Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

TIỂU LUẬN CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.82 KB, 35 trang )

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH KHÁNH HÒA
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH TẠI CHỨC
KHOÁ 72
ĐỀ TÀI:
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU
CỦA ĐẢNG BỘ XÃ NINH THƯỢNG TRONG CÔNG TÁC
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN CÔNG CUỘC CNH-HĐH
NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN.
(TỪ 2008 - 2010)

Giáo viên hướng dẫn: Người thực hiện:
Th.S Trần Thị Xuân An Huỳnh Trọng Vũ
Trưởng khoa Xây dựng Đảng UBND xã Ninh Thượng
Ninh Hoà, tháng 4 năm 2011
1
2
Lôøi caùm ôn
Lời đầu tiên tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành đến Quý thầy,
cô giáo của Trường Chính trị tỉnh Khánh Hòa đã trang bị, truyền
đạt kiến thức quý báu và đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong
việc định hướng nghiên cứu, gợi ý các ý tưởng, cách thức tiến hành
nghiên cứu, phương pháp luận để tôi thực hiện bài Tiểu luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Chính trị
tỉnh Khánh Hòa, Thị ủy Ninh Hoà, Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị
thị xã Ninh Hòa, Đảng uỷ-UBND xã Ninh Thượng đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho việc học tập, nghiên cứu và đặc biệt xin chân
thành cám ơn cô Trần Thị Xuân An đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn
để tôi hoàn thành Tiểu luận này.
Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã rất tâm huyềt và
cố gắng, song không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất
mong được sự đóng góp, chỉ bảo chân thành của Quý thầy cô để bài


Tiểu luận được hoàn thiện tốt hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Huỳnh Trọng Vũ
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử đấu tranh cách mạng của nước ta đã khẳng định: Đảng Cộng sản
Việt Nam - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, là lực lượng
chính trị duy nhất lãnh đạo, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác.
Qua hơn 80 năm chiến đấu xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xây dựng được một hệ thống tổ chức chính trị vững mạnh từ Trung ương
đến cơ sở, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ và khẳng định vai trò là Đảng duy nhất
cầm quyền, lãnh đạo đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ
vững chắc độc lập dân tộc và các thành quả cách mạng đã giành được. Một trong
những đóng góp hết sức quan trọng vào những thành công của cách mạng đó chính
là hệ thống tổ chức Đảng cơ sở. Trong suốt quá trình cách mạng, từ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN, đặc biệt ngày nay trong sự nghiệp đổi
mới đất nước, tổ chức Đảng ở cơ sở đã luôn làm tốt vai trò, nhiệm vụ của mình, là
nền tảng của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI đã ghi rõ "Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai
thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần
chúng ở cơ sở mà hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng".
Trong giai đoạn hiện nay Đảng ta, nhân dân ta đang thực hiện công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ to lớn, khó khăn
và trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước cũng như thế giới
có nhiều biến động khó khăn. Để hoàn thành được sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi sự
nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân. Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X, Đảng đã đề ra Nghị quyết "Về nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên",
nhằm đưa các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở lên tầm cao mới, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn hiện nay.

Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đòi hỏi Đảng ta, các tổ chức cơ sở
đảng phải đổi mới chính mình, củng cố xây dựng đội ngũ để nâng cao năng lực
3
lãnh đạo và sức chiến đấu giải quyết những vấn đề nảy sinh từ cơ sở. Do đó Đảng
ta phải thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Với ý nghĩa quan trọng của tổ chức cơ sở
đảng, để đóng góp vào việc xây dựng Đảng bộ xã Ninh Thượng, đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp đổi mới, trên cơ sở vận dụng những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng vào thực tiễn. Vì thế tôi chọn đề
tài Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ xã Ninh Thượng
trong công tác lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc CNH-HĐH, nông
nghiệp nông thôn từ năm 2008 - 2010, góp phần xây dựng địa phương ngày càng
giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Đề tài làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về cơ sở lý luận và thực tiễn theo
quan điểm lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
đường lối của Đảng ta về xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
Khái quát những nội dung, lý luận cơ bản về tổ chức cơ sở đảng theo quan
điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Phân tích, đánh giá đúng thực trạng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng bộ xã Ninh Thượng trong những năm qua (2008 - 2010). Từ đó xác định rõ
nguyên nhân yếu kém và rút ra kinh nghiệm, đề xuất, kiến nghị, giải pháp nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ xã Ninh Thượng trong
giai đoạn hiện nay.
NỘI DUNG
4
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng:
a. Quan điểm của Mác-Lê nin:
Mác-Ph.Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên những quan điểm, tư

tưởng về tổ chức cơ sở đảng. Hai ông sáng lập ra "Liên đoàn những người Cộng
sản" và các chi bộ của Liên đoàn, Quốc tế I và các Đảng Cộng sản của Quốc tế II.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, hai ông đã chỉ ra rằng: “Các chi bộ bị
buông lỏng về mặt tổ chức sẽ dẫn đến cắt đứt liên lạc với Ban Chấp hành Trung
ương, làm cho Đảng mất chỗ dựa vững chắc và duy nhất”. Hai ông đã đặc biệt
nhắc nhở các đảng cơ sở khâu đặc biệt quan trọng là củng cố các chi bộ, “ Biến
mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của hiệp hội công nhân, là mắt xích quan
trọng, là chỗ dựa vững chắc của Đảng”.
Kế thừa và phát triển những quan điểm đó, Lênin trong xây dựng và lãnh
đạo Đảng Bôn sê vích Nga, Đảng chủ nghĩa dân chủ - xã hội Nga, một Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân đã chỉ rõ "Việc thành lập các tổ chức cách mạng trong
các xí nghiệp, nhà máy là nhiệm vụ đầu tiên, cấp bách của Đảng Chủ nghĩa dân
chủ - Xã hội Nga, mỗi nhà máy phải là một thành trì".
Khi trở thành Đảng cầm quyền, các tổ chức cơ sở đảng tăng lên cả về số
lượng và phong phú về nội dung, chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động.
Lênin yêu cầu: những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với tư tưởng Đảng
phải trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải làm công tác cổ động tuyên truyền, nhưng
công tác tổ chức phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất cả
mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn
hình muôn vẻ và rèn luyện mình, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng một cách
có hệ thống. Người yêu cầu Đảng Cộng sản phải bằng nhiều biện pháp nâng cao
vai trò tổ chức cơ sở đảng, phát huy tính chủ động, sáng tạo của cơ sở thì những
mục tiêu của chính sách kinh tế của nhà nước Xô Viết mới thành hiện thực.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh:
5
Chủ tịch Hồ Chí Minh có cùng quan điểm tổ chức cơ sở đảng là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, Người đã kế thừa và phát triển sáng tạo
quan điểm này phù hợp với điều kiện ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng các chi bộ, đảng bộ cơ sở là "tổ chức cơ bản
của Đảng", là "nền tảng, nền móng" của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là dây

chuyền" để Đảng liên hệ với quần chúng nhân dân. Chất lượng của chi bộ, đảng bộ
cơ sở là một trong những yếu tố quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng ở cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: "Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ
tốt”
1
; “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt"
2
.
c. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục, rèn
luyện. Trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, luôn luôn quan
tâm lãnh đạo, xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đảng ta khẳng định
“Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai thác, những kinh
nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà
hạt nhân lãnh đạo là tổ chức cơ sở đảng
3
”. Qua hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng về kinh tế - xã hội, giữ vững ổn
định về chính trị và hiện nay đang phấn đấu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2011 - 2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, trong điều
kiện có những thời cơ thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn thách thức
mới. Trong hoàn cảnh đó, tổ chức cơ sở đảng nói chung, tổ chức cơ sở đảng ở xã,
phường, thị trấn nói riêng có vị trí vai trò quan trọng. Tại hội nghị lần thứ V, BCH
TW khoá X, Đảng ta đã đề ra Nghị quyết quan trọng về "Đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn" nhằm đưa các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở cơ sở nhất là tổ chức cơ sở đảng ở những địa bàn lên tầm cao
mới, đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
6


1, 2
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.12, tr.92, 210
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Đại hội: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. sự thật,
H.1987, tr.141.

- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Đảng ta tiếp tục
xác định: “ tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại ”.
Tổ chức cơ sở đảng là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, đưa đường lối chính
sách vào nhân dân, tuyên truyền cho nhân dân hiểu và lãnh đạo nhân dân thực
hiện.
Tổ chức cơ sở đảng còn là nơi kiểm nghiệm khẳng định sự đúng đắn đường
lối chính sách của Đảng, đóng góp cho Đảng những sáng kiến, những kinh nghiệm
để Đảng bổ sung hoàn chỉnh đường lối chính sách, đề ra chủ trương chính sách mới.
2. Chức năng, nhiệm vụ tổ chức cơ sở Đảng, (cơ sở nói chung):
a. Chức năng:
Tổ chức cơ sở đảng của Đảng ta rất đa dạng, gồm nhiều loại như: tổ chức cơ
sở đảng ở nông thôn, ở phường, trong doanh nghiệp Nhà nước, đơn vị hành chính
sự nghiệp, ở cơ quan…Từng loại tổ chức cơ sở đảng ngoài những điểm chung còn
có các đặc điểm riêng, do đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị cơ sở (nơi tổ chức cơ sở
đảng được thành lập) qui định. Tuy nhiên các tổ chức cơ sở đảng đều có hai chức
năng chung, chủ yếu sau:
- Là hạt nhân lãnh đạo của Đảng, chính trị ở cơ sở: Đó là việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết, chủ trương
của cấp trên tại đơn vị cơ sở, lãnh đạo đơn vị cơ sở trong sạch vững mạnh, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa
vụ đối với Nhà nước.

- Là nơi tiến hành các hoạt động xây dựng Đảng: Đó là giáo dục rèn luyện
đảng viên, phân công công việc cho đảng viên, kết nạp đảng viên, xét kỷ luật đảng
viên, đưa người không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Là nơi đào tạo rèn luyện cán bộ
cho Đảng, chi bộ, đảng bộ cơ sở, là nơi trực tiếp nắm bắt tâm tư nguyện vọng của
nhân dân, phản ánh với Đảng, để Đảng đề ra đường lối đúng đắn hợp lòng dân,
định hướng hoạt động và uốn nắn những lệch lạc của các tổ chức, các đoàn thể cơ
sở.
7
b. Nhiệm vụ:
Một là: Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có
hiệu quả.
Hai Là: Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất
lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng
cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản
lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình
độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
Ba là: Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp
và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là: Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng
và thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Năm là: Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng
và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức Đảng
và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được quyết định kết
nạp và khai trừ đảng viên. Ngoài chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng. Ban
Bí thư Trung ương đã có quy định cụ thể đối với đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường,

thị trấn.
3. Chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ xã:
a. Chức năng:
Theo quy định số 95-QĐ/TW ngày 03/3/2004 của Ban Bí thư Trung ương về
chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã như sau:
Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị ở xã vững mạnh, nông thôn giàu đẹp, văn
8
minh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động
viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước.
b. Nhiệm vụ:
- Một là: Lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội - An ninh quốc phòng.
- Hai là: Lãnh đạo công tác tư tưởng.
- Ba là: Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ.
- Bốn là: Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể nhân dân.
- Năm là: Xây dựng tổ chức Đảng.
II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA
ĐẢNG BỘ XÃ NINH THƯỢNG TỪ 2008 - 2010.
1. Khái quát đặc điểm tình hình tự nhiên, kinh tế-xã hội của xã Ninh Thượng:
Ninh Thượng là một xã miền núi nằm về phía Tây của thị xã Ninh Hoà, cách
trung tâm thị xã 20 km. Phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện M’Drăk (tỉnh Đăk Lăk);
phía Đông và và Đông Nam giáp xã Ninh Trung; Phía Tây và Tây Nam giáp xã
Ninh Tây và phía Nam giáp xã Ninh Thân.
Ninh Thượng được bao bọc xung quanh là núi, có tuyến đường bộ tỉnh lộ 6B
nối liền từ Quốc lộ 26 chạy qua xã Ninh Xuân - Ninh Thượng, có đường giao
thông liên xã từ Ninh Phụng lên đến Ninh Thượng đã được bê tông hoá, tạo điều
kiện đi lại thuận lợi phục vụ dân sinh và vận chuyển nông sản hàng hoá từ Xã
xuống Thị xã.
Ninh Thượng có tổng diện tích đất tự nhiên 7.328 ha. Trong đó:

- Diện tích đất sản xuất Nông nghiệp: 2.385 ha, chiếm 32,54 %
- Diện tích đất Lâm nghiệp: 3.745 ha, chiếm 51,10 %
- Diện tích đất Chuyên dùng : 440 ha, chiếm 6,0 %
- Diện tích đất Thổ cư: 42 ha, chiếm 0,57 %
Dân số 7.060 khẩu, với 1.620 hộ được chia thành 07 khu dân cư; lao động
trong địa phương 95 % chủ yếu là nông nghiệp, số còn lại là dịch vụ vận tải bộ và
buôn bán kinh doanh nhỏ lẻ.
9
Do đặc điểm địa lý thuận lợi, có nhiều đồi núi, phong cảnh đẹp, có tiềm
năng phát triển kinh tế, du lịch, cây công nghiệp ngắn ngày như: cây mía, cây
thuốc lá vàng sấy và cây ăn quả, tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp.
Về trường học: có trường Mầm non, trường Tiểu học, trường THCS, nhiều
năm liên tục đạt danh hiệu trường Tiên tiến.
Lịch sử xã Ninh Thượng được hình thành từ 3 cụm dân cư mang những đặc
thù riêng là: Khu vực Ninh Thượng cũ gồm 4 thôn, là những người sinh trưởng tại
chỗ, dân số khá ổn định; Khu vực Ninh Trang gồm 2 thôn là những người sống ở
Nha Trang đi xây dựng vùng Kinh tế mới từ năm 1976 và nhập vào Ninh Thượng
năm 1979; Khu vực Kinh tế mới Thị trấn Ninh Hoà được thành lập từ năm 1980 và
được sáp nhập vào xã Ninh Thượng năm 1996 (nay là thôn Tân Hiệp). Ngoài ra
còn có 01 cụm dân cư hơn 100 hộ là những hộ di dân từ các tỉnh phía Bắc vào
định cư sinh sống từ năm 1990 đến nay, thành phần dân cư xã Ninh Thượng đa
dạng về tập tục nếp sống.
2. Đặc điểm Đảng bộ xã Ninh Thượng:
Là một chi bộ cơ sở thuộc Đảng bộ huyện Ninh Hoà, đến tháng 5/2003 được
quyết định nâng lên thành Đảng bộ xã với 43 đảng viên gồm 08 chi bộ trực thuộc,
bao gồm: 06 chi bộ thôn, 01 chi bộ Quân sự và 01 chi bộ trường học.
Đến năm 2008 có 66 đảng viên. Đến nay Đảng bộ đã có 76 đảng viên, được
sinh hoạt ở 11 chi bộ. Trong đó có 02 chi bộ Trường học, 01 chi bộ Quân sự, 01
chi bộ Cơ quan và 07 chi bộ thôn. Kết quả cụ thể như sau:
Năm

Tổng số
đảng viên
Miễn sinh
hoạt
Kết quả phân loại
HTXSNV HTTNV HTNV
2008 66 01 04 51 10
2009 71 01 08 56 06
2010 76 02 07 63 04
- Đảng viên hưu trí: 02 đồng chí, đạt 2,63 %
- Đảng viên nữ: 27 đồng chí, đạt 35,53 %
- Trình độ THPT: 56 đồng chí, đạt 73,68 %
- Trình độ THCS: 18 đồng chí, đạt 23,68 %
- Trình độ tiểu học: 02 đồng chí, đạt 2,63 %
10
- Đảng viên có trình độ lý luận Trung cấp: 14 đồng chí, đạt 18,42 %
- Đảng viên có trình độ Cao đẳng, Đại học: 24 đồng chí, đạt 31,58 %
- Đảng viên 40 - 60 năm tuổi Đảng: 02 đồng chí, đạt 2,63 %
- Đảng viên miễn sinh hoạt, công tác: 02 đồng chí, đạt 2,63 %
Đội ngũ đảng viên luôn có lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng, luôn tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, nội bộ đoàn kết thống nhất phát huy dân
chủ và phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu trong mọi hoạt động của địa
phương. Đa số đảng viên đều hoàn thành nhiệm vụ được giao, gắn bó mật thiết với
nhân dân, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh.
a. Thuận lợi:
- Ninh Thượng có vị trí địa lý khá thuận lợi, có núi sông, có diện tích sản
xuất lúa nước và diện tích cây mía đường khá rộng lớn và màu mỡ và với các loại
cây trồng, vật nuôi; có đường Quốc lộ chạy qua, đó là điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng.
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của cấp trên, sự hưởng ứng, tham mưu

đắc lực của các cấp ngành trong xã, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự chỉ đạo
nhạy bén kịp thời có hiệu quả của Ban Chấp hành Đảng bộ, Nghị quyết đề ra phù
hợp tình hình thực tiễn của xã, đồng thời triển khai thực hiện nghiêm túc có hiệu
quả.
- Năng lực lãnh đạo quản lý điều hành của đại bộ phận của các đồng chí
trong cấp uỷ và cán bộ các ngành khá đồng đều, đại đa số đảng viên trong Đảng bộ
đều có lập trường tư tưởng vững vàng, gương mẫu có trách nhiệm cao, hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao, có uy tín với nhân dân, một số các đảng viên lão thành trải
qua công tác chiến đấu được nghỉ chế độ đã đóng góp nhiệt tình về trí tuệ, kinh
nghiệm cho đảng uỷ, cho địa phương.
- Ninh Thượng có các ban ngành đoàn thể khá đồng đều và mạnh, nhân dân
Ninh Thượng có truyền thống cần cù, sáng tạo, biết vận dụng tiềm năng sẵn có của
địa phương, tin vào sự lãnh đạo của Đảng, biết vươn lên trong khó khăn để làm
giàu cho gia đình và xã hội.
b. Khó Khăn:
11
- Một số Nghị quyết xây dựng thiếu tính khoa học, thiếu thực tiễn hiệu quả
thấp, thể hiện trình độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn thấp, năng lực nghiên cứu
lý luận và tổng kết thực tiễn còn yếu.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ có lúc, có nơi chưa phát huy toàn diện, công
tác quản lý đảng viên có lúc chưa chặt chẽ, công tác phát triển đảng viên mới còn
ở mức quá khiêm tốn, năng lực tham mưu của một vài ngành còn hạn chế, còn lơi
lỏng quản lý, phân công không cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc đùn đẩy né tránh,
ngại va chạm. Một số cán bộ nhất là cán bộ khu dân cư, năng lực quản lý và lãnh
đạo còn nhiều hạn chế, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn
mới.
- Tính kỷ luật trong Đảng chưa thật sự nghiêm, đấu tranh nội bộ còn e dè, nể
nang, đôi khi có biểu hiện vi phạm kỷ luật phát ngôn.
- Một số ít đảng viên thiếu ý chí vươn lên, ngại khó khăn, ngại học tập, ý
thức kỷ luật yếu, cá biệt có những đảng viên quan liêu, xa rời quần chúng.

3. Thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ xã Ninh
Thượng từ 2008 - 2010:
* Những kết quả đạt được:
a. Lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội:
Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội của nước ta có nhiều thay
đổi nhanh chóng, thời cơ thách thức đan xen. Nhưng Đảng bộ và nhân dân xã Ninh
Thượng đã đoàn kết khắc phục mọi khó khăn, tập trung trí tuệ thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Ninh Thượng lần thứ XI và Nghị quyết đại hội
huyện Đảng bộ Ninh Hoà lần thứ XVI. Kết quả cụ thể như sau:
Năm
Tổng
nhân
khẩu
Tổng sản
lượng thóc
(tấn)
Tổng sản
lượng mía
(tấn)
Tổng giá trị sản
xuất
Thu nhập bình
quân đầu người
2008 6.829 6.440 61.700 76.250.000.000 11.220.530
2009 6973 7.163 61.700 79.501.500.000 11.401.333
2010 7060 7.290 64.350 101.655.500.000 14.398.725
Năm 2010, tổng giá trị sản xuất ước đạt 101.655.500.000 đồng.
12
* Cơ cấu kinh tế: - Nông nghiệp: 95 %
- Tiểu thủ công nghiệp: 3 %

- Dịch vụ thương mại: 2 %
* Thu nhập bình quân đầu người đạt 14.398.725 đồng/người/năm.
Đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân được tăng lên rõ rệt, số hộ đói
không còn, hộ nghèo giảm mỗi năm 14 %.
Kinh tế phát triển mạnh theo hướng sản xuất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng, phát triển dân số hàng năm dưới 1,5 %. Việc xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn được triển khai thực hiện tích cực. Cả xã có 80 % đường
bê tông, 20 % đường cấp phối; các trường học được kiên cố hoá 100%; Trạm y tế
đạt chuẩn quốc gia. Năm 2010, vốn xây dựng đạt 8 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước
100%, (vốn kích cầu của Chính phủ). Tổng thu ngân sách đạt 10.631.715.000
đồng, đạt tỷ lệ 107,74 % kế hoạch huyện giao và đạt 100,72 % Nghị quyết HĐND
xã giao.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Các đoàn
thể chính trị - xã hội, chính quyền, Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh 03 năm liền
(từ năm 2008 - 2010). Chính sự ổn định và phát triển đã tạo đà cho địa phương
phát triển kinh tế - xã hội.
b. Lãnh đạo xây dựng tổ chức Đảng:
Đại hội lần thứ XI của Đảng bộ xã Ninh Thượng, toàn bộ đảng viên trong
Đảng bộ đã tập trung trí tuệ xây dựng được Nghị quyết của Đại hội, làm định
hướng cho hoạt động và sự phát triển kinh tế, văn hoá-xã hội nhiệm kỳ 2005-2010.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành gồm 09 đồng chí, 03 đồng chí trong Ban Thường
vụ, là những đồng chí tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức cách mạng của toàn đảng viên
trong Đảng bộ.
Năm 2010 qua phân loại chi bộ và đảng viên, có 11/11 chi bộ đạt chi bộ
“Trong sạch vững mạnh”.
Trong đó: - Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: 07 đ/c;
- Hoàn thành tốt nhiệm vụ: 55 đ/c;
13
- Hoàn thành nhiệm vụ: 12 đ/c;
- Miễn sinh hoạt: 02 đ/c

không có đảng viên vi phạm tư cách.
Ban Chấp hành Đảng bộ xây dựng chương trình hành động cụ thể nhằm
triển khai Nghị quyết của Trung ương và của cấp trên.
- Về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên.
Đảng bộ thường xuyên triển khai học tập tốt các Nghị quyết của Trung
ương, xây dựng chương trình hành động của Đảng bộ, nâng cao bản lĩnh chính trị
và năng lực lãnh đạo, phát huy tính tiên phong gương mẫu trong việc thực hiện tốt
cuộc vận động chỉnh đốn đảng.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng. Do đó chất
lượng đảng viên được nâng lên, phát huy tốt được vai trò lãnh đạo, giữ gìn phẩm
chất chính trị có đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh, được quần chúng nhân
dân tin tưởng noi theo. Củng cố lãnh đạo, xây dựng chính quyền và các tổ chức
đoàn thể vững mạnh nhiều năm liền được tỉnh, huyện khen là đơn vị trong sạch,
vững mạnh.
Phân công nhiệm vụ cho từng đảng viên, tạo cho đảng viên yên tâm công tác
và phát triển kinh tế gia đình.
- Về công tác bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ kế cận.
Trong những năm vừa qua Đảng uỷ đã quan tâm bồi dưỡng cho đội ngũ cán
bộ kế cận, cử 06 đồng chí đi học lớp trung cấp lý luận chính trị do trường Chính trị
tỉnh Khánh Hoà phối hợp với Huyện uỷ tổ chức, đã cử 02 đồng chí đi học Đại học
Hành chính, 02 đồng chí học Cao đẳng TBXH, 06 đồng chí học trung cấp chuyên
môn nhằm nâng cao về trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ.
Thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền và các
đoàn thể, bí thư, trưởng thôn được tập huấn các lớp ở Trung tâm Bồi dưỡng chính
trị Huyện tổ chức.
- Về công tác kiểm tra đảng:
Đã có những bước rõ nét, kể cả tư tưởng nhận thức và tổ chức. Đảng uỷ đã
14
cùng với Uỷ ban Kiểm tra xây dựng chương trình làm việc, thực hiện đúng Chỉ thị,
Nghị quyết và Điều lệ Đảng quy định.

Trong thời gian qua 2008 - 2010, Uỷ ban Kiểm tra đã tập trung xem xét
kiểm tra vào những đảng viên vi phạm và có dấu hiệu vi phạm. Nhìn chung thời
gian vừa qua số lượng đảng viên vi phạm, có dấu hiệu vi phạm đã giảm nhiều so
với trước đây. Nguyên nhân cơ bản là Đảng bộ đã thực hiện tốt quy chế dân chủ ở
cơ sở, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật đảng, Uỷ ban Kiểm tra đảng làm việc đúng
nguyên tắc, có trách nhiệm, khách quan, do vậy giúp cấp uỷ làm tốt công xây dựng
chỉnh đốn đảng.
- Về công tác phát triển đảng viên:
Đảng bộ coi đây là chiến lược cho sự phát triển của Đảng bộ, có kế hoạch
bồi dưỡng, có số lượng, chỉ tiêu rõ ràng và được phân bổ về các chi bộ. Trong thời
gian 2008-2010, toàn Đảng bộ đã kết nạp được 10 đồng chí. Nhìn chung đảng viên
mới được kết nạp đều có trình độ văn hoá từ Trung học phổ thông trở lên, có đủ
phẩm chất chính trị, các bước tiến hành đều đảm bảo nguyên tắc, sau khi kết nạp
số đảng viên mới đều tu dưỡng rèn luyện học tập để nâng cao trình độ chính trị về
chuyên môn nghiệp vụ.
c. Lãnh đạo xây dựng các tổ chức đoàn thể.
Để tăng cường sự lãnh của Đảng đối với các tổ chức đoàn thể, thường xuyên
hàng quý, 6 tháng Đảng uỷ triển khai các Nghị quyết của Đảng với các đoàn thể,
nhằm giúp cho các đoàn thể nắm và quán triệt cho các hội viên thực hiện tốt Nghị
quyết của Đảng uỷ, thường xuyên trú trọng xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở, là
cầu nối giữa nhân dân với Đảng.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân luôn được quan tâm lãnh đạo,
làm tốt công tác tham mưu giúp cấp uỷ tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân
dân chấp hành tốt mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, hăng hái thi đua lao động sản xuất làm giàu chính đáng, tích cực góp
phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân địa phương.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã đã có nhiều cố gắng, động viên nhân dân
tích cực phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, tham gia các hoạt động
15
tình nghĩa, các cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu

dân cư, xây dựng Đảng, chính quyền, hàng năm tổ chức bình xét các gia đình văn
hoá, khu dân cư tiên tiến. Trong nhiều năm liền Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
đều đạt đơn vị trong sạch vững mạnh và khá, được tỉnh, huyện tặng bằng khen và
giấy khen.
Hội Nông dân xã đã phát động nhiều phong trào tạo điều kiện cho hội viên
nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, giúp nhau giảm nghèo; phong trào nông dân
xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá Ngoài ra, Hội Nông dân xã còn thương
xuyên phối hợp với Trạm Khuyến nông huyện tổ chức các lớp IPM về cây lúa và
nhiều lớp chuyển giao khoa học kỹ thuật về cây trồng và chăn nuôi.
Hội Phụ nữ xã thường xuyên hàng năm phát động phong trào thi đua “Phụ
nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với cuộc
vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí minh. Tổ chức tuyên
truyền phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước.
Nâng cao hiệu quả hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế làm giàu chính đáng, tham gia
thực hiện mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo.
Hội Cựu chiến binh xã không ngừng phát huy bản lĩnh truyền thống phẩm
chất “Bộ đội cụ Hồ” cho các hội viên, đẩy mạnh phong trào “Cựu Chiến binh
gương mẫu”, xây dựng Hội trong sạch vững mạnh. Tích cực tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền, phát động phong trào “Thi đua xoá đói, giảm
nghèo”, động viên giúp đỡ hội viên phát triển kinh tế gia đình. Tham gia công tác
giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương. Phối hợp với Đoàn thanh niên tuyên truyền
giáo dục cho thế hệ trẻ, luôn là chỗ dựa tin cậy của Đảng và chính quyền.
Đoàn Thanh niên xã thường xuyên tổ chức triển khai nhiều chương trình
hành động cụ thể, như: phong trào thi đua “Thanh niên lập nghiệp”, lao động sáng
tạo, thi đua tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, xung kích phòng chống tội phạm
và tệ nạn xã hội.
Công đoàn cơ sở xã đã tổ chức nhiều phong trào thi đua yêu nước, lao động
giỏi. Thường xuyên phối hợp với UBND xã trong việc thực hiện Quy chế phối
hợp công tác, giám sát việc thực hiện nội quy, quy chế của cơ quan đã đề ra, quy
16

chế dân chủ ở cơ quan, đề xuất ý kiến giải quyết quyền và lợi ích chính đáng của
đoàn viên.
Hội Chữ thập đỏ đã vận động thực hiện tốt phong trào hiến máu nhân đạo.
Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các ban ngành đoàn thể vận động các nhà hảo
tâm tài trợ, tổ chức phát tặng quà cho các hộ nghèo, hộ chính sách, người già và trẻ
em có hoàn cảnh khó khăn trị giá hàng chục triệu đồng.
Hội Người Cao tuổi duy trì tốt hoạt động Câu Lạc bộ “Ông bà cháu”, làm
tốt công tác xây dựng đội ngũ cốt cán, chức sắc, vận động người cao tuổi sống mẫu
mực để làm gương cho thế hệ con cháu noi theo.
* Những hạn chế, yếu kém:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong quá trình lãnh đạo và thực hiện
nhiệm vụ, Đảng bộ xã Ninh Thượng còn bộc lộ những hạn chế sau:
- Việc lãnh đạo chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn thiếu khoa học, chưa
nhạy bén với nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chưa
có những cơ chế hợp lý nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, việc
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi còn nhiều hạn chế,
số ít hộ nông dân chưa thực sự hăng hái đi đầu trong việc đưa các loại giống cây
trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao vào sản xuất, chưa nhân rộng các mô hình
trang trại đang làm ăn có hiệu quả.
- Thiếu những Nghị quyết chuyên đề chỉ đạo phát triển sản xuất. Công tác
lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ đối với chính quyền và các đoàn thể còn lơi lỏng.
Việc triển khai các Nghị quyết của Đảng uỷ, HĐND và của UBND chưa thực sự
nghiêm túc, còn chậm đưa vào thực hiện, một số ít cán bộ chưa làm hết trách
nhiệm của mình còn gây phiền hà cho nhân dân, công tác dân vận còn hạn chế. Vai
trò của đoàn thể, nội dung, phương thức hoạt động còn nghèo nàn, khô cứng, chưa
bám sát nhiệm vụ chính trị địa phương, chưa có sức thu hút thuyết phục hội viên,
đoàn viên; chưa làm tốt công tác tuyên truyền chủ trương đường lối, chính sách
pháp luật của Đảng và Nhà nước tới hội viên. Một bộ phận đảng viên còn thiếu
gương mẫu, một số ít cán bộ đảng viên còn bảo thủ, chậm đổi mới, không chịu học
hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

17
- Chế độ sinh hoạt của cấp uỷ và chi bộ chưa đều, tính chiến đấu trong sinh
hoạt Đảng bộ chưa cao.
- Công tác cán bộ, tạo nguồn phát triển đảng viên:
+ Việc thực hiện quy hoạch cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt còn chậm, thiếu
chủ động trong công tác tạo nguồn cán bộ kế cận lâu dài, do đó khi bố trí cán bộ
theo yêu cầu đủ chuẩn, trẻ, nữ còn lúng túng, tính định hướng kế thừa trong quy
hoạch thời gian qua đạt yêu cầu chưa cao.
+ Công tác phát triển đảng viên mới hàng năm tuy đạt và vượt chỉ tiêu so với
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra, song số đảng viên được kết nạp trong thanh niên
ở các chi bộ Khu dân cư còn thấp. Có chi bộ trong 2 - 3 năm liền không phát triển
được đảng viên nào nhưng Đảng uỷ chưa có biện pháp để khắc phục vấn đề này.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ XÃ NINH
THƯỢNG TRONG THỜI GIAN TỚI 2011 - 2015.
1. Mục tiêu và phương hướng:
Đại hội Đảng bộ xã Ninh Thượng lần thứ XII (2010 - 2015) có ý nghĩa trọng
đại. Đây là Đại hội thể hiện ý chí quyết tâm phấn đấu, tiếp tục thực hiện công cuộc
đổi mới mạnh mẽ CNH-HĐH, giữ vững hệ thống chính trị và ANTT, để phát triển
toàn diện trên tất cả các mặt, thực hiện tốt chính sách xã hội, công tác xây dựng
Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh, là tiền đề để lãnh đạo nhân dân hoàn
thành các mục tiêu, cụ thể như sau:
* Cơ cấu kinh tế: - Nông nghiệp: 90 %
- Tiểu thủ công nghiệp: 5 %
- Dịch vụ thương mại: 5 %
* Tổng sản lượng quy thóc: đến năm 2015 là 8.100 tấn. (năng suất 50 tạ/ha)
Thu ngân sách hàng năm đạt vượt chỉ tiêu 100 %.
Duy trì nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục. Giữ vững danh hiệu "Xã
chuẩn Quốc gia về phổ cập". Đẩy mạnh công tác xã hội hoá y tế, ổn định phát triển
dân số dưới 1,5 %.

18
Xây dựng cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn ngân sách 60%. Nhân dân đóng
góp, các cơ quan hỗ trợ 40%.
Xây dựng mới 07 km đường bê tông nông thôn.
Phấn đấu hàng năm có 90-100% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, không có
chi bộ yếu kém. Mỗi năm kết nạp từ 07 - 08 Đảng viên mới.
Xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể hàng năm đạt trong sạch
vững mạnh.
2. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ xã Ninh Thượng:
a. Xác định đúng nhiệm vụ chính trị ở cơ sở và chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị của Đảng bộ:
* Xác định nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ xã Ninh Thượng:
Đây là nội dung đặc biệt quan trọng trong quá trình nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Ninh Thượng. Xác định nhiệm vụ chính trị đúng
đắn chi phối toàn bộ quá trình đó, mọi hoạt động khác của Đảng bộ đều xoay
quanh nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã được xác định. Nhiệm vụ
chính trị của Đảng bộ còn là phương hướng hoạt động của các tổ chức như chính
quyền, các đoàn thể, các tổ chức xã hội ở cơ sở.
Để xác định đúng nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, cấp uỷ phải nắm vững
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, kế hoạch
công tác của cấp trên, nắm chắc đặc điểm, thế mạnh, tình hình thực tế tại cơ sở,
tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân và phải có tri thức nhất định về các
lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời phải lắng nghe ý kiến của nhân dân, tiến
hành thảo luận bàn bạc một cách dân chủ.
Sau khi xác định được nhiệm vụ chính trị, cấp uỷ tiến hành công tác tư
tưởng, tạo sự nhất trí trong nhân dân và chỉ đạo cụ thể hoá nhiệm vụ chính trị
thành chương trình kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đồng thời phân công
cấp uỷ viên và cán bộ phụ trách từng mặt công việc để tổ chức thực hiện và kiểm
tra việc thực hiện.

19
Qua từng bước tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, cấp uỷ cần tiến hành sơ
kết rút kinh nghiệm, bổ sung cho nhiệm vụ chính trị hoàn chỉnh hơn và đề ra chủ
trương, giải pháp tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với chủ trương đường lối của Đảng và Nghị
quyết của Thị uỷ là đẩy mạnh CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Vì vậy nhiệm
vụ chính trị chủ yếu trong giai đoạn hiện nay của Đảng bộ xã Ninh Thượng là lãnh
đạo chính quyền thực hiện đúng chức năng quản lý hành chính Nhà nước, tạo môi
trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN,
phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ đúng đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và chăm lo giải quyết việc làm cho người lao động. Thực
hiện tốt chính sách xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Xây dựng hệ thống chính trị của xã trong sạch vững mạnh, xây dựng Đảng bộ, chi
bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, thống nhất về chính trị và tư tưởng. Tất cả vì
mục tiêu xây dựng xã Ninh Thượng giàu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh.
* Chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ:
Để biến Nghị quyết của Đảng bộ thành hiện thực, đòi hỏi Đảng uỷ phải
thường xuyên chăm lo bồi dưỡng nhận thức chính trị và năng lực công tác của từng
cán bộ đảng viên. Thực hiện tốt Điều lệ Đảng, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, đoàn kết
thống nhất nội bộ Đảng.
Kiện toàn bộ máy chính quyền xã, đảm bảo chất lượng sắp xếp tổ chức các
ban ngành, đoàn thể gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, phân công từng đảng uỷ viên
phụ trách cơ sở, chỉ đạo hướng dẫn và kiểm tra các khu dân cư, thực hiện Nghị
quyết của đại hội Đảng bộ và của cấp trên. Nắm bắt tình hình thực tế ở cơ sở để
Ban Chấp hành Đảng bộ có những biện pháp chỉ đạo kịp thời, những Nghị quyết
sát đúng với thực tế.
Trong những năm trước sản xuất nông nghiệp của địa phương vẫn là nhiệm
vụ quan trọng. Để tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển, cần có chính
sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển của nông nghiệp hàng hoá, chuyển dịch
cơ cấu cây trồng vật nuôi, chuyển đổi ruộng đất cho các hộ nông dân, xây dựng mô

hình trang trại, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, khuyến khích sử dụng
20
đất có hiệu quả, phát triển nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH. Coi trọng các biện
pháp thâm canh tăng năng suất, áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, trồng trọt
và chăn nuôi, đẩy mạnh xu hướng chăn nuôi tập trung, phát triển các thành phần
kinh tế, phát huy hài hoà hiệu quả kinh tế hộ gia đình.
Phát huy tính sáng tạo và tự chủ của kinh tế trang trại vừa và nhỏ, phát huy
thế mạnh kinh tế vườn đồi, phát triển chăn nuôi công nghiệp tập trung dịch vụ
nông nghiệp.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, trật tự ATXH, cải thiện nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân, xây dựng bộ mặt nông thôn xã Ninh Thượng ngày
càng đổi mới.
b. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mà Nghị quyết đại hội Đảng bộ xã Ninh
Thượng lần thứ XII đề ra. Ban Chấp hành Đảng bộ tổ chức tốt phong trào thi đua
xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh toàn diện, Đảng bộ mạnh phải có các chi
bộ mạnh, chi bộ mạnh thì mọi đảng viên phải tích cực. Ban Chấp hành Đảng bộ
phải dấy lên phong trào thi đua trong toàn Đảng bộ, mỗi đảng viên phải thi đua
phấn đấu trở thành đảng viên xuất sắc, mỗi chi bộ phấn đấu trở thành chi bộ vững
mạnh, các chi bộ thi đua với nhau mỗi cán bộ đảng viên nêu gương và là hạt nhân
của các phong trào thi đua.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự chuyển biến về nhận thức
để mọi người hiểu rõ ý nghĩa, mục đích của các phong trào thi đua. Từ đó tích cực
hưởng ứng, tạo thành phong trào sôi nổi, rộng khắp, thu hút đông đảo quần chúng
tham gia.
Cấp uỷ và chính quyền chỉ đạo các phong trào thi đua cụ thể như sau:
- Xây dựng phong trào "Toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, làm giàu hợp
pháp", phong trào giúp đỡ nhau làm kinh tế.
- Tiếp tục thực hiện tốt phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hoá" và cuộc vận động ngăn chặn đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã
21
hội, phong trào xây dựng gia đình văn hoá, xây dựng làng văn hoá và khu dân cư
tiên tiến. Thực hiện tốt chính sách xã hội, phát động phong trào như phong trào
"áo ấm tình thương", "cha mẹ mẫu mực, con trung hiếu, cháu thảo hiền", phong
trào "thi đua dạy tốt, học tốt".
- Tiếp tục kiện toàn Hội đồng thi đua khen thưởng, nêu gương và nhân rộng
điển hình tiên tiến. Có biểu dương khen thưởng kịp thời.
c. Nâng cao phẩm chất năng lực đội ngũ cán bộ và đảng viên trong Đảng bộ:
Nâng cao chất lượng đảng viên là nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện
nay, bởi với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật công nghệ và trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội từng ngày, từng giờ đổi mới nếu đội ngũ cán bộ
đảng viên không ngừng vươn lên chiếm lĩnh trí trức thì sẽ nhanh chóng lạc hậu với
thực tiễn, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Với tư cách là người lãnh đạo cách
mạng, đội ngũ đảng viên phải vươn lên đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Vì vậy, Ban Chấp hành Đảng bộ phải làm tốt công tác đảng viên, đó là hoạt
động thường xuyên trong quá trình tồn tại và phát triển của Đảng. Do vậy thường
xuyên quan tâm giáo dục nâng cao phẩm chất kiến thức và năng lực thực tiễn cho
đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ cơ bản của Ban Chấp hành Đảng bộ, nâng cao trí
tuệ, hiểu biết cho đội ngũ đảng viên, tạo điều kiện về thời gian, vật chất cho các
đảng viên, nhất là các đảng viên trẻ được tham gia các lớp học về lý luận chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ, các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao kỹ năng, nghề
nghiệp.
Việc nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất cho đội ngũ đảng viên còn
được thông qua chế độ sinh hoạt đảng, chế độ báo cáo thường kỳ (hàng tháng) là
biện pháp hữu hiệu đặc biệt đối với Đảng bộ địa phương. Có nhiều đảng viên cao
tuổi, đảng viên trẻ thông qua nội dung báo cáo thời sự đảng viên nắm chắc các
thông tin về tình hình trong nước và thế giới. Qua đó xác định rõ trách nhiệm của
người đảng viên Cộng sản trong tình hình cách mạng mới.
Tiến hành giáo dục nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ đảng viên,

cần có kế hoạch trong từng thời gian, phù hợp với nhiệm vụ chính trị và chất lượng
đội ngũ đảng viên, chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng và lòng trung thành vào
22
sự nghiệp cách mạng của Đảng, kiên định con đường đi lên CNXH mà Đảng và
bác Hồ đã lựa chọn, nâng cao nhận thức cho đảng viên về các quan điểm đổi mới
của Đảng, chú trọng bồi dưỡng kiến thức năng lực phù hợp với nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Giáo
dục lối sống lành mạnh, trong sáng, cần - kiệm - liêm - chính, chí công - vô tư,
chống lại các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lối sống xa hoa, lãng phí hoặc các
biểu hiện độc đoán chuyên quyền, mất dân chủ nâng cao chất lượng sinh hoạt
đảng, làm tốt công tác quản lý và phân công công tác cho đảng viên, thường xuyên
kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Đối với những đảng viên thoái hoá
biến chất, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của nhà nước, giảm sút ý chí phấn đấu,
cần tiến hành các hình thức kỷ luật một cách thận trọng từng bước thích hợp, trên
cơ sở đánh giá phân loại đảng viên hàng năm.
d. Công tác phát triển đảng viên:
Phát triển đảng viên bổ sung cho Đảng nguồn lực và tố chất mới, đảm bảo
cho Đảng ngày càng phát triển, lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở
địa phương. Do đó Ban Chấp hành Đảng bộ cần chú trọng phát triển kết nạp đảng
viên mới.
Ban Chấp hành Đảng bộ thực hiện nghiêm chỉnh phương châm coi trọng
chất lượng, không chạy theo số lượng đơn thuần chặt chẽ về nguyên tắc, thủ tục,
không thành kiến hẹp hòi nhưng cảnh giác với những phần tử cơ hội chui vào
Đảng.
Những khó khăn trong công tác phát triển đảng viên:
Trong cơ chế thị trường hiện nay còn một bộ phận quần chúng quan tâm
nhiều đến việc làm kinh tế, đi làm xa, làm giàu cho mình và ít quan tâm đến chính
trị; sự phai nhạt lý tưởng của một bộ phận quần chúng trong nhân dân. Do vậy,
nguồn phát triển đảng viên phải quan tâm vào các tổ chức chính trị, xã hội như:
Đoàn Thanh niên, Phụ nữ, Cựu Chiến binh, Hội Nông dân những quần chúng ưu

tú. Đảng bộ cần phải quan tâm, bồi dưỡng giao nhiệm vụ, thông qua việc hoạt
động để đưa vào nguồn, có kế hoạch bồi dưỡng dìu dắt và kết nạp quần chúng vào
Đảng.
23
Làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục lý tưởng cách mạng và lối sống cho
thanh niên để thanh niên hiểu về lý tưởng của Đảng và hăng hái tự nguyện tham
gia đứng trong hàng ngũ của Đảng. Việc kết nạp đảng viên mới phải nhằm vào
những quần chúng ưu tú, giỏi trong lao động sản xuất kinh doanh, hoàn thành
nhiệm được giao, có đạo đức lối sống lành mạnh, có uý tín trong quần chúng, có lý
tưởng cách mạng tích cực hoạt động trong hệ thống chính trị, có vai trò nòng cốt
trong các đoàn thể nhân dân.
đ. Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng:
Chất lượng sinh hoạt đảng hiện nay ở đảng bộ, chi bộ vẫn còn xảy ra hiện
tượng, hình thức thiếu nội dung, kém hấp dẫn, thiếu tính chiến đấu. Vì vậy, việc
cấp bách hiện là nay cần đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng bộ, chi bộ để
mỗi buổi sinh hoạt đảng, mỗi người đảng viên cũng như từng tổ chức đảng thấy
được sự cần thiết có sức hấp dẫn và thu hút đảng viên một cách tự giác, tự nguyện
và vinh dự.
Để làm được điều này. Đảng uỷ cần duy trì nghiêm túc chế độ sinh hoạt
đảng (đảng bộ, chi bộ) phải có sự chuẩn bị chu đáo nội dung, chương trình và các
bước tiến hành đề ra Nghị quyết hoặc triển khai Nghị quyết, nội dung, phương
pháp phải có sự thống nhất trong Ban Thường vụ, duy trì nghiêm túc chế độ sinh
hoạt theo định kỳ, thực hiện tốt chế độ giao ban hàng tháng để Ban Thường vụ trực
tiếp nghe UBND xã báo cáo về tình hình hoạt động và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
trong tháng các ban ngành, đoàn thể, báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết của
cấp mình, ngành mình, nghe các đồng chí Bí thư chi bộ báo cáo thực hiện Nghị
quyết ở các chi bộ, báo cáo hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra Đảng uỷ, báo cáo của
Ban Thanh tra nhân dân thông qua nội dung báo cáo kết hợp với thông tin qua dư
luận quần chúng nhân dân mà Ban Thường vụ nắm được tình hình thực tế có định
hướng trong việc ra Nghị quyết những tháng tới.

Nội dung Nghị quyết phải phù hợp với nội dung công việc của địa phương,
phải đảm bảo tính khả thi, việc ra Nghị quyết phải đảm bảo dân chủ, thảo luận bàn
bạc trong Ban Chấp hành Đảng uỷ. Nghị quyết phải được đa số biểu quyết thông
qua, sau đó giao cho chính quyền và các tổ chức đoàn thể tổ chức thực hiện.
24
Việc tổ chức học tập Nghị quyết cấp trên phải được tiến hành chu đáo qua
các bước, căn cứ vào kế hoạch triển khai của Thị uỷ, Ban Thường vụ phải nhạy
bén chủ động nhận kế hoạch triển khai ở cấp mình, phân công soạn thảo chương
trình hành động để thực hiện Nghị quyết, nội dung chương trình hành động phải
phù hợp với nội dung yêu cầu của Nghị quyết và được cấp uỷ trao đổi phân tích
công khai đi đến thống nhất.
Phần tổ chức học tập Nghị quyết và chương trình hành động được báo cáo
công khai trước toàn thể đảng viên trong Đảng bộ. Đảng viên được dân chủ bàn
bạc nhằm tìm ra giải pháp tốt nhất để thực hiện Nghị quyết. Đảng uỷ phải lập kế
hoạch có chương trình cụ thể để toàn dân tham gia ý kiến vào chương trình hành
động để thực hiện Nghị quyết của địa phương thông qua các ban ngành, đoàn thể
và các tổ chức xã hội.
Ngoài việc triển khai Nghị quyết, công tác lãnh đạo của Đảng bộ theo định kỳ
hàng tháng, quý phải có Nghị quyết chuyên đề để đi sâu phát triển từng lĩnh vực như
ưu tiên tập trung vào những vấn đề cụ thể mà Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ đã đề ra.
Có làm được điều đó mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần
kinh tế, mục tiêu lớn nhất là đề ra phát triển kinh tế địa phương, ổn định tình hình
chính trị - xã hội, từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng xây dựng nông thôn mới.
e. Tăng cường công tác kiểm tra Đảng:
Để đưa công tác kiểm tra đi sâu vào nền nếp, đạt chất lượng và hiệu quả cao,
góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
trong điều kiện cơ chế thị trường đẩy mạnh CNH - HĐH cần làm tốt một số điểm
then chốt sau:
Về nhận thức, phải thông suốt quan niệm nâng cao chất lượng công tác kiểm
tra của Đảng, cũng có nghĩa là nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp uỷ. Cấp uỷ

phải coi trọng kiểm tra là công cụ đắc lực và công việc hàng ngày của mình. Trước
hết mỗi cấp uỷ và đảng viên phải đổi mới tư duy và phong cách kiểm tra, phê phán,
gạt bỏ nếp nghĩ, cách làm cũ, bồi dưỡng xây dựng nhận thức cách làm mới, phù
hợp với điều kiện hoạt động mới của Đảng.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×