Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tiểu luận cao cấp lý luận chính trị môn Quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.33 KB, 10 trang )

1. Mở đầu:
Ngày nay, quyền con người là một trong ba trụ cột hoạt động của Liên
Hiệp quốc cùng với hòa bình, an ninh và phát triển. Quyền con người là giá
trị chung của toàn nhân loại, là mối quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế và
ngày càng có vị trí quan trọng trong các hợp tác song phương và đa phương
trên trường quốc tế. Tăng cường dân chủ và cải thiện nhân quyền đang trở
thành nguyện vọng đông đảo của nhân dân các nước và xu hướng khách
quan của thời đại.
Với hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đất nước và con người Việt
Nam luôn tự hào có một bề dày lịch sử của một dân tộc sẵn sàng hy sinh
xương máu, kiên cường, bền bỉ đấu tranh để giành lại những quyền cơ bản và
thiêng liêng nhất của con người. Đó là quyền được sống trong độc lập, tự do
và quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Vì lẽ đó, giải phóng con người
khỏi áp bức, bất công, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho người dân đã trở
thành mục tiêu nhất quán và nền tảng hoạch định mọi quyết sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Sau hơn 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thể nói,
những thành tựu dân tộc ta đạt được trong việc bảo đảm và phát triển quyền
con người là rất cơ bản, rất to lớn. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng
xác định phương hướng: “Đảng và Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ và
bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân theo tinh thần của
Hiến pháp năm 2013. Công tác triển khai thực hiện phương hướng này đòi hỏi
phải có nhận thức vững vàng và sâu sắc về quyền con người trên cơ sở tổng
kết thực tiễn ở nước ta”.
Nhằm nâng cao nhận thức về quyền con người, em lựa chọn chủ đề:
“Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong giai
đoạn hiện nay” làm bài thu hoạch kết thúc môn Lý luận và pháp luật về
quyền con người.


2
2. Nội dung


2.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân
Quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, tự do, bình đẳng… là
những quyền cơ bản của con người. Quyền con người là thành quả phát triển
của lịch sử lâu dài sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo
thiên nhiên của cả nhân loại. Trong một thế giới đang toàn cầu hoá hiện nay,
quyền con người ở mỗi quốc gia, không kể hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị
- xã hội, kinh tế và văn hoá đều có những giá trị chung giống nhau, không thể
chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau, đó là tính phổ cập của quyền con người. Tuy
nhiên, quyền con người còn mang tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh
khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hoá và tôn giáo. Chính từ những đặc điểm
này mà trên thế giới tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người.
Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh định nghĩa: Quyền con người là những nhu cầu, lợi
ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Quyền công dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của
một quốc gia ghi nhận và chỉ những người mang quốc tịch của nước đó thì
mới được hưởng các quyền công dân mà pháp luật nước đó quy định.
Như vậy, quyền công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là tập hợp những quyền được Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận và chỉ những người mang quốc tịch Việt Nam
mới được hưởng.
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người
Một là, nhân dân là chủ thể của quyền; bảo đảm quyền con người là
mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến


3

lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người
với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”.
Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; nhân dân là chủ nhân của
đất nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như vậy, nhân dân là
chủ thể của quyền và việc bảo đảm quyền con người là mục tiêu, động lực của
sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, quyền con người vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù; được
thể hiện ở tính nhân loại gắn với tính giai cấp và tính dân tộc.
Quá trình hình thành, phát triển quyền con người có tính phổ biến toàn
nhân loại, chứ không phải là “phát hiện” đặc thù của riêng phương Tây.
“Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại
của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành
quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con
người trở thành giá trị chung của nhân loại”.
Con người thể hiện và khẳng định quyền của mình thông qua các mối
quan hệ xã hội cụ thể.Vì thế, quyền con người, một mặt, là giá trị phổ biến
của nhân loại, bao hàm những quyền và nguyên tắc được áp dụng phổ biến ở
mọi nơi, mọi đối tượng. Mặt khác, quyền con người còn mang tính đặc thù
của mỗi giai cấp, dân tộc và quốc gia theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
đặc điểm văn hoá và truyền thống dân tộc. Tuyên bố Viên và Chương trình
hành động về quyền con người năm 1993 đã khẳng định: “Tất cả các quyền
con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và
liên quan đến nhau. Trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân
tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hoá và tôn giáo, (thì) các
quốc gia, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hoá, có nghĩa vụ đề
cao và bảo vệ tất cả các quyền con ngưòi và các tự do cơ bản”.



4
Ba là, bảo đảm quyền con người theo phương châm thực hiện các giá
trị nhân quyền phổ quát trên cơ sở chủ quyền quốc gia.
Quyền của các quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn chế độ chính trị, lựa
chọn con đường phát triển và chủ quyền quốc gia là những quyền phổ biến
được thừa nhận trong pháp luật quốc tế. Việc thực hiện các giá trị phổ quát
của quyền con người cơ bản diễn ra trong quá trình chuyển hóa hay “nội luật
hóa” pháp luật quốc tế trong pháp luật quốc gia. Ở nước ta, các giá trị phổ
quát của quyền con người đã được thể chế hóa trong Hiến pháp.
Việc bảo đảm quyền con người theo phương châm trên giúp mỗi cá nhân
được bảo đảm các quyền dân chủ, tự do cơ bản. Bảo đảm quyền và nghĩa vụ
cá nhân không được tách rời bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cộng đồng. Bảo
đảm quyền con người phải trên cơ sở chủ quyền quốc gia, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật nhân quyền quốc tế, như quyền bình đẳng và
tự quyết của các dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia
khác... để loại trừ mọi mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” trên con
đường phát triển đất nước.
Bốn là, quyền con người không đồng nhất với quyền công dân, gồm cả
quyền tập thể và quyền cá nhân; quyền gắn liền với nghĩa vụ, giới hạn quyền
do luật định, trên cơ sở xác định rõ chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ bảo
đảm quyền.
Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thừa nhận quyền con
người là thuật ngữ độc lập so với thuật ngữ quyền công dân. Dựa trên luận
điểm “sửa sang thế đạo kinh dinh nhân quyền” của Nguyễn Ái Quốc, Nghị
quyết Đại hội Quốc dân Tân Trào (16-8-1945) đã xác định phải: “Ban bố
những quyền của dân, cho dân: Nhân quyền, tài quyền (quyền sở hữu), dân
quyền; quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ...”. Các Cương lĩnh
của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Hiến pháp năm 1992, 2013, các Chiến lược



5
phát triển kinh tế - xã hội luôn nhất quán phân định rõ quyền con người,
quyền công dân.
Hiến pháp năm 2013 quy định về hạn chế quyền nhằm bảo đảm thực
hiện quyền con người, quyền công dân một cách minh bạch, tránh sự cắt xén
hay hạn chế các quyền này một cách tùy tiện. Điều 6, Hiến pháp năm 2013
chế định: “1. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; 2.
Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích
quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.
Năm là, quyền con người gắn với các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội
và văn hóa.
Theo C.Mác (1818 - 1883) quyền “không bao giờ có thể ở mức cao hơn
chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định” (9). Do
đó, không thể thúc đẩy nhân quyền bằng mọi giá, mà phải phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và con người. Chỉ như vậy mới không
làm tổn hại đến bản thân các quyền con người. Đây là tư tưởng chỉ đạo quan
trọng trong giải quyết các vấn đề về quyền con người, nhằm tránh tình trạng
chủ quan, duy ý chí trong xây dựng pháp luật, cũng như tình trạng lạc hậu của
pháp luật so với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.
Sáu là, bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền, có ưu tiên quyền của các
nhóm yếu thế, thiểu số và quyền phát triển.
Tất cả các quyền đều gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau và không thể phân
chia; mọi chủ thể của quyền (cá nhân, nhóm xã hội, giới tính, dân tộc, chủng
tộc) đều có quyền ngang nhau trong việc thụ hưởng, phát triển quyền. Vì thế,
về nguyên tắc, phải bảo đảm quyền ngang nhau của mọi quyền; và bảo đảm
quyền ngang nhau của tất cả các chủ thể quyền. Những yếu tố bình đẳng trong
việc bảo đảm quyền con người từng bước được kết hợp, thẩm thấu vào việc
bảo đảm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của các chủ
thể quyền khác nhau trong xã hội.



6
Trên cơ sở đó, ở mức độ nhất định, thực hiện sự ưu tiên bảo đảm quyền
phát triển và quyền an sinh xã hội, nhất là của các nhóm yếu thế và thiểu số.
Việc ưu tiên như vậy nhằm thúc đẩy việc bảo đảm quyền ngang nhau về mặt
pháp luật đối với các chủ thể quyền trên tất cả các lĩnh vực quyền.
Bảy là, quyền con người được bảo đảm bằng chế độ dân chủ và Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ là quyền lực xã hội của con người, được thể chế hóa cơ bản theo
nguyên tắc bảo đảm quyền công dân và quyền con người nói chung. Quyền con
người phải thông qua thể chế dân chủ mới được hiện thực hóa, được mở rộng,
bảo đảm gắn với quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và các tổ chức xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định: “Nhà nước tôn trọng
và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát
triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp
luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân
dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”.
2.3. Một số thành tựu nổi bật trong việc thực hiện quyền con người
ở nước ta qua hơn 30 năm đổi mới
Một là, từng bước đổi mới tư duy lý luận về quyền con người đáp ứng
yêu cầu tình hình mới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lện chủ nghĩa xã
hội năm 1991 là một cột mốc lớn mang tính bước ngoặt trong nhận thức của
Đảng về chủ nghĩa xã hội và quyền con người. Cương lĩnh chỉ rõ việc xây
dựng một xã hội dân chủ văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người... dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực
tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông



7
qua hoạt động của Nhà nước do dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực
tiếp. Năm 1992, với Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 2/7/1992 của Bộ Chính trị,
quan điểm về quyền con người của Đảng được phát triển tương đối hoàn
thiện. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã đưa Chương “Quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân” từ Chương V lên Chương II và đổi tên thành “Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”…
Hai là, Đảng đã lãnh đạo xây dựng các cơ chế bảo đảm quyền con
người, thực hiện tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm quyền
con người.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị (2005)
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020; hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật đã
được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Công tác thi hành pháp luật được quan tâm và chú trọng hơn; công tác
phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được triển khai khá đồng bộ, có
trọng tâm, trọng điểm với nhiều hình thức phong phú, thiết thực. Công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật được tiến hành thường
xuyên, tập trung vào lĩnh vực bức xúc của cuộc sống, qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật.
Ba là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy, đặc biệt
đảm bảo thực hiện dân chủ cấp cơ sở, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã phát huy cao
độ vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc thực hiện cơ chế đảm bảo “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã
được chú trọng. Nhiều văn bản về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở được ban hành như: Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/2/1998 của Bộ
Chính trị (khóa VIII) Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; Nghị



8
quyết số 45-1998/NĐ-UBTVQH, ngày 26/2/1998 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội Về ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn…
Nhà nước tạo ra những cơ chế đa dạng cho việc thúc đẩy dân chủ trực tiếp,
làm cho các cá nhân và đoàn thể xã hội có thể tham chính trực tiếp vào công
việc của Nhà nước như hoạch định chính sách, trưng cầu dân ý, tham gia
đóng góp ý kiến cho các quyết sách của chính quyền ở cả địa phương và trung
ương, trực tiếp các phiên chất vấn của Quốc hội. Trong cuộc bầu cử Quốc hội
khóa XII (nhiệm kỳ 2007 - 2011) năm 2007 đã có tới hơn 99,64% số cử tri đi
bầu, khóa XIII (nhiệm kỳ 2011 - 2016) năm 2011 là 99,51%.
Bốn là, tăng trưởng kinh tế ngày càng gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra những tiền đề quan trọng để giải quyết
những vấn đề bức thiết về xã hội, thực hiện tốt hơn các mục tiêu công bằng xã
hội bảo đảm tốt hơn những giá trị quyền con người, quyền công dân. Chương
trình hành động 122 của Chính phủ thực hiện NQTW 7 (khóa IX) về công tác
dân tộc; Chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó
khăn vùng đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa đã được
triển khai thực hiện hiệu quả; Chiến lược tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo
đã đạt được những thành tựu nhất định. Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm nhanh, luôn
đạt và vượt mục tiêu đề ra qua các giai đoạn, hoàn thành và vượt mức mục
tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo trước 10 năm… Theo kết quả điều tra, theo
chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2020, năm 2016 tổng số hộ nghèo trên
toàn quốc là 2.338.569 hộ (chiếm 9,88%), hộ cận nghèo là 1.235.784 hộ
(chiếm 5,22%). Cùng với việc tăng trưởng kinh tế, hầu hết các chỉ tiêu về văn
hóa, xã hội, chỉ số phát triển con người… đều có sự thay đổi tiến bộ.
Công tác bảo vệ và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người ngày càng
được quan tâm và thực hiện có hiệu quả. Thực hiện thống nhất nhận thức và
hành động, trước hết là trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,



9
đoàn thể ở Trung ương và địa phương về công tác bảo vệ và đấu tranh nhân
quyền; Đầu tư nghiên cứu cơ bản về vấn đề nhân quyền làm luận cứ cho việc
hoạch định chính sách, pháp luật; Tôn trọng thực quyền và nghĩa vụ của công
dân; Đẩy mạnh việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, trên cơ sở đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đi đôi với chống các luận điểm
lợi dụng dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch và thực hiện mở rộng
hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người…
2.4. Một số nhiệm vụ nhằm bảo đảm thực hiện quyền con người,
quyền công dân trong tình hình hiện nay
Một là, vận dụng sáng tạo và thực hiện các giá trị phổ quát về quyền con
người phù hợp với quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế ở nước ta.
Hai là, thể chế hóa các quyền công dân, quyền con người đã được chế định
trong Hiến pháp năm 2013, đồng thời rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật để
thống nhất hệ thống pháp luật Việt Nam trên cơ sở Hiến pháp năm 2013.
Ba là, sử dụng phổ biến và sâu rộng các tiêu chí của cách tiếp cận dựa
trên góc độ quyền con người trong hoạch định, triển khai thực hiện đường lối,
chủ trương và chính sách pháp luật; chiến lược, kế hoạch, chương trình phát
triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam hiện nay
Bốn là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối hợp phòng - chống
chiến lược “thúc đẩy dân chủ, nhân quyền" của các thế lực thù địch.
Năm là, chủ động, tích cực hợp tác quốc tế và khu vực trên lĩnh vực
nhân quyền, nhất là thực hiện tốt nghĩa vụ quốc gia đối với các công ước và
cơ chế quốc tế về nhân quyền, đối thoại nhân quyền với các tổ chức quốc tế
và các đối tác, đồng thời chủ động tham gia vào các diễn đàn về nhân quyền
của ASEAN.



10
3. Kết luận:
Từ khi giành được độc lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam
đã vượt qua muôn vàn khó khăn, tạo dựng nên nền tảng vững chắc cho một xã
hội thực sự dân chủ, công bằng, văn minh, mà ở đó các quyền tự do cơ bản
của người dân được bảo vệ và không ngừng phát triển. Trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước, đặc biệt là việc thực hiện công cuộc đổi mới hơn
30 năm qua, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh
vực: kinh tế phát triển nhanh, đất nước hòa bình và ổn định, đời sống được cải
thiện rõ rệt và các quyền của mọi người dân về kinh tế văn hóa, xã hội, dân
sự, chính trị đều được bảo đảm và tăng cường.
Những thành tựu mà chúng ta đạt được thể hiện sinh động ý chí và quyết
tâm của Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong việc không ngừng thúc đẩy
các quyền con người ở Việt Nam, tiếp tục tạo nên động lực cho xã hội, củng
cố thêm niềm tin, tập hợp sức mạnh, sự đoàn kết của toàn dân để chung tay
xây dựng một đất nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh", tất cả vì con người và cho con người.
Vấn đề quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước đề cao, nhận thức
tích cực và áp dụng phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nhờ đó, từ
một dân tộc bị tước đoạt cả những quyền tự do cơ bản nhất, người dân Việt
Nam đã được thụ hưởng ngày một đầy đủ và toàn diện hơn các quyền của
mình. Trên thế giới còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề quyền con
người, thậm chí một số thế lực thù địch, cơ hội đã lợi dụng điều này để vu
cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam, song những thành tựu mà
Đảng và nhân dân ta đạt được trong những năm qua là bằng chứng không thể
phủ nhận cho những nỗ lực của Việt Nam trong lĩnh vực này./.




×