4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ
6
1.1.
Vai trò của công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
6
1.1.1.
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội
6
1.1.2.
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ có tác dụng bảo đảm trật tự an toàn xã hội
7
1.1.3.
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và bảo
đảm an ninh quốc phòng
8
1.2.
Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ
8
1.2.1.
Khái niệm
8
1.2.2.
Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ
11
1.2.3.
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
14
5
thông đường bộ
1.2.4.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp
khắc phục hậu quả trong lĩnh vực giao thông đường bộ
16
1.2.5.
Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ
23
1.2.6.
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ
28
1.2.7.
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ
29
Chương 2: THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG
31
2.1.
Khái quát hệ thống giao thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng
31
2.1.1.
Đặc điểm vị trí địa lý và dân cư tại thành phố Đà Nẵng
31
2.1.2.
Hệ thống giao thông thành phố Đà Nẵng
33
2.1.3.
Hệ thống giao thông đường bộ thành phố Đà Nẵng
35
2.2.
Thực trạng vi phạm pháp luật giao thông đường bộ và công
tác xử lý vi phạm tại thành phố Đà Nẵng
37
2.2.1.
Thực trạng vi phạm pháp luật giao thông đường bộ tại thành
phố Đà Nẵng
39
2.2.2.
Nguyên nhân gây ra vi phạm an toàn giao thông đường bộ
43
2.2.3.
Thực trạng xử lý vi phạm an toàn giao thông đường bộ tại
thành phố Đà Nẵng
46
2.3.
Thực trạng vi phạm hành lang an toàn đường bộ trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng và công tác xử lý vi phạm
53
2.3.1.
Tình hình vi phạm hành lang an toàn đường bộ
53
2.3.2.
Công tác xử lý vi phạm hành lang an toàn đường bộ
56
6
2.4.
Nguyên nhân vi phạm pháp luật giao thông đường bộ
60
Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC XỬ
LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO
THÔNG ĐƢỜNG BỘ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
70
3.1.
Những thành tựu đạt được và những khó khăn còn tồn tại
trong công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng
70
3.1.1.
Thành tựu đạt được trong công tác xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng
70
3.1.2.
Những khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại thành phố
Đà Nẵng
72
3.2.
Phương hướng nâng cao hiệu quả việc xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng
74
3.2.1.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật giao thông đường bộ và
pháp luật trong các lĩnh vực khác có liên quan
74
3.2.2.
Tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh, triệt để,
kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ
77
3.2.3.
Tăng cường công tác kiểm định chất lượng an toàn kỹ thuật
và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới, quản lý phương tiện
xe cơ giới và công tác đào tạo, sát hạch thi cấp giấy phép lái xe
80
3.2.4.
Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, tăng cường
công tác bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và hành
lang an toàn đường bộ
82
3.2.5.
Đổi mới và duy trì thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật giao thông đường bộ
87
KẾT LUẬN
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ATGT
: An toàn giao thông
GTĐB
: Giao thông đường bộ
TNGT
: Tai nạn giao thông
TNGTĐB
: Tai nạn giao thông đường bộ
TTATGT
: Trật tự an toàn giao thông
UBND
: Ủy ban nhân dân
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch
UBND các cấp (3 cấp)
23
1.2
Thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân
24
1.3
Thẩm quyền xử phạt của thanh tra đường bộ
25
2.1
Bảng tổng hợp vi phạm an toàn GTĐB từ năm 2003 đến
6 tháng đầu năm 2012 tại Thành phố Đà Nẵng
42
2.2
Thống kê số lượng nhà dân, công trình dịch vụ xăng dầu,
mở đường ngang đấu nối vào các quốc lộ 1A và 14B đến
tháng 06 năm 2012
56
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tai nạn giao thông (TNGT) đã và đang là vấn đề được xã hội quan
tâm sâu sắc, mang tính toàn cầu mà tất cả các quốc gia trên thế giới không phân
biệt các nước phát triển, nước đang phát triển hay nước kém phát triển đều
phải đương đầu và nó đã là thách thức lớn của cả thế giới. Về kinh tế, TNGT
và ùn tắc giao thông hàng năm làm thiệt hại từ 1% đến 3% GDP chi phí hàng
năm của các nước đang phát triển, ước tính vào khoảng trên 100 tỷ USD.
Tai nạn giao thông ở Việt Nam cũng nằm trong tình trạng chung của
các nước đang phát triển, TNGT ở Việt Nam tăng liên tục trong nhiều năm và
tính nghiêm trọng ngày càng gia tăng (bình quân trên 13 nghìn người chết do
TNGT và khoảng 29.000 ca chấn thương sọ não/năm). TNGT luôn là nỗi ám
ảnh trong đời sống xã hội và là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát
triển kinh tế của đất nước.
Những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được mối
hiểm họa của TNGT. Để kiềm chế và giảm thiểu TNGT, Ban Bí thư Trung
ương, Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo để ban hành và sửa đổi luật, các
nghị định quy định và thực hiện các biện pháp cấp bách phù hợp với tình hình
mới. Tuy nhiên, hiệu quả chưa cao do ý thức chấp hành luật của người tham
gia giao thông thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ và yếu
kém, hiệu lực quản lý nhà nước chưa cao.
Ở khu vực miền trung tây nguyên nói chung và thành phố Đà Nẵng
nói riêng, có các tuyến quốc lộ 1A, quốc lộ 14B nối liền các địa phương trong
vùng đã tạo nên một hệ thống giao thông đườ ng bộ thuận tiện, hiệu quả. Trong
những năm qua, thành phố Đà Nẵng đã huy đ ộng toàn bộ sức mạnh hệ thống
chính trị của thà nh phố vào cuộc để triển khai và thực hiện tốt các luật của
Quốc hội, nghị định của Chính phủ về đảm bảo an toàn giao thông (ATGT), đặc
10
biệt là Luậ t Giao thông đường bộ (GTĐB) năm 2007. Sau hơn 04 năm triển
khai thực hiện Luật GTĐB, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định, tình
hình trật tự an toàn giao thông (TTATGT) phần nào được cải thiện và đã hạn chế
tới mức thấp nhất số vụ, số người chết do TNGT. Tuy nhiên, hoạt động GTĐB
vẫn còn nhiều bất cập, TNGT tuy có giảm về số vụ và số người chết nhưng
chưa bền vững, đặc biệt là tình hình vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT
có xu hướng ngày càng tăng. Nguyên nhân cơ bản là tình trạng pháp chế trong
lĩnh vực GTĐB còn nhiều điểm hạn chế. Điều này thể hiện trên các mặt sau
đây: Hệ thống văn bản pháp qui định điều chỉnh lĩnh vực này tuy đã có tương
đối đầy đủ, nhưng tính răn đe chưa cao và chưa phù hợp với tình hình thực tế
nên khó triển khai thực hiện dẫn đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật còn
hạn chế; cơ sở hạ tầng GTĐB trong thời gian dài chưa được quan tâm đầu tư
đúng mức và tương xứng vớ i tố c độ phá t triể n củ a phương tiệ n giao thông cơ
giớ i đườ ng bộ ; trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật về giao thông
của một số người khi tham gia giao thông vẫn còn thấp hoặc xem nhẹ; công
tác quản lý nhà nước trên lĩ nh vự c GTĐB chưa thật sự hiệu quả; các vi phạm
xảy ra nhưng không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Hậu quả đã dẫn
đến TNGT xảy ra làm chết người và thiệt hại về tài sản của nhân dân.
Để góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, tìm kiếm những giải
pháp nhằm thiết lập lại TTATGT, vớ i mục tiêu bảo vệ tính mạng, tài sản của
nhân dân và trên hết là đảm bảo tính pháp chế XHCN trong trong lĩnh vực
GTĐB thì công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB đó ng mộ t
vai trò hết sức quan trọng , tôi chọn đề tài "Xử lý vi phạ m hà nh chí nh trong
lnh vc giao thông đưng b - qua thc tiễn ti thnh ph Đ Nng " để
nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thờ i gian qua đã có mộ t số công trì nh khoa họ c liên quan đế n đề
tài nghiên cứu của luận văn, tiêu biể u là :
11
Luậ n văn thạ c sĩ luậ t họ c : "Hon thin các quy đnh pháp lut v các
biệ n phá p xử phạ t vi phạ m hà nh chí nh", của Nguyễn Trọng Bình, Trườ ng Đạ i
học Luậ t Hà Nộ i, 2000. Luận văn đã phân tí ch cá c hình thứ c xử phạ t vi phạ m
hành chính được đề cập trong văn bản pháp luật , nhữ ng ưu điể m và hạ n chế
khi á p dụ ng trong thự c tiễ n và kiế n nghị hoà n thiệ n phá p luậ t về lĩnh vự c nà y.
Luậ n văn thạ c sĩ luậ t họ c : "Hon thin pháp lut v x l vi phm
hnh chnh đi vi người chưa thnh niên ", của Nguyễn Ngọc Bích , Trườ ng
Đạ i họ c Luậ t Hà Nội , 2003. Luận văn đề cậ p đế n nhữ ng ngu yên tắ c, thự c
trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên và
đề ra giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật trong lĩnh vực này.
Luậ n văn thạ c sĩ luậ t họ c : "Pháp lut v x l vi p hm hnh chnh
trong lĩ nh vự c giao thông đườ ng bộ ở Việ t Nam hiệ n nay - Mộ t số vấ n đề lý
luậ n, thự c tiễ n và phương hướ ng hoà n thiệ n ", của Vũ Thanh Nhàn , Trườ ng
Đạ i họ c Luậ t Hà Nộ i, 2009. Luận văn nghiên cứ u thự c trạ ng phá p luậ t xử lý
vi phạ m hà nh chí nh trong lĩ nh vự c giao thông đườ ng bộ ở Việ t Nam từ đó
đưa ra giả i phá p hoà n thiệ n phá p luậ t trong lĩ nh vự c nà y.
Luận văn thạc sĩ luật học: "Thực hin pháp lut trong lĩnh vực đảm
bảo trt tự an ton giao thông qua thực tế tỉnh Thái Nguyên", của Nguyễn
Quang Huy, Đại học quốc gia Hà Nội, 2007. Luận văn đã làm sáng tỏ một số
vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật GTĐB, thực hiện pháp luật và thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực GTĐB; phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thực
hiện pháp luật trong việc đảm bảo ATGT đường bộ, đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ; những tồn tại, hạn
chế, nguyên nhân khách quan, chủ quan của những tồn tại hạn chế trong thực
hiện pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ. Luận văn cũng
đưa ra quan điểm, một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo TTATGT đường bộ.
Trong cá c công trì nh nghiên cứ u trên đây , trên cơ sở phân tí ch lý luậ n
và thự c tiễ n có liên quan, các tác giả đã giới thiệu, phân tí ch đá nh giá về phá p
12
luậ t và thự c tiễ n hoạ t độ ng xử lý vi phạ m hà nh chính nó i chung và về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB ở các tỉnh thành khác (Thái Nguyên)
chứ chưa nghiên cứu về thực tiễn xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB tại thành phố Đà Nẵng. Do vậ y, luận văn "Xử lý vi phạ m hà nh chí nh
trong lĩ nh vự c giao thông đườ ng bộ - qua thc tiễn ti thnh ph Đ Nng"
sẽ kế thừa một phần cơ sở lý luận của các nghiên cứu trên, đồng thời phản ánh
thực trạng tại thành phố Đà Nẵng nhằ m cung cấ p cá c luậ n cứ khoa họ c và
thự c tiễ n cho việ c hoà n thiệ n phá p luậ t xử lý vi phạ m hà nh chí nh trong lĩnh
vự c GTĐB của cả nước nói chung và thà nh phố Đà Nẵ ng nó i riêng , nâng cao
hiệ u quả trong công tá c đấ u tranh phò ng, chố ng vi phạ m trong lĩnh vự c GTĐB.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích
Đề tài có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB; đánh giá thực trạng các quy định của
pháp luật trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng, trên cơ sở đó tìm ra những bất
cập, vướng mắc ngay trong các quy định và thực tiễn áp dụng, đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB tại Đà Nẵng.
Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực GTĐB.
- Nghiên cứu thực trạng thực thi các quy định pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng.
- Đề ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng.
13
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chính như: Phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp
thống kê xã hội học, các phương pháp xã hội học pháp luật.
5. Những đóng góp chủ yếu về mặt khoa học của đề tài
Đề tài là chương trình chuyên khảo về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng, đề tài đã đặt vấn đề tương đối hệ thống về
pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng;
Phân tích tương đối cụ thể thực trạng thực thi các quy định pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng; đề ra các giải pháp
hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng nâng cao hiệu quả việc xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực GTĐB tại thành phố Đà Nẵng.
14
Chương 1
PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ
1.1. VAI TRÕ CỦA CÔNG TÁC XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ
1.1.1. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng
bộ đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội
Bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ công nghệ thông tin và kinh tế tri thức,
một hệ thống GTĐB hiện đại sẽ tạo đà phát triển cho phát triển kinh tế xã hội,
là yếu tố hàng đầu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao hiệu quả kinh tế
cho hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong cả nước. Trái lại, một hệ
thống GTĐB yếu kém, sẽ không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, tức
là hiệu lưck và hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực GTĐB chưa được
đầy đủ và chặt chẽ.
Giao thông vận tải nói chung, GTĐB nói riêng được hình thành trên
cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Bàn về
giao thông vận tải, Các Mác đã từng khẳng định: Những quan hệ giữa các
quốc gia khác nhau đều phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và sự phân công lao động và giao thông trong nước của quốc gia đó.
Nguyên lý đã được mọi người công nhận. Nhưng không chỉ những mối quan
hệ giữa nước này và nước khác mà cả toàn bộ cơ cấu nội bộ của bản thân
nước đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của giao thông trong và
ngoài nước đó [53].
Có thể nhận định rằng phát triển GTĐB và phát triển kinh tế - xã hội
là hai quá trình có liên quan chặt chẽ với nhau, là điều kiện và tiền đề cho
nhau. Xây dựng một mạng lưới GTĐB hoàn thiện chính là tiền đề, điều kiện
15
cho sự phân bố hợp lý lực lượng sản xuất trên từng địa phương, vùng, miền
hay các làng nghề, là sự kết nối giao thương giữa nhân dân các địa phương, và
là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của các vùng kinh tế, đặc biệt là đối
với một số địa phương ở các huyện miền núi.
Hiện nay, với nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì vận tải, giao
thương giữa các vùng, miền, các dân tộc càng gia tăng. Do đó, giao thông vận
tải luôn phát triển là một quy luật tất yếu. Tốc độ phát triển kinh tế và phát
triển GTĐB phải tỷ lệ thuận với nhau.
Để GTĐB là động lực, là mũi nhọn cho sự phát triển kinh tế - xã hội
thì phải không ngừng tăng cường sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực
GTĐB, và pháp luật GTĐB phải là một công cụ trong quản lý nhà nước, trong
đó quy định các chế tài xử phạt vi phạm sẽ là cần thiết cho sự phát triển về
GTĐB. Đồng thời pháp luật GTĐB cần được các cơ quan, đơn vị, ngành triển
khai kịp thời, nhanh chóng đến các chủ thể khác trong xã hội.
1.1.2. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng
bộ có tác dụng bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Sử dụng pháp luật GTĐB làm công cụ để thực hiện tác động quản lý
lên các khách thể, các chủ thể có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB hướng tới
mục tiêu là đảm bảo cho hoạt động GTĐB được trật tự, an toàn, nhanh chóng,
tiện lợi, thông suốt và bảo vệ môi trường. Do vậy, hoạt động tuần tra kiểm
soát, thanh tra, kiểm tra phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật
GTĐB của các lực lượng chức năng, các cấp chính quyền phải kịp thời để hạn
chế thấp nhất vi phạm, chống được ùn tắc, kiềm chế TNGT đường bộ, ngăn
ngừa thiệt hại do TNGT đường bộ gây ra, đảm bảo TTATGT đường bộ và an
toàn xã hội.
Trật tự an toàn xã hội đảm bảo vững chắc là cơ sở, điều kiện để giữ
TTATGT đường bộ, củng cố phát huy tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
lĩnh vực GTĐB.
16
1.1.3. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng
bộ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm an
ninh quốc phòng
Sự phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của mỗi địa phương,
tỉnh, thành phố là tiền đề cho việc đảm bảo an ninh quốc phòng. Bởi lẽ một hệ
thống đường bộ thông suốt, an toàn, trật tự, thuận lợi là mục tiêu nhà nước,
đồng thời nó cũng là một cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng cho an ninh, quốc
phòng. GTĐB nối liền các vùng, miền, các địa phương sẽ giảm bớt chênh lệch
về kinh tế, văn hóa xã hội, trình độ giữa các vùng miền, tăng cường giao lưu,
đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, cộng đồng dân cư, góp phần ổn định chính trị.
GTĐB đảm bảo cung cấp hậu cầu, tăng tính cơ động cho các lực lượng an ninh
quốc phòng làm nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ chủ quyền, trọn vẹn lãnh thổ, phòng
chống mọi hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng.
1.2. PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ
1.2.1. Khái niệm
Trong một nhà nước, việc quản lý xã hội bằng pháp luật luôn được
xen kẽ với việc áp dụng những chế tài xử phạt trong mỗi một lĩnh vực. Nếu
không có những quy định cho việc thực hiện các chế tài nghiêm khắc, phù
hợp với tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, thì sẽ dẫn đến pháp luật khó
có thể đi vào cuộc sống và được người dân nghiêm túc thực hiện. Pháp luật và
Nhà nước là những hiện tượng đặc biệt luôn có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Nhà nước và pháp luật có những nguyên nhân, tiền đề xã hội ngay từ
bình minh và trong suốt quá trình vận động, phát triển.
Theo dòng lịch sử, từ xưa đến nay, việc quản lý nhà nước dù là dưới
quan điểm đức trị hay pháp trị thì dùng pháp luật quản lý đất nước và sử dụng
pháp luật là công cụ để xử lý người không tuân thủ pháp luật luôn là một lựa
chọn có hiệu quả để quản lý đất nước, phát triển và ổn định xã hội.
17
Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc dùng pháp luật để quản lý nhà
nước lại càng quan trọng. Để quản lý xã hội nói chung và hoạt động quản lý
nói riêng trong từng lĩnh vực thì việc sử dụng các "hình phạt" luôn được lựa
chọn để làm cho pháp luật thể hiện được tính nghiêm minh, mọi người phải
tôn trọng và thực hiện. Lĩnh vực GTĐB cũng không phải là ngoại lệ.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định:
"Quản lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng" [43, tr. 120]. Đến
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định: "Quản
lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng" [44, tr. 94]. Để quản lý
nhà nước bằng pháp luật có hiệu quả, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng đưa ra yêu cầu: "Quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng
việc giáo dục đạo đức" [45, tr. 129].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng lại tiếp tục đề cao vai
trò của pháp luật trong hệ thống các công cụ quản lý xã hội: "Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công
dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật" [46, tr. 132].
Như vậy, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến Đại
hội IX của Đảng, mục tiêu quản lý xã hội bằng pháp luật là mục tiêu nhất quán.
Quan điểm, tư tưởng này của Đảng được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992
và Nghị quyết sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết 51/2001-QH ngày 25 tháng 12
năm 2001 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh
chấp hành Hiến pháp và pháp luật" [55].
Với sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực GTĐB, vấn đề đặt ra là
những quy định của nhà nước về vấn đề này như thế nào, luật GTĐB là gì?
18
Có thể hiểu: Luật GTĐB là tổng thể các quy định về quy tắc GTĐB;
kết cấu hạ tầng GTĐB; phương tiện và người tham gia GTĐB; vận tải đường
bộ và quản lý nhà nước về GTĐB.
Pháp luật GTĐB có thể khái quát: Pháp luật GTĐB là tổng thể các
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành có nội dung điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB.
Với tư cách là công cụ để Nhà nước quản lý GTĐB thì pháp luật
GTĐB có nguồn rất rộng. Đó là các quy phạm pháp luật về đất đai, các quy
phạm pháp luật về dân sự, các quy phạm pháp luật về kinh doanh vận tải của
các thành phần kinh tế, các quy phạm pháp luật hành chính và tư pháp, các tội
phạm trong lĩnh vực GTĐB quy định trong Bộ luật hình sự,… Trong điều
kiện hội nhập khu vực và thế giới hiện nay, pháp luật GTĐB còn là các điều
ước quốc tế do nước ta tham gia hoặc ký kết.
Vấn đề đặt ra là tại sao Nhà nước phải quản lý lĩnh vực GTĐB? Hoạt
động quản lý nhà nước nói chung và quản lý trong một lĩnh vực cụ thể nào đó
có thể bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau. Phổ biến là quản lý
bằng phương pháp hành chính, phương pháp kế hoạch chính sách, phương
pháp kinh tế và phương pháp tư tưởng. Nhìn chung, Nhà nước phải dùng pháp
luật như một công cụ, đồng thời là phương pháp chủ yếu để quản lý xã hội, đó
chính là pháp luật.
Từ những khái niệm về pháp luật GTĐB, Luật GTĐB thì có thể khái
quát vấn đề vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB như sau:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB là những hành vị của cá
nhân, tổ chức vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực GTĐB một cách
cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
xử lý vi phạm hành chính, bao gồm: Các hành vi vi phạm quy tắc GTĐB; các
hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB; các hành vi vi phạm quy
định về phương tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về người
19
điều khiển phương tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về vận
tải đường bộ; các hành vi vi phạm khác về GTĐB.
Những hành vi vi phạm pháp luật về GTĐB có thể làm phát sinh
những quan hệ pháp luật sau đây:
- Vi phạm pháp luật dân sự.
- Vi phạm pháp luật hành chính.
- Vi phạm kỷ luật nhà nước (đối với cán bộ, công chức, viên chức hành
chính trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực GTĐB).
- Vi phạm pháp luật về đất đai.
Vậy xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này như thế nào, và có
tác dụng như thế nào đối với hoạt động quản lý nhà nước? Xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực GTĐB có thể hiểu: là hoạt động của cơ quan nhà
nước áp dụng đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý
vi phạm các quy định của pháp luật GTĐB về quy tắc GTĐB; các hành vi vi
phạm quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về
phương tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về vận tải đường
bộ; các hành vi vi phạm khác về GTĐB mà không phải là tội phạm và theo
quy định phải bị xử phạt hành chính.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đƣờng bộ
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB là một dạng của vi phạm
pháp luật. Do đó, những vi phạm này cũng có các yếu tố cấu thành pháp lý
gồm: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. Các yếu tố cấu
thành vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB nói riêng nằm trong một thể thống nhất.
20
Thứ nhất: Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành
chính trong lĩnh vực GTĐB nói riêng là tổng hợp các dấu hiệu bên ngoài của
vi phạm hành chính bao gồm: hành vi trái pháp luật, tính nguy hiểm cho xã
hội, hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu khác như
công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm.
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính
trong lĩnh vực GTĐB là hành vi vi phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi
mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý nhà
nước về GTĐB đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm hay không thực hiện
những việc mà pháp luật bắt buộc chủ thể phải làm.
Thứ hai: Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm là dấu hiệu bên trong của vi phạm hành
chính và thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm. Lỗi là dấu hiệu cơ bản trong
cấu thành mọi vi phạm hành chính. Hành vi lỗi được thể hiện dưới hình thức
cố ý hoặc vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở chỗ người có hành vi vi phạm nhận thức
được tính chất hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hoặc để mặc cho hậu
quả xảy ra. Lỗi vô ý thể hiện ở chỗ người thực hiện hành vi này phải trong
trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình
nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội.
Trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB,
yếu tố động cơ, mục đích vi phạm cũng được tính đến khi xem xét để quyết
định các hình thức và mức xử phạt cụ thể.
Thứ ba: Mặt chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có
năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
21
Theo quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB, cá nhân là chủ thể của vi
phạm hành chính, cụ thể là:
Người từ đủ 14 tuổi đến 1 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành
chính do cố ý. Như vậy, khi xác định người ở độ tuổi này có vi phạm hành
chính hay không, cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ. Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành không định nghĩa thế nào là lỗi cố ý
hoặc vô ý trong vi phạm hành chính. Tuy nhiên, thông thường người thực
hiện hành vi hành chính với lội cố ý là người nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm mà vẫn cố tình thực hiện.
Người đủ từ 16 tuổi trở lên vị xử phạt hành chính về mọi vi phạm
hành chính do mình gây ra.
Đối với chủ thể của vi phạm hành chính là tổ chức bao gồm: các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân.
Bên cạnh đó, Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập
trung huấn luyện và những người thuộc lực lượng Công an nhân dân vi phạm
hành chính thi bị xử lý như đối với các công dân khác; trong trường hợp cần áp
dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng một số giấy phép hoạt động vì mục
đích quốc phòng, an ninh thì người xử phạt không trực tiếp xử lý mà đề nghị
cơ quan, đơn vị Quân đội, Công an có thẩm quyền xử lý theo Điều lệnh kỷ luật.
Đối với các nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm
vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Việt Nam có ký kết
hoặc gia nhập có quy định khác.
Ngoài ra, một số trường hợp cá nhân, tổ chức không vi xử lý vi phạm
hành chính đó là:
22
Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ
đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích
chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là
phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình
hoặc của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành
vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Người thực hiện hành vi do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp
không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó.
Người thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong khi mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác mà làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình.
Thứ tư: Mặt khách thể
Vi phạm hành chính trong GTĐB cũng giống nư mọi vi phạm hành
chính khác là đều xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Dấu
hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính trong GTĐB là hành vi vi
phạm đã xâm phạm trật tự quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực
GTĐB, bao gồm: Các hành vi vi phạm quy tắc GTĐB, các hành vi vi phạm
quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB, các hành vi vi phạm quy định về phương
tiện tham gia GTĐB, các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển
phương tiện tham gia GĐB, các hành vi vi phạm quy định về vận tải đường
bộ, các hành vi vi phạm khác liên quan đến GTĐB.
1.2.3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đƣờng bộ
Theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa
đổi năm 2008, và Nghị định 34/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
23
chính trong lĩnh vực GTĐB có thể thấy xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực GTĐB phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm
hành chính do pháp luật quy định.
Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi
phạm hành chính được quy định cụ thể trong các văn bản luật của Quốc hội,
pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ.
Các văn bản do Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (UBND) ban hành để
chỉ đạo hướng dẫn, tổ chức thực hiện xử lý vi phạm hành chính và hình thức,
mức xử phạt.
Thứ hai: Nguyên tắc kịp thời, nhanh chóng, triệt để.
Mọi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB phải được phát
hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực GTĐB phải được tiến hành nhanh chóng, triệt để, mọi hậu quả do
hành vi vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định
của pháp luật.
Thứ ba: Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính
một lần.
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi
người vi phạm đều bị xử phạt. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.
Một hành vi vi phạm đã được người có thầm quyền xử phạt ra quyết
định xử phạt hoặc đã lập biên bản để xử phạt thì không được lập biên bản, ra
quyết định xử phạt lần thứ hai đối với hành vi đó nữa. Trong trường hợp hành
vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm quyền xử
phạt ra lệnh đình chỉ thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng.
24
Một hành vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền xử
phạt ra quyết định xử phạt thì không đồng thời áp dụng biện pháp xử phạt
hành chính khác như giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo
dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa và cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính
đối với hành vi đó.
Trong trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm bị chuyển hồ sơ
đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự mà trước đó đã có quyết định xử phạt hành
chính thì người đã quyết định xử phạt phải hủy bỏ quyết định xử phạt; nếu chưa
ra quyết định xử phạt thì không xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đó.
Thứ tư: Nguyên tắc xử lý công minh
Pháp luật quy định mọi hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nói
chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB nói riêng phải
đảm bảo công minh. Xử phạt phải đúng người, đúng tính chất hành vi, căn cứ
vào tính chất, mức độ vi phạm, thân nhân người vi phạm và những tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp.
Thứ năm: Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB
phải do người có thẩm quyền.
Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB dành
một chương quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Theo đó,
thẩm quyền xử phạt bao gồm: Chủ tịch UBND các cấp; Công an nhân dân;
Thanh tra đường bộ.
1.2.4. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp
khắc phục hậu quả trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ
1.2.4.1. Các hình thức xử pht vi phm hnh chính trong lnh vc
giao thông đưng b
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB bao gồm các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả. Các
25
hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả là một
trong những nội dung quan trọng của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực GTĐB.
Hình thức xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB thể hiện sự răn đe, trừng phạt của pháp luật đối với những cá nhân, tổ
chức có hành vi vi phạm các nguyên tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực
GTĐB, buộc người vi phạm phải chịu những hậu quả bất lợi về vật chất và
tinh thần.
Ngoài mục đích ngăn chặn hành vi vi phạm, các quy định này còn
mang tính giáo dục đối với các cá nhân, tổ chức bị xử phạt, góp phần nâng
cao ý thức của công dân trong việc chấp hành pháp luật và các quy tắc quản
lý nhà nước trong lĩnh vực GTĐB.
Theo Nghị định 34/2010/NĐ-CP hình thức xử phạt vi phạm hành
chính bao gồm: hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung.
* Về hình thức xử pht chính
Với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB, cá nhân, tổ
chức phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền.
Về nguyên tắc cá nhân, tổ chức vi phạm chỉ bị xử phạt bằng một hình
thức xử phạt chính duy nhất. Pháp luật quy định và áp dụng hình thức xử phạt
cảnh cáo hay phạt tiền đối với hành vi vi phạm trên sự đánh giá của Nhà nước
về tính chất và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với các quy tắc quản lý
nhà nước về GTĐB.
Hình thức pht tin
Đây là hình thức xử phạt phổ biến có tính chất kinh tế được áp dụng
với đa số hành vi vi phạm trong GTĐB. Phạt tiền là việc tước bỏ của cá nhân,
tổ chức vi phạm một khoản tiền nhất định để sung quỹ nhà nước. Phạt tiền tác
động trực tiếp đến vật chất, lợi ích kinh tế của cá nhân, tổ chức vi phạm, gây
26
cho họ những bất lợi về tài sản. Vì lý do đó, hình thức xử phạt này có hiệu
quả rất lớn trong việc phòng chống vi phạm hành chính trong GTĐB, đồng
thời thông qua đó giáo dục, phổ biến pháp luật cho người tham gia vào lĩnh
GTĐB. Mức xử phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính trong GTĐB theo
Nghị định 34/2010 được quy định mức tối thiểu là 40.000 đồng và mức tối đa
là 40.000.000 đồng. Khi áp dụng hình thức phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối
với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt
quy định đối với hành vi đó; nếu vi phạm có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền
phạt có thể giảm xuống thấp hơn mức trung bình nhưng không được giảm quá
mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức
tiền phạt có thể tăng lên cao hơn mức trung bình nhưng không được vượt quá
mức tối đa của khung tiền phạt.
Quy định này là phù hợp với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 và sửa đổi, bổ sung năm 2008. Theo pháp lệnh này, mức phạt tiền trong
xử phạt vi phạm hành chính là từ 10.000 đồng đến 500.000.000 đồng và riêng
trong lĩnh vực GTĐB mức xử phạt đối với hành vi vi phạm tối đa là
40.000.000 đồng
Mức phạt này được nghiên cứu dựa trên tính chất, mức độ xâm hại
của vi phạm đối với trật tự quản lý nhà nước trong GTĐB, đồng thời dựa trên
cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng hình thức phạt tiền nhằm đảm bảo tính phù
hợp, hợp lý với điều kiện kinh tế, xã hội.
Ngày 19/9/2012, Chính phủ ban hành Nghị định 71/2012/NĐ-CP (có
hiệu lực thi hành từ ngày 10/11/2012), sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 34/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB,
trong đó có những mức phạt được nâng lên khá cao.
Lái xe chy quá tc độ
Điều khiển xe ôtô và các loại xe tương tự ôtô chạy quá tốc độ quy định
từ 5 đến dưới 10 km/giờ bị phạt từ 600 đến 800 nghìn đồng; quá tốc độ quy
27
định từ 10 km/giờ đến 20 km/giờ bị phạt từ 2 đến 3 triệu đồng; chạy quá tốc
độ quy định trên 20 km/giờ đến 35 km/giờ, bị phạt từ 4 đến 6 triệu đồng; chạy
quá tốc độ quy định trên 35 km/giờ hoặc điều khiển xe lạng lách, đánh võng,
chạy quá tốc độ đuổi nhau trên đường bộ, bị phạt từ 8 đến 10 triệu đồng. Nếu
điều khiển xe lạng lách, đánh võng, chạy quá tốc độ đuổi nhau trên đường bộ
mà gây tai nạn hoặc không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của người thi hành
công vụ hoặc chống người thi hành công vụ, sẽ bị phạt từ 15 đến 25 triệu đồng.
Điều khiển xe môtô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương
tự môtô và các loại xe tương tự xe gắn máy chạy quá tốc độ quy định từ 5km/giờ
đến dưới 10km/giờ, bị phạt từ 100 đến 200 nghìn đồng; chạy quá tốc độ quy định
từ 10km/giờ đến 20km/giờ, bị phạt từ 500 nghìn đến 1 triệu đồng; điều khiển
xe chạy quá tốc độ quy định trên 20km/giờ, bị phạt từ 2 đến 3 triệu đồng.
Lái xe có mùi rượu bia
Điều khiển xe ôtô và các loại xe tương tự ôtô trên đường mà trong
máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100
mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở, bị phạt
từ 8 đến 10 triệu đồng; trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80
miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở, bị phạt từ 10
đến 15 triệu đồng.
Ngoài hai mức phạt trên, chỉ có "hơi men" (không cần đến số miligam
như nêu trên) khi điều khiển xe ôtô và các loại xe tương tự ôtô trên đường, là bị
phạt từ 2 đến 3 triệu đồng. Nói tóm lại, đã "lỡ uống" thì đừng ôm vô lăng lái xe.
Đua xe
Mức phạt nhẹ nhất (từ 1 đến 2 triệu đồng) đối với những người: tụ tập
để cổ vũ, kích động hành vi điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định, lạng
lách, đánh võng, đuổi nhau trên đường hoặc đua xe trái phép; đua xe đạp, đua
xe đạp máy, đua xe xích lô, đua xe súc vật kéo, cưỡi súc vật chạy đua trái
phép trên đường giao thông.
28
Mức kế tiếp (từ 4 đến 6 triệu đồng) dành cho những người cổ vũ, kích
động đua xe trái phép mà cản trở hoặc chống người thi hành công vụ.
Mức thứ ba (từ 10 đến 20 triệu đồng) để phạt người đua xe môtô, xe
gắn máy, xe máy điện trái phép.
Mức thứ tư (từ 20 đến 30 triệu đồng) để phạt người đua xe ôtô trái phép.
Mức thứ năm (từ 30 đến 40 triệu đồng) để phạt Người đua xe ôtô, xe
môtô, xe gắn máy, xe máy điện, xe đạp máy mà chống người thi hành công
vụ; người tổ chức đua xe trái phép.
Các mức phạt nêu trên là áp dụng chung trong cả nước, riêng tại khu
vực nội thành các thành phố trực thuộc trung ương, có một số vi phạm có mức
phạt nặng hơn. Tùy theo từng lỗi vi phạm, ngoài việc bị phạt tiền, người điều
khiển xe còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung, như tước quyền sử
dụng giấy phép lái xe, tịch thu phương tiện
Hình thức pht cảnh cáo
Là một trong hai hình phạt chính trong xử phạt vi phạm hành chính
lĩnh vực GTĐB. So với hình thức phạt tiền, cảnh cáo là hình thức xử phạt nhẹ
hơn, mang tính chất giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật. Tuy nhiên,
hình phạt này vẫn mang tính cưỡng chế nhà nước, gây cho người bị xử phạt
những tổn thất nhất định về mặt tinh thần.
Cảnh cáo được áp dụng với những cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm
hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.
Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.
* Hình thức xử pht bổ sung
Ngoài hình thức xử phạt chính nêu trên tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc
các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: