Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận môn Công tác dân vận Cao học xây dựng Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.76 KB, 20 trang )

1
MỞ ĐẦU
Đảng ta luôn xác định: Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý
nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện
quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra một
trong những nhiệm vụ quan trọng về xây dựng Đảng trong điều kiện hiện nay
là “tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân”. Theo đó, nghị quyết đưa ra mục tiêu rất rõ
của công tác dân vận: “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của
nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực
hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát
huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Công tác dân vận của Đảng trong những năm qua đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước và mang lại nhiều bài học quý báu. Bên cạnh đó, công tác dân
vận của Đảng cũng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém cần sớm được khắc phục
và đặt ra yêu cầu cho Đảng phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện quan điểm,
nhiệm vụ, giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận trong
tình hình mới.
Xuất phát từ cơ sở đó, em lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” làm tiểu luận kết thúc Học phần Công tác dân vận
của Đảng trong giai đoạn hiện nay, chương trình Cao học Xây dựng đảng và
chính quyền nhà nước.



2
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề chung về chất lượng, hiệu quả công tác dân vận
1.1. Tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác dân vận
Công tác dân vận có nội dung rộng lớn, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực
của nhiệm vụ cách mạng do Đảng lãnh đạo và các lĩnh vực của đời sống xã
hội, có liên quan tới tất cả mọi người dân. Song chính vì nội dung rộng lớn ấy
cũng thường làm cho công tác dân vận trở nên chung chung, khó xác định,
đánh giá về hiệu quả. Do vậy, việc xây dựng các tiêu chí để phấn đấu nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới là rất quan
trọng và cần thiết.
Chất lượng, hiệu quả công tác dân vận chính là mức độ phát triển, hoàn
thiện của công tác dân vận thuộc trách nhiệm của hệ thống chính trị và mặt
khác là mức độ hài lòng của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính
quyền các cấp. Chất lượng, hiệu quả của công tác dân vận do Đảng lãnh đạo
thực chất cũng là một loại dịch vụ công từ đội ngũ “công bộc, đầy tớ của dân”
cung cấp và được đánh giá bằng mức độ cao hay thấp, có thể so sánh giữa các
tổ chức có cùng chức năng ở trong và ngoài nước.
Mặt khác, chất lượng, hiệu quả công tác dân vận cũng phản ánh mối
quan hệ giữa các giải pháp, công sức bỏ ra với kết quả thu được từ hoạt động
của các tổ chức, cá nhân; cũng có thể lượng hóa, đánh giá được, qua các tiêu
chí xác định chất lượng, hiệu quả công tác dân vận như sau:
Thứ nhất, mức độ hiểu biết của Nhân dân và lòng tin của Nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng, đồng thuận với chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách và luật pháp của Nhà nước; Nhân dân hăng hái, phấn khởi, tự giác thực
hiện nhiệm vụ và nghĩa vụ của mình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực
hiện các nhiệm vụ của địa phương, đơn vị.
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với an sinh xã hội, xóa đói
giảm nghèo; xây dựng cơ chế, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, tạo ra môi
trường cạnh tranh lành mạnh, thuận lợi cho Nhân dân đầu tư phát triển sản



3
xuất kinh doanh, công ăn việc làm, nâng cao đời sống mọi mặt, sự hài lòng
của Nhân dân.
Thứ ba, phải phát huy được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc và tăng
cường sự đoàn kết, nhất trí trong các cộng đồng dân cư ở cơ sở.
Thứ tư, công tác dân vận phải tập hợp, phát huy sức mạnh, tiềm năng trí
tuệ, sáng tạo của Nhân dân thành phong trào cách mạng, phong trào thi đua
yêu nước rộng lớn trong Nhân dân, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của
nhiệm vụ cách mạng và nhiệm vụ chính trị trọng tâm của địa phương, đơn vị.
Thứ năm, công tác dân vận phải đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi
nhất trong hoạt động của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp, thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hành dân chủ trong xã hội.
Thứ sáu, chất lượng hiệu quả công tác dân vận còn phải được đánh giá
bởi chất lượng, hiệu quả của lãnh đạo, quản lý và đổi mới nội dung phương
thức vận động Nhân dân của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn
thể các cấp.
1.2. Những nhân tố tác động đến công tác dân vận của Đảng hiện
nay
Một là, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XII của Đảng chỉ rõ, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là việc mới mẻ, đặt ra nhiều khó khăn, phức tạp cho công tác
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, cần nghiên cứu làm sáng tỏ hơn mối
quan hệ giữa Nhà nước và thị trường và có giải pháp để bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa. Nếu không có sự quản lý chặt chẽ, kịp thời của Nhà nước, không
có giải pháp điều tiết hữu hiệu thì nền kinh tế có thể bị chệch hướng, một bộ
phận giàu lên bất hợp pháp nhanh chóng, đẩy nhanh sự phân hóa giàu - nghèo
giữa các giai tầng trong xã hội... dẫn đến nhiều vấn đề xã hội nan giải.

Tình hình đó đòi hỏi công tác dân vận của Đảng phải góp phần thúc đẩy
phát triển các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường, song không làm mất


4
đi tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, không dẫn tới đảo lộn về chính trị, không
làm xói mòn, biến dạng phẩm giá, đạo đức, lối sống, bản sắc văn hóa dân tộc
và con người Việt Nam. Những mục tiêu, định hướng đó được Đảng ta chỉ rõ:
“Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo
dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”.
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đi đôi với mở
rộng và phát huy dân chủ của nhân dân.
Công tác dân vận của Đảng phải góp phần nâng cao trình độ để mọi
người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng quyền làm chủ
của nhân dân; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân; xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ mới.
Ba là, những cơ hội và thách thức từ chủ động hội nhập quốc tế.
Với việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, cán bộ, đảng viên và nhân
dân ta có điều kiện tiếp xúc với thế giới bên ngoài, do đó dễ chịu sự tác động cả
mặt tích cực lẫn tiêu cực của quá trình hội nhập. Để phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực, công tác dân vận của Đảng phải góp phần nâng cao giác ngộ,
bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ tri thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân;
thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm an ninh quốc phòng,
trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị; nâng cao đời sống của nhân dân.
Mặt khác, bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ - tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, nạn tham nhũng, tệ quan liêu, “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến,
tự chuyển hóa trong nội bộ”, đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan

xen, tác động lẫn nhau, cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, gây bất bình và giảm sút lòng tin trong nhân dân... Những
điều đó tác động rất mạnh đến đời sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là


5
lớp trẻ, vì thế đang đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm trong lãnh đạo, quản lý
xã hội hiện nay.
1.3. Những quan điểm chỉ đạo về tăng cường và đổi mới công tác dân
vận của Đảng trong thời kỳ mới
Một là, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ.
Phải luôn luôn lấy mục tiêu vì hạnh phúc của nhân dân làm cơ sở cho
việc giáo dục, thuyết phục, tổ chức, hướng dẫn nhân dân tiến hành sự nghiệp
cách mạng. Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của
Đảng, do đó phải thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Cần khắc phục tệ quan
liêu, xa dân, không tin dân, chuyên quyền độc đoán, vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân.
Hai là, phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân;
kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú
trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi
dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho
dân thì hết sức tránh.
Cùng với việc chăm lo lợi ích thiết thực, nâng cao tinh thần yêu nước, ý
chí tự lực, tự cường cho nhân dân, công tác dân vận phải hết sức coi trọng
phát huy dân chủ, quan tâm chăm lo lợi ích chính đáng cho nhân dân, tích cực
chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Ba là, phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền
với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi

quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với
lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo.
Rút kinh nghiệm từ thực tiễn những năm đổi mới vừa qua, có một số chủ
trương, cơ chế chính sách, một số quyết định khi ban hành chưa được nhân


6
dân đồng tình ủng hộ. Nguyên nhân chủ yếu là do bệnh quan liêu, không sát
dân, không sát thực tiễn, không nắm được tâm tư và nguyện vọng của nhân
dân; quy trình, cách soạn thảo văn bản và ra các quyết định chưa có sự tham
gia ý kiến, góp ý của nhân dân; những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của
một số tổ chức đảng, nhà nước, chính quyền các cấp; sự thiếu gương mẫu của
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Vì thế, muốn làm tốt công tác dân
vận trước hết phải xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, cán bộ,
đảng viên phải gương mẫu; các chủ trương, chính sách đề ra phải thực sự vì
dân và phát huy được những sáng kiến của nhân dân.
Bốn là, công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong
đó Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể
làm tham mưu và nòng cốt.
Các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phải lấy công tác vận động và
chăm lo lợi ích của nhân dân làm nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình.
Mọi cán bộ, đảng viên đều phải làm công tác dân vận, tuyên truyền chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và vận động nhân dân thực hiện theo
chức trách của mình; khắc phục hiện tượng không muốn làm hoặc không biết
làm công tác dân vận.
Năm là, Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ" thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ
thống chính trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ
lực lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân

dân phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả.
Để Nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Quốc
hội và hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp phải
thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật;
tạo môi trường thuận lợi cho nhân dân sản xuất và sinh hoạt. Bộ máy nhà
nước từ cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều phải nâng cao tinh thần
phục vụ nhân dân và ý thức trách nhiệm trước dân, gắn bó chặt chẽ với nhân


7
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mọi cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước đều phải trực tiếp làm công tác dân vận theo chức trách của mình.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, củng cố tổ chức bộ
máy, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, nhất là ở cơ sở; tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình và tổ chức các tầng lớp
nhân dân tích cực tham gia công cuộc đổi mới, xây dựng Đảng và chính
quyền trong sạch, vững mạnh.
2. Thực trạng công tác dân vận trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
2.1. Những thành tựu trong công tác dân vận của Đảng
Thứ nhất, Đảng đã ban hành nhiều văn bản định hướng, chỉ đạo thực
hiện công tác dân vận.
Sau khi thực hiện công cuộc đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VI đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 8B-NQ/TW, ngày 27-3-1990, về
“Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
và nhân dân”. Nghị quyết đã xác định rõ bốn quan điểm và những giải pháp
chủ yếu nhằm đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận phù hợp với
yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Từ Đại hội VII đến Đại hội XI của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương,

Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị cụ thể cho từng lĩnh
vực công tác dân vận của Đảng, như Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 7-111993, của Bộ Chính trị khóa VII “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường mặt
trận dân tộc thống nhất”; Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12-3-2003, về “Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12-3-2003, “Về
công tác dân tộc” và Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003, “Về công tác
tôn giáo” của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX. Ban Chấp hành Trung
ương các khóa X và XI có các nghị quyết cụ thể về các đối tượng công tác
dân vận. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban


8
hành Nghị quyết sô 25-NQ/TW, ngày 30-6-2013 “về tăng cường và đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”.
Các văn kiện của Đảng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước đã thể hiện rõ quan điểm,
đường lối quần chúng sâu sắc của Đảng: chăm lo, mang lại quyền, lợi ích
chính đáng, nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân, mở rộng dân chủ, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh, trách nhiệm, nghĩa vụ,
quyền làm chủ của nhân dân; đều có những nội dung gắn với công tác dân
vận, gắn với các đối tượng, giai cấp, tầng lớp nhân dân và những tổ chức quần
chúng cụ thể. Hầu hết các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
được nhân dân ủng hộ, tích cực tham gia thực hiện.
Thứ hai, Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản pháp quy và cơ chế, chính sách đáp ứng yêu cầu công tác dân
vận của Đảng.
Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật, cơ chế, chính sách nhằm từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mở rộng dân chủ, tạo cơ chế,

môi trường thông thoáng để nhân dân có điều kiện, cơ hội đầu tư sản xuất,
kinh doanh, làm giàu chính đáng, phát triển kinh tế - xã hội; học tập, nâng cao
trình độ; năng động, sáng tạo tìm kiếm công ăn việc làm; tham gia xây dựng
Nhà nước, xây dựng chính quyền các cấp, tham gia công tác quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân và tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu nước,
thúc đẩy quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Ở các địa phương, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp đã ban
hành nhiều văn bản để tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, dự án
phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân; mở rộng
dân chủ trong nhân dân; đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục


9
phiền hà với nhân dân, xây dựng quy chế tiếp dân; giải quyết các khiếu nại, tố
cáo của nhân dân và chấn chỉnh phong cách làm việc của cán bộ, công chức;
tôn trọng, dân chủ, công khai, minh bạch với nhân dân, hạn chế và ngăn ngừa
những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, thờ ơ, vô trách nhiệm với nhân dân của
cán bộ, công chức.
Thứ ba, các cơ quan chức năng ở Trung ương và cấp ủy, chính quyền các
cấp đã tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện
các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận.
Các cơ quan chức năng ở Trung ương hằng năm đã tổ chức nhiều đoàn
kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của
Đảng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... liên
quan đến đời sống của nhân dân; qua đó, báo cáo với Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, Quốc hội, Chính phủ về những ưu điểm, hạn chế trong việc tổ chức thực
hiện các chủ trương, nghị quyết đó.
Các địa phương đã tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành do ban thường
vụ tỉnh ủy, thành ủy chủ trì, giám sát việc quán triệt, triển khai thực hiện các

nghị quyết và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trọng điểm ở địa
phương; đôn đốc các cấp thực hiện và vận động nhân dân tham gia các
phong trào thi đua yêu nước. Hầu hết các nghị quyết, chỉ thị về công tác dân
vận và liên quan đến công tác dân vận đã được Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ
đạo cho sơ kết 3 năm, 5 năm, tổng kết 10 năm từ cơ sở đến Trung ương để
bổ sung, hoàn thiện quan điểm, giải pháp và ra các văn bản chỉ đạo tổ chức
thực hiện tốt hơn.
Thứ tư, coi trọng việc phân công cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên phụ
trách công tác dân vận, chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy ban dân vận và
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội ở các cấp đã được kiện toàn, củng cố,
tăng cường thu hút, phát triển đoàn viên, hội viên và đổi mới nội dung,


10
phương thức hoạt động, có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận
động, tập hợp, thu hút đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, góp phần thiết thực vào việc thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng luôn chăm lo bố trí
cán bộ, bảo đảm các điều kiện hoạt động cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
đoàn thể chính trị - xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã tăng
cường các biện pháp nắm bắt tình hình tư tưởng, quan tâm hỗ trợ nhân dân,
đoàn viên, hội viên về nghề nghiệp, việc làm, học tập...; chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của người nghèo, đối tượng chính sách; phát động nhiều
phong trào quần chúng rộng lớn gắn với nhiệm vụ chính trị, nhu cầu, lợi ích
của nhân dân, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Hiện nay, các
địa phương, các tầng lớp nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể

chính trị - xã hội đang tích cực tham gia các phong trào “Cả nước chung tay”,
“Dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới”...
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội giữ vai trò
nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và thực hiện
Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Đã có nhiều hình thức hoạt động nhằm mở rộng dân
chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tham gia giám sát, phản biện, xây
dựng Đảng, chính quyền; góp phần bảo đảm quốc phòng - an ninh; tham gia
hòa giải, giải quyết mâu thuẫn trong xã hội, trong nội bộ nhân dân, góp phần ổn
định chính trị ở cơ sở. Các hình thức hoạt động, như “Ngày hội đại đoàn kết
toàn dân”; giám sát cộng đồng, thăm dò tín nhiệm cán bộ chủ chốt ở cơ sở… đã
thực sự có hiệu quả và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ năm, tăng cường lãnh đạo lực lượng vũ trang thực hiện tốt công tác
dân vận.
Các nghị quyết, chỉ thị và chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
về công tác quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận an ninh nhân dân đều thể


11
hiện rõ quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác dân vận. Quân ủy Trung
ương và Đảng ủy Công an Trung ương đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị để lãnh
đạo, chỉ đạo toàn quân, các đơn vị, mọi cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ luôn coi
trọng và thường xuyên làm tốt công tác dân vận. Các đơn vị quân đội, công
an, bộ đội biên phòng đã phối hợp tốt với cấp ủy, chính quyền địa phương
phát động, tuyên tuyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào làm tốt
công tác quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; đi sâu cơ sở, giúp dân phát
triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, cảnh giác, đấu tranh với âm mưu
thâm độc của kẻ thù, đấu tranh phòng, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội;
tham gia xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh,
xây dựng thế trận lòng dân, an ninh nhân dân; là lực lượng nòng cốt trong
phòng, chống và giải quyết các hậu quả của thiên tai, bão lụt, nhất là ở các

vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo.
Thứ sáu, sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với tổ chức hội
quần chúng được tăng cường; cùng với đó, công tác quản lý nhà nước, hệ
thống văn bản pháp luật về hội tiếp tục được hoàn thiện.
Các hội quần chúng phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về hình thức
tổ chức, hoạt động, từng bước gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương, của đất nước; góp phần tích cực vào việc xây dựng, củng cố, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật
tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, Đảng luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tranh
thủ các nguồn vốn viện trợ, sự ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các tổ
chức từ thiện vào việc đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống của nhân dân, nhất là những người có điều kiện khó khăn, các đối tượng
chính sách và đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa.
2.2. Những hạn chế, yếu kém trong công tác dân vận của Đảng
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác dân vận của Đảng trong
thời gian vừa qua vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém như sau:


12
Thứ nhất, chậm đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, lúng
túng trong xác định chức năng, nhiệm vụ cũng như việc xây dựng các tổ chức
đảng, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức quần chúng trong công nhân, người
lao động, nhất là trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, các loại hình dịch vụ ngoài công lập, trong lao động,
lưu học sinh ở nước ngoài.
Thứ hai, một số nơi, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở yếu kém, giảm sút vai trò lãnh đạo,
không sát dân, không nắm được diễn biến tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân, không đủ sức tuyên truyền, vận động nhân dân cũng như giải quyết

những bức xúc của nhân dân, để xảy ra tình trạng nhân dân tự phát đấu tranh
chống tiêu cực, khiếu kiện gay gắt, phức tạp, khó giải quyết, như ở một số
tỉnh đồng bằng sông Hồng và nhiều tỉnh khác trong cả nước; hoặc bị kẻ địch,
người xấu lợi dụng tuyên truyền, kích động, lôi kéo, tập hợp đi biểu tình, bạo
loạn, như tại một số tỉnh ở Tây Nguyên.
Thứ ba, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ đã
được xác định từ lâu, nhưng chưa được cụ thể hóa đầy đủ và đồng bộ thành
một hệ thống quy định của luật pháp thích hợp. Sự phối hợp giữa các tổ chức
trong hệ thống chính trị còn thiếu chặt chẽ. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền trong công tác
dân vận bị coi nhẹ, còn nhiều hạn chế, yếu kém, ỷ lại vào bộ máy hành chính
và các giải pháp hành chính, coi nhẹ giải pháp tuyên truyền, vận động nhân
dân; có lúc, có nơi còn “khoán trắng” cho khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
đoàn thể chính trị - xã hội. Hoặc chỉ mới chú trọng, quan tâm đáp ứng các yêu
cầu, nguyện vọng của nhân dân mà chưa chú ý phát huy vai trò, trách nhiệm,
nghĩa vụ của nhân dân, để xảy ra tâm lý trông chờ, ỷ lại vào Đảng, Nhà nước
ở không ít người dân, dẫn đến tình trạng một số người lợi dụng dân chủ, hành
động cực đoan, khiếu kiện gay gắt, làm phức tạp tình hình, thậm chí có nơi
còn gây mất ổn định, trở thành “điểm nóng”.


13
Thứ tư, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội còn hành chính hóa, chậm được khắc
phục, đổi mới. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng bộ máy, bố
trí cán bộ làm tham mưu về công tác dân vận; cán bộ trực tiếp làm công tác
vận động nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội chưa được quan tâm thỏa đáng, chưa có quan điểm, giải pháp cụ thể,
còn chắp vá, dẫn đến hạn chế tính chuyên nghiệp, chưa ngang tầm với yêu
cầu tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận.
2.3. Những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn công tác dân vận của

Đảng trong thời gian qua
Một là, luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm,
đường lối của Đảng ta về công tác dân vận, về đại đoàn kết toàn dân tộc;
không ngừng mở rộng các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp;
thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Công tác dân vận là một bộ phận quan
trọng của công tác xây dựng Đảng, là một trong những nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng.
Hai là, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát
từ lợi ích và ý nguyện chính đáng của nhân dân, “việc gì có lợi cho dân thì hết
sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh” - như Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng căn dặn. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, xây dựng đội ngũ
cán bộ của Đảng, Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
nhân dân từ Trung ương đến địa phương có quan điểm dân vận vững vàng,
tận tâm, hết lòng với công việc, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng; có
phong cách gần dân, sát dân, học dân, không tham nhũng, quan liêu, cửa
quyền, luôn có thái độ dân chủ, tôn trọng nhân dân, gương mẫu trước nhân
dân, đủ năng lực để vận động nhân dân. Đồng thời, quan tâm xây dựng bộ
máy và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận vững mạnh, trong sạch.
Ba là, công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong
đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền có vai trò chủ yếu, Mặt trận Tổ quốc Việt


14
Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò quan trọng. Do đó, cần có sự phối
hợp lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị để tuyên
truyền, vận động nhân dân luôn thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời tham gia tích cực các phong
trào thi đua yêu nước.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các
hội quần chúng không ngừng đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất

lượng hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính, quan liêu, xa dân, xa thực tế.
3. Một số nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác dân vận của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
3.1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức; tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng
của nhân dân; làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
Kiên trì thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong
sinh hoạt Đảng; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt Quy chế Giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị
- xã hội và Quy định để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và
nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, nâng cao chất
lượng các tổ chức cơ sở đảng, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở.
Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung những quy định về chính sách,
pháp luật để thực hiện những nội dung Hiến pháp năm 2013 về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ của công dân trên cơ sở tôn trọng quyền làm chủ
của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy đầy đủ quyền và thực hiện
tốt nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc. Các cấp, các ngành, địa phương, đơn


15
vị tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân,
nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù thu
hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội... Trong xây dựng thể chế, chính
sách, cần quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc: mọi chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thuận với lòng dân, xuất phát

từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Quan tâm điều chỉnh hài
hòa lợi ích giữa các giai tầng xã hội, các vùng, miền, các lĩnh vực. Xử lý
nghiêm minh những vụ, việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết dứt điểm những
vụ, việc khiếu kiện đông người phức tạp, kéo dài.
3.2. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân
về vai trò, vị trí công tác dân vận trong tình hình mới
Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân nắm vững, nhất trí với mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ
công tác dân vận. Thực hiện tốt công tác dân vận trong đồng bào dân tộc thiểu
số, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài. Tăng cường lãnh đạo công tác
thông tin, tuyên truyền, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan thông
tin đại chúng; mở rộng các kênh thông tin truyền thông, đối thoại trực tiếp với
nhân dân, góp phần giải tỏa bức xúc, hoài nghi trong xã hội. Chú trọng việc
định hướng và quản lý các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là mạng xã
hội; phát huy sức mạnh của dư luận xã hội lành mạnh hỗ trợ cho các biện
pháp quản lý của Nhà nước và các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Chủ động đấu tranh với các
luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch chống phá khối đại
đoàn kết dân tộc, chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, cổ vũ và nhân rộng các nhân tố mới,
các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực; phát huy
tinh thần yêu nước, thực hành dân chủ, tạo ra phong trào hành động cách


16
mạng của toàn dân. Phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng vận động nhân dân cho
những người có uy tín trong cộng đồng dân cư.
3.3. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước
Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về dân vận thành

các văn bản pháp luật để các cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức và các tầng lớp nhân dân thực hiện. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người
cao tuổi. Ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở
nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất nước; góp phần tăng cường hợp
tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
Tổ chức thực hiện tốt Kết luận số 114-KL/TW, ngày 14-7-2015, của Ban
Bí thư về “Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cơ quan nhà nước các
cấp”. Cán bộ, công chức, viên chức phải có trách nhiệm vận động nhân dân.
Xây dựng và thực hiện phong cách: “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và
có trách nhiệm với dân”; tăng cường đi công tác cơ sở để nắm bắt tình hình,
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; công khai các quy định cụ thể
về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức để
nhân dân biết và giám sát, kiểm tra việc thực hiện. Tăng cường đối thoại, tiếp
xúc trực tiếp với nhân dân và giải quyết kịp thời đơn, thư khiếu nại, tố cáo của
nhân dân. Làm tốt công tác thanh tra nhân dân, công tác hòa giải ở cơ sở; thực
hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; chủ động nắm tình hình và giải quyết những
công việc liên quan đến đời sống của nhân dân. Chú trọng bảo đảm an sinh xã
hội, giải quyết tốt các chính sách đối với người nghèo, người khuyết tật và các
chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, để các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
3.4. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước


17
Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân xác định nội dung và lựa chọn cách thức phát động thi đua sát với thực tế

của địa phương, đơn vị với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với
từng đối tượng. Đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với việc
“Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các
phong trào do Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội phát động.
Các phong trào thi đua cần thiết thực, tiết kiệm, tránh hình thức, sáo rỗng.
Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp
thời. Vận động và tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân phát huy cao độ
tiềm năng, sức sáng tạo, tích cực lao động, học tập, sản xuất, kinh doanh, làm
giàu chính đáng cho mình, cho cộng đồng và đất nước; tham gia đấu tranh,
phòng, chống tội phạm, tiêu cực, tệ nạn xã hội.
3.5. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng
Đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung
cho cơ sở, phù hợp với trình độ dân trí và đặc điểm, tình hình cụ thể của từng
giai tầng xã hội; tham mưu và là nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội,
phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ, ý thức trách nhiệm của công dân trong thực
hiện giám sát xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị
- xã hội với các hội quần chúng, với chính quyền, lực lượng vũ trang trong
công tác dân vận. Phát huy vai trò công tác đối ngoại nhân dân và vận động
người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn bản sắc dân tộc, hình ảnh con người,
đất nước Việt Nam và hướng về xây dựng quê hương, đất nước; tranh thủ sự
đồng tình và ủng hộ của bạn bè và các tổ chức quốc tế.
3.6. Quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ làm công
tác dân vận các cấp theo hướng tinh gọn, hiệu quả, vững mạnh
Củng cố ban dân vận các cấp; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận
của Đảng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tham mưu chiến lược. Có cơ chế, chính


18

sách thu hút người có năng lực, uy tín và kinh nghiệm làm công tác dân vận;
chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm
công tác dân vận, nhất là cán bộ trẻ tuổi, có năng lực; khắc phục tình trạng
đưa cán bộ phẩm chất, năng lực yếu kém và không có uy tín về làm công tác
dân vận. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực
tiễn và kỹ năng công tác vận động nhân dân. Các cơ quan tham mưu của
Đảng phải nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong công tác tham mưu, tư
vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy
đảng về công tác dân vận; có chế độ báo cáo, thông tin kịp thời, đầy đủ về
tình hình nhân dân và những hạn chế trong hoạt động của công tác dân vận.
3.7. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thực hiện
công tác dân vận
Các tổ chức đảng, cấp ủy các cấp từ Trung ương đến cơ sở phải xác định
công tác vận động và chăm lo lợi ích của nhân dân là một trong những nội
dung chủ yếu trong hoạt động của mình; thường xuyên tìm hiểu tình hình đời
sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để có chủ trương, biện pháp xử lý
đúng đắn, kịp thời. Các cấp ủy đảng lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
và đoàn thể nhân dân phối hợp chặt chẽ trong giải quyết các công việc liên
quan đến nhân dân và vận động nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ
công dân. Quan tâm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giải đáp kịp thời
những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là về xây dựng và củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước trong tình hình hiện nay.


19
KẾT LUẬN
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế hiện nay, công tác dân vận góp phần tạo nên sự đồng thuận xã hội;
củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân

dân; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Công tác dân vận hiện nay đang đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên làm
công tác dân vận phải vươn lên để lãnh trách nhiệm trước Đảng, trước dân,
khắc phục mọi khó khăn, yếu kém, nhạy bén, tham mưu giải quyết một cách
kịp thời, có hiệu quả những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, góp phần thiết
thực vào việc củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Mặc dù còn tồn
tại những hạn chế, yếu kém. Tuy nhiên, cũng không thể phủ định rằng, những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc của công cuộc đổi mới đất nước
cũng như những kết quả đạt được trong việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác dân vận đã làm cho tuyệt đại bộ phận nhân dân tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong tình hình mới, Đảng cần sớm đề ra mục tiêu, quan điểm và nhiệm
vụ, giải pháp tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận để nhanh chóng khắc phục những hạn chế, yếu kém, tạo ra sự chuyển
biến tích cực trong công tác dân vận. Chúng ta tin tưởng rằng, công tác dân
vận của Đảng ta sẽ không ngừng phát triển vững chắc, hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ theo yêu cầu mới, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành
công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.


20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.
4. Viện Xây dựng Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tài
liệu môn học Công tác dân vận của Đảng trong giai đoạn hiện nay (Dành cho
các lớp cao học), Hà Nội, 2017.
5. Nguyễn Duy Việt, Công tác dân vận trong tình hình mới – cần phải
có tiêu chí nâng cao chất lượng, hiệu quả, />Story?ID=78
6. Nguyễn Duy Việt, Những thành tựu và bài học kinh nghiệm trong
công tác dân vận của Đảng thời kỳ đổi mới,
/Home/xay-dung-dang/2013/23207/Nhung-thanh-tuu-va-bai-hoc-kinh-nghiemtrong-cong-tac-dan.aspx



×