Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT
ĐỐI VỚI ĐỒ UỐNG

TRẦN VĂN ĐỘ

Hà Nội – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT
ĐỐI VỚI ĐỒ UỐNG

TRẦN VĂN ĐỘ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN VŨ HẢI

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Vũ Hải. Các số liệu, kết luận
được trình bày trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn./.
Học viên

Trần Văn Độ


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Trần
Vũ Hải - người hướng dẫn và giúp đỡ tôi rất tận tình trong suốt thời gian thực hiện
và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo của Viện Đại học Mở
Hà Nội, Khoa Sau Đại học đã truyền thụ, trang bị cho tôi những kiến thức quý báu
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn gia đình đã động viên, ủng hộ, chia sẻ và là chỗ
dựa tinh thần giúp tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2018
Tác giả

Trần Văn Độ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ....................... 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ..................... 1
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.............................. 2

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................... 3
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu .............. 3
7. Cơ cấu của luận văn ..................................... 3
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT ĐỐI
VỚI ĐỒ UỐNG VÀ PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI ĐỒ
UỐNG ..................................................................................................................... 4
1.1. Những vấn đề lý luận về thuế TTĐB đối với đồ uống .............. 4
1.1.1. Quan niệm về thuế TTĐB ............................. 4
1.1.2. Lý luận về thuế TTĐB đối với đồ uống .................... 10
1.2. Lựa chọn cấu trúc thiết kế pháp luật thuế, nguyên tắc và những yếu tố ảnh
hưởng đến pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống .................. 14
1.2.1. Lựa chọn cấu trúc thiết kế pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống .. 15
1.2.2. Nguyên tắc của pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống ......... 17
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống

23

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI ĐỒ UỐNG................................. 27
2.1. Thực trạng pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống ............... 27
2.1.1. Quy định về đối tượng chịu thuế ........................ 27


2.1.2. Quy định về chủ thể nộp thuế .......................... 32
2.1.3. Quy định về căn cứ tính thuế .......................... 34
2.1.4. Quy định về một số thủ tục về thuế TTĐB .................. 43
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống .......... 51
2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân ................. 51
2.2.2. Những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế TTĐB và nguyên nhân . 53
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC

BIỆT ĐỐI VỚI ĐỒ UỐNG ................................................................................... 62
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống ....... 62
3.1.1. Bám sát và cụ thể hóa chủ trương của Đảng về cải cách hệ thống thuế
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế .............................. 62
3.1.2. Bám sát “Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020” 63
3.1.3. Bám sát các nguyên tắc của hệ thống pháp luật thuế hiện đại..... 64
3.2. Những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật
thuế TTĐB đối với đồ uống................................. 65
3.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống . 65
3.2.2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật thuế TTĐB đối với đồ
uống .............................................. 71
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 76


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tiêu thụ đặc biệt

TTĐB


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nền kinh tế phát triển, thu nhập của người dân tăng lên cũng là lúc nhu cầu
sử dụng các hàng hóa, dịch vụ xa xỉ tăng theo như một hệ quả tất yếu. Tuy nhiên
không phải loại hàng hóa xa xỉ nào cũng tốt cho sức khỏe của con người, đơn cử là
một số loại đồ uống chẳng hạn như: rượu, bia…Đã có những bằng chứng khoa học
chỉ ra mối liên hệ giữa người thường xuyên sử dụng các loại đồ uống có cồn, đồ
uống có ga với một số bệnh như gan, tim mạch, huyết áp, tiểu đường hay béo phì.
Trong khi đó, Luật Thuế TTĐB năm 2008 (Sửa đổi bổ sung năm 2014 và

năm 2016) nói chung và vấn đề thuế TTĐB đối với đồ uống nói riêng đã tỏ ra
không còn đáp ứng yêu cầu về tính thời sự hay tính cập nhật với xu thế chung của
thế giới. Ngoài ra, qua nghiên cứu tìm hiểu được biết các công trình nghiên cứu
mang tính chất pháp lý về vấn đề cụ thể này hầu như là chưa có hoặc nếu có thì mới
chỉ tồn tại dưới dạng các bài báo, bài tạp chí đề cập tới những khía cạnh rất nhỏ,
chưa đề xuất được các giải pháp hợp lý dưới khía cạnh pháp luật. Bởi những lý do
nêu trên, em xin phép được lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Pháp luật Thuế tiêu thụ
đặc biệt đối với đồ uống – Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện” để làm luận văn
cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề pháp luật về thuế TTĐB cũng đã được nghiên cứu trong thời gian
gần đây, tuy nhiên không có công trình nào nghiên cứu cụ thể về pháp luật thuế
TTĐB đối với đồ uống. Tiêu biểu là một số công trình sau:
Bài báo khoa học “Một số nguyên tắc và nội dung sửa đổi Luật thuế
TTĐB” của tác giả Lê Thị Thu Thủy đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 15
năm 2008 (trang 39 – 42) đã đưa ra những nguyên tắc pháp lý và đề xuất hoàn thiện
pháp luật về thuế TTĐB. Nhiều nội dung đã được thể hiện trong Luật thuế TTĐB
năm 2008.

1


Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về thuế TTĐB ở Việt Nam – Thực
trạng và giải pháp” của tác giả Hoàng Thị Tuyết, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà
Nội năm 2014. Luận văn tập trung nghiên cứu toàn diện về thuế TTĐB liên quan
đến đối tượng, cơ chế đánh thuế, chủ thể nộp thuế. Vấn đề đối tượng chịu thuế là đồ
uống không được đề cập sâu và cụ thể.
Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật thuế TTĐB ở Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của Johnnie Phanthavong năm 2016 tại Trường Đại
học Luật Hà Nội. Luận văn chỉ nghiên cứu chung về thuế TTĐB và có đặt ra những

yêu cầu khi hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, công trình cũng không đi sâu vào một
nhóm hàng hóa cụ thể nào, trong đó có hàng hóa là đồ uống.
Như vậy, có thể thấy, vấn đề pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống chưa
được nghiên cứu một cách đầy đủ ở mức độ luận văn thạc sĩ luật học trở lên, trong
khi tác động của những đồ uống, từ đồ uống có cồn đến đồ uống có đường, đã và
đang ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận khi đánh
thuế TTĐB đối với đồ uống tại Việt Nam, từ đó phân tích thực trạng pháp luật hiện
hành điều chỉnh thuế TTĐB đối với đồ uống để có thể đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh nội dung này.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên thì đề tài cần thực hiện
các nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, khảo sát, phân tích khung lý luận về thuế TTĐB đối với đồ uống.
Hai là, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật thuế
TTĐB đối với đồ uống.
Ba là, xây dựng định hướng và những nội dung hoàn thiện quy định pháp
luật cụ thể về thuế TTĐB đối với đồ uống.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Là hệ thống các quy định pháp luật về thuế TTĐB
nói chung và đối với đồ uống nói riêng.

2


- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu này được giới hạn trong phạm vi chuyên
môn luật học, đối với những kết luận từ chuyên môn khác chỉ mang ý nghĩa tham
khảo. Nghiên cứu cũng chỉ tập trung và giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam,
các thông tin về pháp luật nước ngoài chỉ có ý nghĩa so sánh và tham khảo.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
Lênin, phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Những phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương pháp so sánh. Phương
pháp phân tích dùng để luận giải những khái niệm, nội hàm, bản chất của vấn đề
nghiên cứu. Phương pháp tổng hợp dùng để rút ra quy luật, từ đó kết luận vấn đề
nghiên cứu. Trong quá trình phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, trong đó
chủ yếu là so sánh luật học, được sử dụng để làm nổi bật phân tích hoặc kết luận.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Về mặt lý luận, luận văn sẽ làm rõ những nguyên tắc, yêu cầu trong việc
ban hành và thực hiện pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống để làm cơ sở đánh giá,
hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành sao cho có hiệu quả hơn.
Về mặt thực tiễn, luận văn sẽ tổng kết quá trình thực hiện pháp luật, đánh
giá những bất cập đã phát sinh trên thực tế để làm cơ sở đưa ra một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật về thuế TTĐB đối với đồ uống.
7. Cơ cấu của luận văn
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài phần Mở đầu và Kết luận, cơ cấu
của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật thuế TTĐB
đối với đồ uống
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thi hành pháp luật thuế TTĐB
đối với đồ uống.

3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ TIÊU THỤ
ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI ĐỒ UỐNG VÀ PHÁP LUẬT

THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI ĐỒ UỐNG
1.1. Những vấn đề lý luận về thuế TTĐB đối với đồ uống
1.1.1. Quan niệm về thuế TTĐB
Thuế TTĐB (thuật ngữ tiếng Anh là “excise taxes” hoặc “excise duty”) là
loại thuế được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới với các tên gọi cụ thể
có thể khác nhau như: Thuế tiêu dùng đặc biệt (Pháp); Thuế đặc biệt (Thụy Điển);
Thuế tiêu thụ (Trung Quốc)… Ở một số quốc gia, chỉ có một loại thuế TTĐB áp
dụng cho nhiều loại hàng hóa (Việt Nam cũng theo mô hình này), trong khi ở một
số nước khác, ví dụ Hàn Quốc và Nhật Bản, loại thuế này được trình bày theo đối
tượng chịu thuế riêng biệt, chẳng hạn: thuế đồ uống có cồn, thuế thuốc lá, thuế ô tô,
thuế xăng, thuế đồ uống có đường…
Trong lịch sử phát triển của thuế, ý niệm về một loại thuế đánh vào các loại
hàng hóa mang tính chất xa xỉ hoặc độc hại không khuyến khích sử dụng hoặc vì
những lý do đặc biệt khác đã xuất hiện rất sớm từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Tại
Mỹ, đến năm 1791 thì sắc thuế TTĐB đầu tiên mới được ban hành đánh vào rượu
whisky. Tại Australia, năm 1824 đã ban hành thuế TTĐB đánh vào các mặt hàng
như: rượu, bia, thuốc lá sợi, thuốc lá điếu, xì gà…
Tại Việt Nam, thuế TTĐB đã xuất hiện từ lâu như thuế diêm, thuế muối…
Sau năm 1945, thuế TTĐB quy định đối với thuốc lá, thuốc lào, bài lá, khiêu vũ,
đua ngựa, xiếc, xe hơi vận tải. Vào năm 1951, pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biêt
được hoàn thiện hơn với tên gọi là thuế hàng hóa, áp dụng với 50 nhóm hàng hóa,
mức thuế suất từ 5% đến 50%. Tới năm 1974, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành

4


Nghị quyết số 487 – NQ/QHK4 ngày 26/09/1974 ban hành Điều lệ thuế hàng hóa.
Mức thuế suất được áp dụng cụ thể đối với một số hàng là: Các loại rượu sản xuất
bằng hoa quả 40%; thuốc lào, thuốc lá lá, thuốc lá sợi 40%; hương, vàng mã, pháo
50%; bài lá các loại 50%... Đến ngày 17/11/1987, thuế hàng hóa được sửa đổi, bổ

sung cụ thể trong Pháp lệnh số 02-LCT/HĐNN8 của Hội đồng nhà nước với danh
mục gồm 17 loại hàng hóa khác nhau.
Ở giai đoạn này, pháp luật thuế TTĐB mới chỉ dừng lại ở mức sơ khai, các
nhà làm luật mới chỉ quy định một số loại hàng hóa chịu thuế TTĐB theo danh mục
chứ chưa quy định rõ ràng tại một văn bản riêng biệt về loại thuế này. Nguyên nhân
của thực trạng này là do nền kinh tế Việt Nam còn mang nặng tính bao cấp nên các
quy định của điều lệ thuế hàng hóa mang tính liệt kê. Những mặt hàng thiết yếu, đồ
ăn, đồ mặc, đồ dùng hằng ngày như: dầu ăn, nước mắm. hạt tiêu, chè tươi, chè khô,
giấy các loại…cũng phải chịu thuế. Các mặt hàng chịu thuế là hàng hóa do khu vực
ngoài quốc doanh sản xuất và một số hàng nhập cảnh theo người hoặc nhập cảnh
dưới hình thức quà biết, tặng phẩm.
Đổi mới kinh tế năm 1986 đã kéo theo sự ra đời của nhiều đạo Luật mới,
trong đó có đạo luật đầu tiên về Thuế TTĐB được ban hành thông qua Nghị quyết số
270B – NQ/HĐNN ngày 08 tháng 08 năm 1990 của Hội đồng nhà nước. Tiếp đó,
Luật Thuế TTĐB được Quốc hội khóa VIII kì họp thứ 7 thông qua ngày 30 tháng 06
năm 1990, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1990. Xét về phương diện đối
tượng chịu thuế thì Luật thuế TTĐB năm 1990 hẹp hơn rất nhiều so với Điều lệ Thuế
hàng hóa năm 1974. Cụ thể là: Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước
chỉ đánh thuế TTĐB vào những mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng chứ không
đánh vào những mặt hàng do khu vực ngoài quốc doanh sản xuất như trước đó.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các mặt hàng bị đánh Thuế TTĐB
liên tục được điều chỉnh để phù hợp với tình hình mới. Theo đó, Luật Thuế TTĐB
năm 1990 được sửa đổi, bổ sung hai lần vào các năm 1993 và năm 1995. Đến năm
1998, để tạo sự thống nhất với việc ban hành và áp dụng hai đạo luật thuế quan trọng

5


khác là Luật Thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Quốc hội khóa
X kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật Thuế TTĐB mới, trên cơ sở kế thừa và phát triển

Luật Thuế TTĐB năm 1990 và các Luật sửa đổi, bổ sung sau đó. Luật Thuế TTĐB
năm 1998 sau đó cũng được sửa, đổi bổ sung hai lần vào các năm 2003 và 2005.
Tiếp đó, ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật
thuế TTĐB mới với mục tiêu là ổn định nền kinh tế vĩ mô, giảm nhập siêu, kiềm
chế lạm phát, tránh gây đột biến trong sản xuất, tiêu dùng, đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước cũng như nhằm thực hiện các cam kết của Chính phủ Việt
Nam khi gia nhập WTO, phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật này thay thế toàn bộ
Luật Thuế TTĐB năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung luật này. Năm 2014 và
năm 2016 là thời điểm Luật Thuế TTĐB 2008 được sửa đổi, bổ sung và cho tới nay
nó vẫn đang còn có hiệu lực. Theo đánh giá thì nhìn chung khung pháp lý về Thuế
TTĐB ở Việt Nam xuất hiện muộn hơn và phát triển chậm hơn so với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu khi so sánh tương
quan về trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia.
Các đạo luật được đề cập trên đây chỉ tập trung điều chỉnh các vấn đề có liên
quan đến thuế TTĐB mà chưa có định nghĩa thế nào là Thuế TTĐB. Dường như
người thu thuế, người nộp thuế và những chủ thể có liên quan đến thuế TTĐB đơn
giản chỉ coi thuế TTĐB là một khoản tiền. Hoặc giữa họ tồn tại một khái niệm nội bộ
mà không bên nào cảm thấy cần phải giải thích. Tuy nhiên, để phục vụ cho mục đích
nghiên cứu, người viết thiết nghĩ cần phải tìm cho ra một khái niệm chính xác nhất về
thuế TTĐB. Xin được viện dẫn dưới đây một lý giải về thuế TTĐB như sau:
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: “Thuế TTĐB là loại thuế gián
thu đánh vào một số hàng hóa đặc biệt do các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ.
Thuế này do các cơ sở trực tiếp sản xuất ra hàng hoá đó nộp nhưng người tiêu dùng
là người chịu thuế vì thuế được cộng vào giá bán”.
Với định nghĩa này chưa rõ mục đích của thuế TTĐB và dường như cũng
chưa phân biệt được thuế TTĐB với các loại thuế gián thu khác.

6



Một định nghĩa được xem là khá chính thống, đó là trong Giáo trình Luật
Thuế Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, như sau: “Thuế TTĐB là loại
thuế đánh vào một số hàng hóa và dịch vụ đặc biệt, cần điều tiết mạnh nhằm hướng
dẫn sản xuất và tiêu dùng đồng thời làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước”
[23; tr.97]. Khái niệm trên là tương đối ngắn gọn, súc tích nhưng lại bao hàm tương
đối được hầu hết các đặc điểm của Thuế TTĐB cũng như đủ hàn lâm để sử dụng
với mục đích nghiên cứu.
Về bản chất, thuế TTĐB là một loại thuế gián thu, tức người sản xuất hoặc
người bán (trong trường hợp người sản xuất chưa nộp thuế) sẽ có nghĩa vụ nộp thuế
nhưng người tiêu dùng mới là đối tượng phải gánh chịu thuế vì thuế này là một phần
của giá mua mà người mua phải trả. Vì vậy, thuế TTĐB mang nhiều điểm tương
đồng với các loại thuế gián thu khác như: Thuế giá trị gia tăng, Thuế bảo vệ môi
trường, Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu… Tuy nhiên, vẫn có thể nhận diện Thuế
TTĐB thông qua một số đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, thuế TTĐB có diện đánh thuế hẹp và hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
có tính “đặc biệt”.
So với một loại thuế gián thu khác là thuế giá trị gia tăng thì đối tượng chịu
Thuế TTĐB là không đáng kể. Hầu hết các loại hàng hóa, dịch vụ lưu đều phải chịu
Thuế giá trị gia tăng trong khi đó, Thuế TTĐB chỉ tập trung điều tiết một số mặt
hàng và dịch vụ nhất định, không được Nhà nước khuyến khích tiêu dùng. Chúng
không được khuyến khích tiêu dùng là do hành vi sử dụng chúng làm ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe cộng đồng, đến môi trường, tiềm ẩn khả năng gây bất ổn về an
ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc là những mặt hàng xa xỉ mà chỉ đối tượng có thu
nhập cao mới tiêu dùng. Theo tác giả Trần Vũ Hải (2009) thì nhìn chung các mặt
hàng chịu Thuế TTĐB thường gồm những nhóm như sau:
- Những hàng hoá không có lợi khi tiêu dùng: rượu, bia, thuốc lá, xì gà, bài
lá, vàng mã, hàng mã.
- Những hàng hoá, dịch vụ chưa phù hợp với mặt bằng thu nhập ở Việt

7



Nam: ô tô chở người dưới 24 chỗ ngồi, điều hoà nhiệt độ công suất dưới 90.000
BTU, kinh doanh vũ trường, kinh doanh golf…
- Những dịch vụ không khuyến khích do những tác động của chúng đối với
xã hội: xổ số, cá cược, dịch vụ mát-xa, karaoke, vũ trường.
- Những hàng hoá cần tiết kiệm: xăng và các chế phẩm pha xăng [9].
Ở mỗi quốc gia khác nhau, tương ứng với từng giai đoạn khác nhau mà
danh mục hàng hóa, dịch vụ chịu Thuế TTĐB có thể thay đổi. Điều này phụ thụộc
vào sự thay đổi trong chủ trương, chính sách của Nhà nước về hướng dẫn sản xuất,
tiêu dùng cũng như trong việc điều tiết thu nhập của các tầng lớp trong xã hội,
chẳng hạn như: khuyến khích sử dụng hàng nội địa, hạn chế sản xuất, nhập khẩu
các hàng hóa không có lợi cho nền kinh tế, không có lợi cho tiêu dùng. Ví dụ tại
Vương quốc Anh hiện nay, thuế TTĐB được đánh với những hàng hóa sau: rượu
vang, bia, các đồ uống có cồn nồng độ thấp, nước uống có hương vị, hàng hóa nhập
khẩu chứa cồn, sản phẩm thuốc lá, dầu hydrocarbon, các sản phẩm gây biến đổi khí
hậu, nhiên liệu sinh học [27]. Tại Thái Lan, theo Luật Thuế TTĐB năm 2017 thì các
loại hàng hóa sau đây bị đánh thuế TTĐB: dầu mỏ và các sản phẩm dầu mỏ, một số
đồ uống, một số loại sản phẩm điện tử, sản phẩm pin, thủy tinh và pha lê, mô tô, xe
vận hành trên mặt nước, nước hoa và mỹ phẩm, đá granit và marble, sản phẩm làm
nguy hại đến bầu khí quyển, rượu, thuốc lá, bài lá…
Tại Việt Nam vào khoảng thời gian trước khi Luật Thuế TTĐB năm 1990
ra đời thì đối tượng chịu Thuế hàng hóa gồm 50 nhóm với thuế suất từ 5 đến 50%.
Tuy nhiên để khuyến khích sản xuất, thuế hàng hóa không đánh vào hoặc có mức
thu rất thấp đối với tư liệu sản xuất và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Thuế đánh
nặng vào những mặt hàng cao cấp hoặc chưa cần thiết như: mỹ phẩm, thuốc lá, cà
phê, rượu, hàng mã…Qua quá trình áp dụng, số loại hàng hóa thuộc đối tượng chịu
thuế ngày càng giảm dần và tới khi Luật Thuế TTĐB năm 1990 ra đời thì chỉ còn
lại 06 mặt hàng phải chịu thuế đó là: thuốc hút, rượu, bia, pháo, bài lá và vàng mã.
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TTĐB năm 1993 giảm xuống chỉ còn 04 loại hàng


8


hóa chịu thuế đó là: Thuốc lá điếu, rượu, bia và pháo.
Thứ hai, thuế suất thuế TTĐB có thể là thuế suất cố định hoặc thuế suất tỷ
lệ (hoặc cả hai) và thường cao hơn thuế suất của các loại thuế gián thu khác.
Biểu thuế suất thuế TTĐB có thể bao gồm hệ thống thuế suất cố định hoặc
thuế suất tỷ lệ và thường được quy định cụ thể đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ.
Đối với các quốc gia áp dụng biểu thuế suất cố định, mức thu được ấn định bằng
một lượng tuyệt đối trên đơn vị hàng hóa chịu thuế. Ví dụ: Ở Trung Quốc, thuế suất
áp dụng với bia là 250 Nhân dân tệ/tấn; Ở Nhật Bản là 220.000 yên/1000 lít. Ở Hoa
Kỳ, thuế suất thuế TTĐB đối với các loại rượu dao động từ 0.04 đến 2.14 USD/ 750
ml; đối với thuốc lá loại nhỏ là 1.03 USD/bao. Với hệ thống thuế suất tỷ lệ, mức thu
được quy định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định dựa trên giá tính thuế hàng hóa,
dịch vụ. Chẳng hạn như ở Trung Quốc, thuế suất áp dụng đối với thuốc lá dao động
từ 30 đến 45%, đối với mỹ phẩm là 30%, đối với trang sức và đá quý là 10%. Đặc
biệt cũng có những quốc gia sử dụng cả thuế suất cố định và thuế suất tỷ lệ để
hướng dẫn tiêu dùng đối với một số mặt hàng đặc biệt như ở Thái Lan. Theo pháp
luật của Thái Lan, rượu hay các loại đồ uống không cồn, thuốc lá, xăng là những
mặt hàng chịu thuế TTĐB theo thuế suất cố định. Trong khi đó, bài lá, diêm và xi
măng lại chịu thuế theo mức thuế suất tỷ lệ. Việt Nam áp dụng thuế suất tỷ lệ đối
với các hàng hóa, dịch vụ là đối tượng chịu thuế và mức thuế suất thấp nhất là 10%
(bằng mức thuế suất cao nhất đối với thuế giá trị gia tăng hiện hành).
Thứ ba, thuế TTĐB chỉ được thu một lần ở khâu sản xuất hoặc nhập khẩu
hàng hóa và tại khâu cung cấp dịch vụ.
Khác với thuế giá trị gia tăng là loại thuế tính trên phần giá trị tăng thêm
của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng,
thuế TTĐB chỉ được thu một lần ở khâu sản xuất, khâu nhập khẩu hoặc khâu phân
phối. Các loại hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB không phải chịu thêm

thuế khi trải qua mỗi công đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh.
Thứ tư, mục đích chính của việc đánh thuế TTĐB không phải là tạo nguồn

9


thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước, mà là điều chỉnh hành vi của người tiêu dùng.
Về khía cạnh hành vi tiêu dùng, việc đánh thuế cao vào một hàng hóa, dịch
vụ nhất định sẽ có tác dụng làm thay đổi sự lựa chọn của người tiêu dùng sang một
hoặc một số loại hàng hóa thay thế. Ví dụ: Nếu đánh thuế cao vào điều hòa nhiệt độ,
người tiêu dùng sẽ có khuynh hướng sử dụng quạt hơi nước để làm mát. Mục đích
chính của thuế TTĐB, nhất là đối với các hàng hóa, dịch vụ độc hại, không khuyến
khích, chính là làm thay đổi hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng. Trong một số
trường hợp, việc đánh thuế TTĐB chỉ với mục đích duy nhất là tạo ra nguồn thu cho
ngân sách là không hợp lý, vì như vậy đồng nghĩa với việc nhà nước có thể đánh
chồng thuế (do có thuế giá trị gia tăng), thậm chí là không có cơ sở để thu thuế.
Nỗ lực thay đổi hành vi của người tiêu dùng thông qua việc đánh thuế cao
đôi khi cũng bị thất bại và/hoặc không đạt hiệu quả. Trên thực tế, việc đánh thuế với
thuế suất cao đối với một số hàng hóa sẽ không làm thay đổi hành vi của người tiêu
dùng do nhu cầu của họ bị gắn quá chặt với loại hàng hóa đó, ví dụ như những
người nghiện thuốc lá hoặc rượu. Thậm chí, người tiêu dùng sẽ sử dụng những hàng
hóa cùng loại nhưng phẩm cấp thấp hơn để giảm thuế và điều đó cũng có nghĩa là
ảnh hưởng đến sức khỏe của họ nhiều hơn.
1.1.2. Lý luận về thuế TTĐB đối với đồ uống
Đồ uống là một trong những loại thực phẩm quan trọng của con người. Kể
từ khi phát minh ra kĩ thuật đóng hộp và kĩ thuật bảo quản thì đồ uống đóng chai trở
nên phổ biến trên toàn thế giới. Nhiều loại đồ uống được ưa chuộng, nhất là giới trẻ
như bia, rượu, nước tăng lực, nước ngọt có gas, nước ép hoa quả… Nhìn chung, trừ
bia, rượu, hầu hết những đồ uống còn lại đều chứa một tỷ lệ đường nhất định.
Trên bình diện chung, một số loại đồ uống thường đối tượng chịu thuế

TTĐB theo quy định của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, quy định về thuế TTĐB đối
với đồ uống ở mỗi quốc gia trên thế giới còn những điểm khác biệt, nhưng về quan
điểm của chính phủ các nước đối với việc đánh thuế TTĐB đối với đồ uống, nhất là
từng đồ uống cụ thể, cũng có những nét tương đồng từ quá trình phát triển lâu dài

10


của đồ uống trên thế giới.
Qua nghiên cứu, người viết nhận thấy những lý do chính sau đây đã khiến
một số loại đồ uống trở thành đối tượng chịu thuế TTĐB ở nhiều quốc gia.
Thứ nhất, một số loại đồ uống là đối tượng chịu thuế TTĐB thường gây hại
hoặc tiềm ẩn nguy cơ gây hại cho sức khỏe con người.
Hiện nay, đối tượng chịu thuế đặc biệt là đồ uống chủ yếu được phân làm 3
loại: đồ uống có cồn (ví dụ như bia, rượu), đồ uống có ga (nước ngọt có đường hoặc
không đường) và đồ uống khác (ví dụ như trà, cà phê, các loại nước ép…). Trong
đó, đồ uống có cồn là đối tượng chịu thuế TTĐB ở gần như là tất cả các nước trên
thế giới do tác động tiêu cực trực tiếp của loại đồ uống này tới sức khỏe, tính mạng
của con người.
Việc sử dụng quá nhiều rượu, bia có thể gây nên các triệu chứng như ngộ
độc rượu ở các mức độ khác nhau, thậm chí là tử vong. Ngoài ra, đồ uống có cồn
còn là căn nguyên của nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng khác như: Bạo lực cá nhân,
mất trật tự an toàn xã hội, tội phạm và tai nạn giao thông hoặc tai nạn lao động. Các
nghiên cứu về y khoa cho thấy nếu sử dụng thường xuyên bia, rượu sẽ tiềm ẩn nguy
cơ gây ra các bệnh về tim mạch, gan, thận, tiểu đường, béo phì, huyết áp cao… Đồ
uống có cồn còn tác động tới tâm lý theo cơ chế làm giãn các mạch máu, đặc biệt là
các mạch máu bên ngoài. Từ đó mà người ta có cảm giác ấm khi uống các loại thức
uống có cồn. Khi đó việc điều chỉnh nhiệt lượng tự nhiên của cơ thể không còn hiệu
lực nữa. Ngay khi chỉ uống một lượng vừa phải tầm 0,2 phần ngàn (0,2‰) cồn
trong máu, tương đương với 0,3 lít bia hoặc 100 ml rượu vang, tùy theo cân nặng và

cấu tạo của cơ thể, cồn đã có tác động đến hệ thống thần kinh và đặc biệt là lên não
dẫn đến góc nhìn bị thu hẹp lại và thời gian phản ứng chậm đi.
Các nhà nghiên cứu của Đại học Stockholm (Thụy Điển) đã tìm thấy rằng
uống 50g cồn hằng ngày sẽ để lại tác hại vĩnh viễn. Ước lượng vào khoảng 100.000
tế bào não sẽ bị giết chết khi uống một ly bia. Trong một cơn say rượu con số tế bào
não chết đi có thể lên đến 10 triệu. Cồn cũng ảnh hưởng đến tình dục và khả năng

11


có con. Cồn làm giảm tính tự kiềm chế và làm giảm lượng tinh trùng khỏe mạnh để
đủ khả năng đậu thai. Theo các nghiên cứu mới đây của giáo sư E. Abel (Mỹ), nam
giới uống rượu trước khi sinh hoạt tình dục chẳng những làm tăng khả năng sẩy thai
mà còn có thể ảnh hưởng đến việc phát triển của đứa con sinh ra. Người mẹ uống
rượu trong thời gian mang thai dễ sinh ra các đứa trẻ có khuyết tật về trí tuệ.
Bên cạnh những tác động tiêu cực không thể chối cãi của đồ uống có cồn,
thì những nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam cũng cho thấy rõ ràng hơn những
tác động tiêu cực của nước ngọt đối với sức khỏe của người tiêu dùng trong thời
gian gần đây.
Theo tác giả Minh Thuận trong bài báo có tựa đề: “Thuế TTĐB đối với đồ
uống có đường – Chi phí và lợi ích của chính sách?” [22] đăng trên tờ Tia sáng, số
ra ngày 12/09/2017 trích dẫn số liệu thống kê của New England Journal of
Medicine [29] thì tỷ lệ béo phì trong độ tuổi trưởng thành ở Việt Nam tính đến năm
2015 chỉ ở mức 1,23% đối với nam và 2,03% đối với nữ trong độ tuổi trưởng thành
và con số này ở trẻ em trai là 2,36% và trẻ em gái là 1,94%. Mặc dù đây vẫn là mức
không cao so với trung bình trên thế giới, tuy nhiên tỷ lệ thừa cân ở cả 4 nhóm đối
tượng đã tăng gấp 3 lần so với hồi năm 1980. Trong khi đó, tỷ lệ bệnh nhân mắc
tiểu đường của Việt Nam đã tăng gần gấp đôi trong 10 năm trở lại đây, hiện tại theo
tính toán của Tổ chức Y tế thế giới (viết tắt là WHO) thì cứ 20 người Việt Nam thì
lại có một người bị tiểu đường và trong năm 2015 đã có khoảng 53.458 người tử

vong do các bệnh lý liên quan đến tiểu đường.
Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa lượng calo
được hấp thụ và khả năng béo phì, tiểu đường. Trong đó đồ ăn và thức uống với
hàm lượng đường nhân tạo cao là nguồn cung cấp calo chính. Việc kiểm soát khối
lượng đồ uống có đường được nạp vào cơ thể được cho là giải pháp quan trọng hạn
chế sự gia tăng tình trạng béo phì.
Theo WHO hiện nay có khoảng 40 nước đang áp dụng thuế TTĐB đối với
đồ uống có đường. Tại văn bản gửi Bộ Tài chính Việt Nam của WHO ngày

12


08/09/2017 về khuyến nghị đánh thuế nước ngọt thì WHO đã đồng tình và đánh giá
cao đề xuất áp dụng thuế TTĐB với nước ngọt để tăng giá các loại nước giải khát
này và khuyến nghị Việt Nam nên tăng thuế sao cho có thể đạt được sự tăng giá bán
ở mức 20%. Theo đa số các nghiên cứu, thì yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến lượng
mua và tiêu thụ đồ uống có đường là giá cả chứ không phải khẩu vị hoặc các yếu tố
gây nghiện. Do đó, can thiệp thông qua công cụ thuế sẽ hữu hiệu hơn để điều tiết
lượng tiêu dùng đồ uống có đường.
Thứ hai, đồ uống thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB thường là những đồ
uống không thật sự cần thiết với cuộc sống của con người, nhất là cuộc sống lành
mạnh mà chúng ta hướng đến.
Nước là nhân tố thiết yếu của sự tồn tại không chỉ đối với con người mà tất
cả mọi sự sống trên trái đất. Và tất nhiên, nước nói chung không phải là đối tượng
chịu thuế TTĐB. Ngược lại, một số loại đồ uống như: rượu, bia, nước ngọt, trà…có
giá thành rất cao nhưng lại không tương xứng với giá trị sử dụng. Chẳng hạn, một
chai rượu ngoại giá thành có thể lên tới vài chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng.
Thế nhưng công dụng của thức uống đắt đỏ này không thực sự nổi trội nếu đem so
sánh với các loại sản vật quý hiếm khác có chung mức giá. Đối tượng tiêu thụ rượu
ngoại, rượu vang loại đắt thường là những người có thu nhập cao trong xã hội.

Rượu chủ yếu được sử dụng với mục đích làm quà biếu tặng. Ngoài ra, nếu xét về
công dụng giải khát thì con người có rất nhiều sự lựa chọn thay thế như: nước
khoáng, một số loại trà, nước hoa quả…Nhìn chung, đồ uống là đối tượng chịu thuế
TTĐB không mang tính chất thiết yếu với đời sống con người. Đánh thuế TTĐB
vào những đối tượng này có thể giúp thu được một khoản tiền cho ngân sách nhà
nước và đồng thời góp phần phân phối lại thu nhập trong xã hội.
Thứ ba, đồ uống là đối tượng chịu thuế TTĐB phù hợp với thông lệ quốc tế
cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
Khảo sát về chính sách thuế TTĐB ở các nước trên thế giới cho thấy: Hàng
hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB có sự khác biệt khá lớn. Tuy nhiên pháp luật thuế

13


TTĐB ở hầu hết các quốc gia đều bao gồm 4 nhóm cơ bản là: Các sản phẩm thuốc
lá; các sản phẩm đồ uống có cồn; các sản phẩm dầu mỏ và casino.
Bên cạnh đồ uống có cồn, nhiều quốc gia đã và đang mở rộng đối tượng chịu
thuế TTĐB đối với đồ uống nhằm hạn chế việc tiêu dùng mà theo quan điểm của họ
là có hại cho sức khỏe hoặc nhà nước cần có sự điều tiết về tiêu dùng như nước ngọt
có ga, thậm chí cả nước ngọt không ga và nước hoa quả. Hiện nay các quốc gia đã
đánh thuế TTĐB với nước ngọt bao gồm: Thái Lan, Pháp, Mexico, Hungary, Na Uy,
Anh [21]. Tại Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống nhất, nước này áp dụng mức thuế
suất là 50% đối với các loại nước ngọt, 100% đối với các loại nước tăng lực [4].
Ví dụ tại Cộng hòa Liên bang Đức, theo một nghiên cứu cho thấy mức tiêu
thụ đồ uống ngọt từ đường ở Đức cao so với các quốc gia khác trên toàn thế giới.
Nước ngọt từ đường đóng góp vào sự phát triển béo phì và đái tháo đường type 2.
Các bệnh thứ cấp phát sinh từ tình trạng béo phì và đái tháo đường với những thách
thức to lớn. Tại Đức, thuế trên đồ uống có đường như là một phần của chiến lược
toàn diện có thể đóng góp đáng kể cho công tác phòng chống béo phì, như kinh
nghiệm đã thể hiện ở Mexico, Pháp và Mỹ. Mặc dù ngành công nghiệp thực phẩm

đang sử dụng các chiến thuật tương tự như ngành công nghiệp thuốc lá để ngăn chặn
các quy định nhưng với ý chí chính trị mạnh mẽ và sự hỗ trợ từ các chuyên gia và
công chúng thì các quy định về thuế trên đồ uống có đường đang phát huy hiệu quả
[28].
Sự tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật thế giới về đối tượng
chịu thuế TTĐB là đồ uống không chỉ thể hiện sự hội nhập quốc tế trong chính sách
công mà còn ở kỹ thuật lập pháp trong việc lựa chọn, xác định đối tượng chịu thuế
và phương thức đánh thuế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế
cũng như khả năng chịu thuế của chủ thể nộp thuế và xã hội. Trong thời gian gần
đây, dư luận xã hội tại Việt Nam đã có nhiều quan tâm hơn đến vấn đề đánh thuế
tiêu thụ đối với đồ uống có đường, cụ thể là các loại nước ngọt.
1.2. Lựa chọn cấu trúc thiết kế pháp luật thuế, nguyên tắc và những yếu tố ảnh

14


hưởng đến pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống
1.2.1. Lựa chọn cấu trúc thiết kế pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống
Từ lý luận chung về pháp luật thuế TTĐB và những lý do chủ yếu để các
quốc gia, trong đó có Việt Nam, đánh thuế TTĐB đối với đồ uống, có thể hiểu khái
niệm pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống như sau:
Pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống là tổng thể các quy phạm pháp luật
điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước (chủ thể có quyền thu thuế) với tổ chức, cá
nhân có nghĩa vụ nộp thuế TTĐB và các chủ thể khác có liên quan trong việc quản
lý thuế TTĐB đối với một số loại đồ uống thuộc diện chịu thuế.
Việc lựa chọn cấu trúc thiết kế pháp luật thuế đối với đồ uống có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả thu thuế trên thực tế cũng như đáp
ứng được những đòi hỏi về chính sách thuế TTĐB. Việc lựa chọn cấu trúc thiết kế
pháp luật thuế cần trả lời cụ thể 3 câu hỏi cơ bản sau đây:
Thứ nhất, những loại đồ uống nào được lựa chọn để chịu thuế?

Thứ hai, những chủ thể nào sẽ có nghĩa vụ nộp thuế?
Thứ ba, thuế suất thuế TTĐB sẽ theo phương pháp nào và mức thuế suất là
bao nhiêu là hợp lý?
Về câu hỏi thứ nhất, nội dung phần 1.1.2 ở trên đã phân tích khá kỹ. Tại
Việt Nam hiện nay, đồ uống bị đánh thuế tiệu thụ đặc biệt là đồ uống có cồn mà cụ
thể xác định thành 2 nhóm chính là rượu và bia. Những loại đồ uống không có cồn
hoặc có thể có cồn nhưng không xếp vào loại rượu hay bia thì không thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật thuế.
Về câu hỏi thứ hai, chủ thể nộp thuế có thể khác nhau theo quan điểm và
cách tiếp cận của mỗi quốc gia. Có những quốc gia quy định thuế TTĐB nói chung
và thuế TTĐB đối với đồ uống nói riêng sẽ do cơ sở kinh doanh (cơ sở bán hàng) là
chủ thể nộp thuế. Trong khi đó, một số quốc gia khác, trong đó có Việt Nam hiện
nay, lại quy định nghĩa vụ nộp thuế thuộc về chủ thể sản xuất đồ uống thuộc diện

15


chịu thuế. Nếu trong trường hợp cơ sở kinh doanh là chủ thể chịu thuế, mức thuế
phải nộp có thể cao hơn do giá bán cao hơn, nhưng có ưu điểm là trực tiếp hạn chế
khả năng sử dụng của người tiêu dùng mà đây chính là mục đích chủ yếu của thuế
TTĐB. Trong trường hợp cơ sở sản xuất là chủ thể chịu thuế, mức thuế phải nộp có
thể thấp hơn do giá tính thuế chưa có chi phí lưu thông, và phương thức nộp thuế
này có tính chất “ngăn chặn tại nguồn”, có khả năng hạn chế việc lựa chọn của
chính người kinh doanh khi lựa chọn đồ uống để bán, trước khi đến tay người tiêu
dùng.
Khi xác định chủ thể nộp thuế, nhất là khi chủ thể nộp thuế là cơ sở sản
xuất, còn cần thiết phải phân loại quy mô và tính chất của cơ sở sản xuất. Với
những cơ sở sản xuất là doanh nghiệp, có đăng ký kinh doanh, đáp ứng được các
yêu cầu về điều kiện kinh doanh và chế độ kế toán hóa đơn chứng từ thì việc quản
lý thuế tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, với những cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, manh mún

(khá phổ biến ở Việt Nam) thì việc quản lý thuế gặp nhiều khó khăn nên cần thiết
kế chính sách thuế phù hợp với đối tượng này, ví dụ cơ sở đó phải ở mức độ nào thì
mới yêu cầu nộp thuế, cách thức xác định nghĩa vụ thuế sao cho đơn giản…
Về câu hỏi thứ ba, hiện nay trên thế giới có nhiều phương pháp tính thuế đối
với hàng hóa chịu thuế TTĐB, bao gồm tính thuế theo thuế suất phần trăm, tính
thuế theo mức thuế cố định (thuế tuyệt đối) hoặc kết hợp cả hai phương pháp trên.
Trong phương pháp tính thuế theo thuế suất phần trăm, ngoài thuế suất thì số
tiền thuế phải nộp cho một đơn vị hàng hóa còn phụ thuộc vào giá tính thuế. Nếu
giá tính thuế đủ thấp, tác động của thuế TTĐB đối với giá bán hàng hóa là không đủ
để thay đổi hành vi xã hội, thậm chí có thể dẫn đến tình trạng lách luật khi phân
tách các khâu từ sản xuất đến tiêu dùng nhằm làm giảm giá tính thuế.
Trong phương pháp tính thuế tuyệt đối, mức thuế quy định không phụ thuộc
vào giá tính thuế nên đảm bảo cho khả năng điều tiết của thuế đối với giá bán thấp,
nghĩa là kể cả cơ sở sản xuất có bán giá thấp thì vẫn phải nộp mức thuế như thế, nên
động cơ bán giá thấp sẽ bị triệt tiêu đáng kể. Tuy nhiên, việc ban hành một mức

16


thuế cố định thường khó khăn hơn khi thuyết phục người dân về tính khoa học và
có cơ sở của mức thuế đó.
Do đó, để dung hòa hai phương pháp trên, một số quốc gia đã lựa chọn việc
đánh thuế theo cả hai phương pháp. Đối với hàng hóa thuộc diện chịu thuế sẽ chịu
đồng thời cả hai mức thuế, một mức thuế cố định trên đơn vị hàng hóa và mức thuế
phần trăm tính theo giá bán. Cách làm này tương đối phức tạp nhưng lại tận dụng
được các ưu điểm và hạn chế về cơ bản các nhược điểm của mỗi phương pháp đánh
thuế nêu trên.
Về mức thuế suất, quan điểm nhất quán mà nhiều quốc gia thực hiện là mức
thuế suất của thuế TTĐB sẽ cao hơn so với thuế tiêu dùng thông thường (ví dụ như
thuế giá trị gia tăng hoặc thuế tiêu dùng bán lẻ). Có như vậy mới thể hiện rõ quan

điểm của nhà nước trong việc điều tiết đối với các đối tượng chịu thuế. Tuy nhiên,
mức thuế cụ thể là bao nhiêu lại có sự khác biệt giữa các quốc gia. Tại Châu Âu,
các quốc gia có quyền quyết định mức thuế cụ thể trên cơ sở đảm bảo sự cam kết và
phù hợp với hướng dẫn của Hội đồng Châu Âu về việc hài hòa thuế TTĐB.
1.2.2. Nguyên tắc của pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống
Lý thuyết thông dụng của tài chính công cho rằng việc đánh thuế nói
chung, trong đó có thuế TTĐB, là cần thiết để tài trợ cho hoạt động chi tiêu công
cũng như đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước bởi vì thị trường không đủ
khả năng cung cấp các hàng hóa công ích cũng như làm cân bằng, hài hòa các phúc
lợi xã hội. Để xác định xem hệ thống thuế nói chung và từng loại thuế cụ thể có hợp
lý hay không, thông thường dựa trên các nguyên tắc của pháp luật thuế, bao gồm
nguyên tắc hiệu quả kinh tế, nguyên tắc chi phí hành chính phù hợp, nguyên tắc linh
hoạt, nguyên tắc trách nhiệm giải trình và nguyên tắc công bằng [26].
1.2.2.1. Nguyên tắc hiệu quả kinh tế
Nguyên tắc hiệu quả kinh tế trong pháp luật thuế TTĐB đối với đồ uống
được hiểu là việc đánh thuế cần đem lại những hiệu quả rõ ràng cả về nguồn thu
cũng như đảm bảo khả năng điều tiết đối với các đối tượng chịu thuế và người tiêu

17


dùng. Bên cạnh đó, nguyên tắc hiệu quả cũng đề cao việc hạn chế những tổn thất vô
ích trong quá trình áp dụng pháp luật cũng như sử dụng nguồn lực từ thuế TTĐB.
Thứ nhất, việc xác định một đối tượng là đồ uống phải chịu thuế TTĐB cần
đảm bảo là việc thu thuế đó là đáng kể về số thu. Trong trường hợp đưa một loại đồ
uống thuộc diện chịu thuế làm tăng đáng kể số thuế thu được so với trước thì đó
chính là một quy định hiệu quả về mặt kinh tế. Ngược lại, nếu việc đưa một loại đồ
uống vào diện chịu thuế nhưng mức đánh thuế là không đáng kể, hoặc mức thuế là
đáng kể nhưng không kiểm soát hiệu quả nguồn thu dẫn đến không thu được, thì khi
đó được xem là không hiệu quả về mặt kinh tế. Ví dụ, việc đánh thuế đối với rượu,

bia được xem là tương đối hiệu quả vì số lượng hàng hóa loại này lớn, người tiêu
dùng Việt Nam sử dụng nhiều. Trước đây, mặt hàng đồ uống chứa đường hoặc chất
kích thích chưa phổ biến, nên nếu đánh thuế TTĐB thì hiệu quả kinh tế chưa cao.
Tuy nhiên hiện nay, những đồ uống có đường là khá quen thuộc, phổ biến nên pháp
luật cũng cần cân nhắc để đưa những loại đồ uống này vào diện chịu thuế như nhiều
quốc gia khác.
Thứ hai, quy định về thuế TTĐB cần đảm bảo tính hiệu quả trong việc điều
tiết đối với đối tượng chịu thuế. Việc đánh thuế cần đảm bảo đồng nhất, bao quát,
không bỏ lọt để người tiêu dùng không sử dụng các hàng hóa thay thế có tính chất
tương tự như hàng hóa bị đánh thuế. Ví dụ, nếu chỉ đánh thuế với rượu chưng cất thì
người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng rượu không chưng cất hoặc bia, vì thế cần
đánh thuế với tất cả các loại rượu, bia và đồ uống lên men. Trong trường hợp bao
quát được tất cả những loại hàng hóa có tính chất tương tự thì việc đánh thuế TTĐB
là hiệu quả, còn ngược lại, nếu bỏ sót các loại hàng hóa tương tự mà người tiêu
dùng có thể sử dụng thay thế thì việc quy định thuế TTĐB là chưa hiệu quả.
Thứ ba, các quy định pháp luật được xem là có hiệu quả kinh tế khi hạn chế
được những tổn thất vô ích mà người tiêu dùng có thể phải chịu do việc đánh thuế.
Tổn thất vô ích được xác định theo hai khía cạnh, một là, tổn thất do việc lựa chọn
hàng hóa thay thế mà người tiêu dùng không ưa thích và hai là, tổn thất vô ích do sử

18


×