín dụng ngân hàng, có thể nhận diện một số yếu tố cơ bản sau đây
ảnh hưởng đến hiệu quả THA tín dụng ngân hàng:
Thứ nhất, hệ thống quy phạm pháp luật
Hệ thống quy phạm pháp luật là cơ sở cho hoạt động thi hành nhưng
cũng là yếu tố ảnh hưởng, chi phối mang tính quyết định đối với hiệu quả
THA THADS nói chung, THA tín dụng ngân hàng nói riêng. Hệ thống quy
phạm pháp luật là cơ sở cho CHV, cơ quan THADS tổ chức THA được quy
định trong Luật THADS, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
THADS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan... Vì vậy, để hoạt
động THA có hiệu lực, hiệu quả thì các quy định pháp luật phải thống nhất,
đồng bộ, minh bạch và khả thi. Điều này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền
phải không ngừng hoàn thiện các quy định pháp luật, kịp thời bãi bỏ các quy
định không khả thi và bổ sung các quy định mới phù hợp với tình hình, yêu

cầu công tác THA (Ví dụ như cần sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành về
đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm, xử lý vi phạm hành chính, xử lý


×