Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận môn Đảng lãnh đạo Cao học xây dựng Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.63 KB, 17 trang )

1
MỞ ĐẦU
Thực tiễn cho thấy, đường lối, chủ trương chỉ thay đổi được hiện thực
khi được đưa vào cuộc sống, biến thành hành động của quảng đại quần chúng
nhân dân. Muốn vậy, phải có nội dung lãnh đạo và cách thức, phương pháp
lãnh đạo đúng đắn, khoa học. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức lãnh
đạo là hai mặt của một quá trình thống nhất về sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và xã hội.
Vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được
đặt ra từ lâu, nhất là từ thời kỳ đổi mới (Đại hội lần thứ VI của Đảng - 1986).
Khác với phương thức lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh giải phóng dân
tộc, hiện nay Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ hơn về phương thức
lãnh đạo của Đảng với năm nội dung quan trọng.
Sau hơn 30 năm đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước đã có nhiều bước tiến quan trọng: Có sự phân định ngày càng rõ hơn
chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng điều hành, quản lý của Nhà
nước. Cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đang
được cụ thể hóa bằng các quy định pháp luật. Năng lực thể chế hoá đường lối
của Đảng thành các quy định có tính pháp lý và tổ chức thực hiện có hiệu quả
nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân từng bước được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập: Việc phân định về chức năng, nhiệm
vụ; về thẩm quyền, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành
giữa cơ quan Đảng và Nhà nước còn chưa cụ thể, rõ ràng.
Xuất phát từ lý do đó, em lựa chọn đề tài “Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” làm tiểu luận kết thúc học phần Đảng lãnh đạo Nhà nước và
các lĩnh vực đời sống xã hội.



2
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề chung về Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.1. Quan niệm về lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng
Lãnh đạo là khái niệm phản ánh quá trình hoạt động của con người,
trong đó chủ thể lãnh đạo xác định mục tiêu, chủ trương, biện pháp hành động
và tổ chức, động viên, thuyết phục đối tượng lãnh đạo phát huy nguồn lực,
tiềm năng sáng tạo nhằm thực hiện mục tiêu, biện pháp hành động mà chủ thể
lãnh đạo vạch ra, đồng thời kiểm tra, giám sát việc thực hiện đó.
Thuật ngữ “lãnh đạo” được sử dụng phổ biến trong đời sống chính trị xã hội. Hiện nay có khá nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau về thuật ngữ
“lãnh đạo”. Khoa học quản lý (trong lĩnh vực sản xuất) quan niệm hoạt động
lãnh đạo như là một bộ phận của hoạt động quản lý, là phương tiện để thực
hiện quản lý có hiệu quả. Những nghiên cứu này cho rằng, nhà quản lý muốn
quản lý tốt các hoạt động sản xuất, phải có kỹ năng lãnh đạo tốt. Theo đó, nhà
quản lý phải có khả năng thuyết phục, lôi cuốn, động viên tư tưởng và tình cảm
của người lao động cống hiến cho doanh nghiệp. Nhà quản lý phải thể hiện một
tấm gương tốt trước những người lao động để người lao động noi theo.
Lãnh đạo là quá trình bao gồm hai khâu chính: Một là, xác định mục
tiêu, quan điểm, chủ trương, biện pháp, nghĩa là xác định các nội dung, nhiệm
vụ, yêu cầu và mục tiêu của việc cần làm trong một thời kỳ hay một giai đoạn
cụ thể; xác định các nguyên tắc, biện pháp tiến hành để định hướng đối tượng
lãnh đạo hành động theo quan điểm, đường lối đã xác định. Hai là, tổ chức
thực hiện chủ trương, đường lối đã xác định.
Như vậy, lãnh đạo là việc chủ thể lãnh đạo thực hiện các hoạt động: xác
định mục tiêu, đường lối, chủ trương, phương hướng, biện pháp hành động
nhằm đạt tới mục tiêu; là tuyên truyền, vận động, thuyết phục các đối tượng
lãnh đạo hiểu rõ mục tiêu, phương hướng hành động do chủ thể lãnh đạo vạch



3
ra nhằm làm cho đối tượng lãnh đạo tin tưởng và đi theo; là tổ chức các hoạt
động thực tiễn để đối tượng lãnh đạo thực hiện các mục tiêu, đường lối, chủ
trương do chủ thể lãnh đạo vạch ra; là hành động gương mẫu của chủ thể lãnh
đạo trong thực hiện mục tiêu, đường lối đã vạch ra.
Khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng được sử dụng phổ biến
trong thời kỳ đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là
kết quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn lãnh đạo của Đảng trong nhiều
năm, nhất là những năm đổi mới. Làm rõ phương thức lãnh đạo giúp các cơ
quan lãnh đạo của Đảng phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và vai trò
quản lý của chính quyền các cấp, khắc phục sự chồng lấn, bao biện, làm thay
công việc nhà nước của các tổ chức đảng, cũng như buông lỏng sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước.
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng ta cho thấy: khi có đường lối
đúng, có tổ chức hợp lý mà không có phương thức lãnh đạo phù hợp thì hiệu
quả lãnh đạo thấp, thậm chí còn làm vô hiệu hóa cả chủ trương đúng của
Đảng và các cấp ủy. Phương thức lãnh đạo của Đảng sẽ thay đổi khi hoàn
cảnh, điều kiện thay đổi, tình hình cách mạng thay đổi.
Tóm lại, phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các hình thức,
phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà chủ
thể lãnh đạo sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo, làm cho nội dung
lãnh đạo của chủ thể trở thành hiện thực.
1.2. Quan niệm về Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quá trình Đảng đề ra các quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách đối với hoạt động của Nhà nước; tổ chức thực hiện và
kiểm tra, giám sát các cơ quan Nhà nước thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, bảo đảm cho quan điểm, đường lối, chính sách



4
đó được thực thi trong thực tiễn. Quan niệm như vậy về Đảng lãnh đạo Nhà
nước chỉ rõ những vấn đề sau:
Chủ thể lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam, mà thường xuyên và
trực tiếp là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các cấp ủy đảng địa phương lãnh đạo cơ quan
nhà nước ở địa phương.
Mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là xây dựng thành công
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mang bản chất của giai cấp công nhân;
trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và dân tộc; phụng sự đắc lực công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
1.3. Đối tượng lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước:
Trước hết, Đảng phải lãnh đạo hệ thống chính trị và các lực lượng xã
hội xây dựng và ban hành Hiến pháp, pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước.
Trên cơ sở luật đã ban hành, Đảng chí đạo đội ngũ cán bộ của Đảng và các cơ
quan nhà nước xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức; đào tạo, bồi dưỡng và
bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ hoạt động trong bộ máy Nhà nước. Có tổ chức
bộ máy và cán bộ, Đảng lãnh đạo, định hướng xây dựng thể chế và nguyên tắc
hoạt động cho bộ máy đó. Thể chế nguyên tắc hoạt động của bộ máy Nhà
nước là cơ sở để xem xét bản chất chính trị của nó.
Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ hoạt động trong bộ máy nhà nước
được xem như hình thức tổ chức của nhà nước, còn nguyên tắc và thể chế hoạt
động cũng như mục tiêu phục vụ của nhà nước thuộc về nội dung và bản chất
chính trị của nhà nước. Nhà nước bao giờ cũng là nhà nước của giai cấp xã hội



5
xác định, giữ địa vị thống trị trong xã hội ấy. Giai cấp thống trị, thông qua đảng
cầm quyền, lãnh đạo chính quyền nhà nước thực hiện chức năng giai cấp và
chức năng xã hội của nhà nước. Các đảng cầm quyền do vậy, là lực lượng
chính trị quyết định mục tiêu, nguyên tắc và thể chế hoạt động của nhà nước,
quyết định bản chất chính trị của nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước là nhân tố quyết định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước.
Đảng lãnh đạo các cơ quan Nhà nước tuân theo quy định của pháp luật:
Hoạt động của bộ máy Nhà nước hết sức đa dạng và phức tạp, với chức
năng lãnh đạo Nhà nước nói chung, lãnh đạo hoạt động của các cơ quan Nhà
nước nói riêng, sự lãnh đạo của Đảng tập trung vào các hoạt động:
Lãnh đạo hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước của Quốc hội.
Trong lĩnh vực hành pháp, Đảng lãnh đạo các hoạt động của Chính phủ
và Ủy ban nhân dân các cấp như: Kiện toàn tổ chức, bộ máy, xây dựng quy
chế làm việc của các tổ chức đảng hoạt động trong các cơ quan chính phủ và
ủy ban nhân dân; xác lập mối quan hệ công tác giữa các cơ quan đảng và
người đứng đầu các cơ quan hành pháp...
Đối với lĩnh vực tư pháp, Đảng lãnh đạo các hoạt động truy tố, xét xử
và bảo vệ pháp luật của các cơ quant ư pháp; hoạt động đối nội, đối ngoại,
bảo đảm an ninh - trật tự và củng cố nền quốc phòng của Nhà nước. Sự lãnh
đạo của Đảng bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước thực sự là
Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Đảng lãnh đạo phối hợp hoạt động của bộ máy Nhà nước với các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị: Với vai trò hạt nhân chính trị, người lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức mọi hoạt động của hệ thống chính trị nước ta, Đảng lãnh
đạo xây dựng cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
chính trị - xã hội với bộ máy nhà nước; xây dựng cơ chế hoạt động và mối quan

hệ giữa Đảng cầm quyền với các cơ quan Nhà nước; xác định quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm của các tổ chức xã hội và công dân với bộ máy Nhà nước.


6
1.4. Sự tất yếu phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tất cả các đảng cầm quyền đều tăng cường sự lãnh đạo chính trị của
đảng đối với nhà nước:
Tất cả các đảng cầm quyền đều phải tăng cường sự lãnh đạo chính trị
đối với bộ máy nhà nước nhằm nắm vững bộ máy nhà nước, xây dựng và bảo
vệ bộ máy nhà nước, sử dụng bộ máy nhà nước phục vụ mục tiêu, nhiệm vụ
chính trị của đảng. Tuy nhiên, tùy theo tính chất, đặc điểm của mỗi nhà nước
và mỗi đảng cầm quyền mà nghệ thuật lãnh đạo của đảng đối với nhà nước rất
khác nhau. Với kinh nghiệm cầm quyền qua nhiều thế kỷ, các đảng chính trị ở
nước tư bản phát triển lãnh đạo chính quyền hết sức chặt chẽ và khoa học.
Giai cấp tư sản thống trị ở các nước tư bản phát triển đã tạo ra khả năng cầm
quyền của giai cấp mình đến mức, dù người đứng đầu nhà nước xuất thân từ
giai cấp những người lao động, có thiện chí với lý tưởng chủ nghĩa xã hội, thì
cũng không thể thay đổi được bất cứ điều gì; các Đảng Cộng sản chưa bao giờ
có cơ hội trở thành đảng cầm quyền ở những nước đó.
Cách mạng Tháng Mười thành công ở nước Nga Xô-viết đánh dấu sự
ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Trải qua hơn 70
năm ra đời và phát triển, các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội
chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu đã mắc sai lầm nghiêm trọng trong lãnh đạo
chính quyền dẫn đến mất chính quyền và làm tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa ở
những nước này. Những Đảng Cộng sản còn lại đã kịp thời rút kinh nghiệm từ
những thất bại đau đớn nói trên để củng cố sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước, giữ vững chính quyền cách mạng của nhân dân.
Trước những tổn thất nghiêm trọng của phong trào Cộng sản và công

nhân quốc tế những năm 90 của thế kỷ XX, các Đảng Cộng sản cầm quyền ở
Trung Quốc, Việt Nam và một số nước xã hội chủ nghĩa đã rút ra những kinh
nghiệm quý báu trong lãnh đạo chính quyền nhà nước. Trong xu thế mở cửa,


7
đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, các đảng cầm
quyền khẳng định rõ về nguyên tắc: là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo
nhà nước; quyết không đổi hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong quá trình
phát triển đất nước...
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước nước xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan:
Đảng Cộng sản Việt nam lãnh đạo Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là một đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam. Lịch sử
cách mạng nước ta đã khẳng định một quy luật khách quan: Độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa là cách mạng Việt Nam trong
thời đại ngày nay, nếu không giành và giữ vững được độc lập dân tộc, thì
không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và ngược lại, không xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cũng không thể giữ vững được độc lập
dân tộc. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một công cụ sắc
bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng là bảo đảm tất yếu phát huy sức mạnh của Nhà nước trong sự
nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Mặt khác, cả về lý luận và thực tiễn cách mạng Việt nam đều khẳng
định: chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới thật sự là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
2. Phương hướng và giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1. Phương hướng

2.1.1. Tiếp tục nghiên cứu những vấn đề có tính lý luận về mối quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
Một là, tiếp tục đổi mới, nhận thức về Đảng và Nhà nước.


8
Đảng ta là đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội, nhưng
không phải là cơ quan quyền lực nhà nước; quyền lực của Đảng khác với
quyền lực nhà nước.
Sự khác nhau đó quy định những điểm khác biệt về chức năng, nhiệm
vụ, phương thức và phương pháp hoạt động giữa Đảng và Nhà nước, giữa
Đảng với các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội khác. Nếu không phân biệt
rõ ràng, thấu đáo những khác biệt đó và đặc biệt là không kiên quyết, mạnh
dạn chuyển biến từ đổi mới nhận thức sang đổi mới tổ chức và hoạt động của
Đảng và cả Nhà nước thì không tránh khỏi tình trạng đã xảy ra là "Nhà nước
hóa Đảng" và "hình thức hóa Nhà nước" làm cho Đảng trở nên hành chính
hóa, quan liêu hóa kiểu nhà nước và Nhà nước thì không có thực quyền, vừa
thụ động vừa trì trệ, xơ cứng trong quản lý.
Hai là, phân định rõ mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
mục tiêu hoạt động của Nhà nước.
Mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là phát huy vai trò của Nhà
nước trong việc thể chế hóa, tổ chức thực hiện có hiệu quả những quan điểm chỉ
đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,
đối ngoại. Mục tiêu quản lý của Nhà nước là biến toàn bộ quan điểm chỉ đạo của
Đảng trên các phương diện tương ứng nói trên trở thành hiện thực.
Mục tiêu lãnh đạo của Đảng và mục tiêu quản lý của Nhà nước có nội
dung tương tự như nhau, nhưng nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và nội dung quản lý của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đó lại có
nhiều điểm khác nhau. Điều đó được bộc lộ ở sự khác biệt giữa nhiệm vụ của

Đảng với nhiệm vụ của Nhà nước. Với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng đề ra
các chủ trương, đường lối, quan điểm có tính chiến lược và lãnh đạo việc tuyên
truyền, cổ động quần chúng thực hiện; mặt khác, Đảng lãnh đạo các cơ quan
nhà nước thể chế hóa, tổ chức thực hiện các đường lối, chủ trương, quan điểm,
chính sách đó. Đảng không trực tiếp giải quyết các công việc của Nhà nước.


9
Ba là, hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng khác với hệ thống tổ chức bộ
máy của Nhà nước.
Hiện nay, cả hai hệ thống này đều đang đứng trước yêu cầu bức xúc
phải đổi mới theo yêu cầu dân chủ - pháp quyền, trong sạch, vững mạnh,
chống quan liêu tham nhũng có hiệu quả. Đảng đổi mới cơ chế lãnh đạo của
mình đối với Nhà nước trên cơ sở tự chỉnh đốn Đảng, thực hiện dân chủ trong
Đảng, "phải kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng ở tất cả các cấp từ Trung
ương đến cơ sở" theo hướng tinh gọn và tinh nhuệ, thể hiện thật rõ tính đặc
thù của lãnh đạo chính trị. Sử dụng các chuyên gia giỏi vào công việc được
chuyên môn hóa là một trong những cách tốt nhất để khắc phục tình trạng
"thừa" bộ máy mà "thiếu" hoạt động, như tình hình đã xảy ra.
Đòi hỏi bức xúc hiện nay đối với Nhà nước trên con đường tiến tới Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tạo lập một hệ thống pháp luật đồng bộ,
cải cách bộ máy hành chính nhà nước bảo đảm trong sạch, vững mạnh, hiệu
lực và hiệu quả với đội ngũ công chức được đào tạo cơ bản, tinh thông
chuyên môn nghiệp vụ, tận tụy mẫn cán, am hiểu pháp luật và tôn trọng pháp
luật, có chế độ công vụ, kỷ luật và đạo đức công chức được đề cao.
Bốn là, phương pháp lãnh đạo của Đảng khác với phương pháp quản lý
của Nhà nước; đào tạo, huấn luyện và bố trí, sử dụng cán bộ đảng khác với
đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ, công chức nhà nước.
Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng cần
đổi mới tổ chức bộ máy đảng và nhà nước cùng đội ngũ cán bộ, công chức,

nâng cao mặt bằng dân trí, nhất là tri thức pháp luật; nâng cao vai trò của các
cơ quan có chức năng thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, tổ chức
thực hiện pháp luật; nâng cao chất lượng của các ban đảng có chức năng tư
vấn trong việc chỉ đạo của Đảng đối với các cơ quan nhà nước tương ứng.
Năm là, đề cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ đảng viên.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là đội ngũ tiên phong trong
sự nghiệp mới, mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là hạt nhân lãnh đạo, là tấm


10
gương có sức lôi cuốn, tập hợp nhân dân trong tiến trình thực hiện các mục tiêu
của đổi mới kinh tế, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, trong cải cách tư pháp, trong thực hiện huy động sức mạnh của
khối đoàn kết toàn dân. Phát huy truyền thống người đảng viên cộng sản đã đi
đầu, hy sinh trong sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc trước đây, cũng
vẫn và mãi mãi là người đi đầu trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp đổi mới, xây
dựng phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2.1.2. Thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và việc xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, những quan hệ cơ
bản, nhất là quan hệ lãnh đạo và quản lý, phải được thể chế hóa - cả về quyền
hạn lẫn trách nhiệm. Đảng vừa là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị,
vừa là người lãnh đạo hệ thống đó. Đảng là người lãnh đạo xây dựng Hiến
pháp và pháp luật, nhưng Đảng cũng là một tổ chức chính trị, một bộ phận
hữu cơ của xã hội; do đó, trong tổ chức và hoạt động của mình, Đảng phải
tuân thủ đúng pháp luật, đảng viên và các tổ chức đảng không được đứng
trên, đứng ngoài pháp luật. Hơn nữa, sự hoạt động của các tổ chức đảng và
đảng viên không phải chỉ chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước mà còn
chịu sự kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân và các tổ chức xã hội.
Mặt khác, trên phương diện pháp lý, có thể nói, trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền, mọi nghị quyết của Đảng chỉ có giá trị bắt buộc đối với
đảng viên và tổ chức đảng tương ứng. Muốn những nghị quyết đó được thực
hiện bằng sức mạnh của toàn dân, của toàn bộ quần chúng trong phạm vi lãnh
đạo của cơ quan đảng tương ứng, chúng phải được thể chế hóa thành pháp luật,
hay quy chế, quy định, chính sách... của cơ quan nhà nước. Nói cách khác,
trong quản lý xã hội, pháp luật cần được xem là tối thượng, việc quản lý Nhà
nước đơn thuần bằng nghị quyết cần được khắc phục triệt để.
Nhu cầu thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
nói chung và hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng xuất phát từ đòi hỏi


11
khách quan của nền kinh tế thị trường, xã hội công dân ngày càng phát triển,
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ngày càng trở nên chuyên nghiệp,
hiện đại, nhu cầu dân chủ hóa đời sống xã hội ngày càng cao... Thể chế hóa
vai trò và phương thức lãnh đạo của Đảng còn có ý nghĩa đề cao trách nhiệm
của Đảng bằng pháp luật trước nhân dân.
Thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cần
được cụ thể hóa cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, cơ chế vận hành của
từng loại cơ quan trong bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp, thích hợp với
từng lĩnh vực và từng cấp hành chính. ở đây, trước hết từ các nguyên tắc hiến
pháp, hiến định, cần xác định rõ vai trò và phương thức lãnh đạo của Bộ
Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đối với Quốc hội trong công tác tổ
chức bộ máy nhà nước và việc thực hiện các chức năng lập hiến, lập pháp;
giám sát tối cao; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; đồng thời,
cần tính đến khả năng ban hành đạo luật quy định chi tiết về vai trò và
phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đối với chính quyền các cấp.
2.2. Giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Một là, nâng cao nhận thức thống nhất về Đảng lãnh đạo Nhà nước,

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước. Cần làm cho cả hệ thống chính trị và mỗi
cán bộ, đảng viên nhận thức rõ các nội dung trên để có hành động thống nhất
trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Hai là, đổi mới cách ra nghị quyết, nâng cao chất lượng các quyết định,
nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết.
Ba là, đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng, sắp xếp, kiện toàn các cơ
quan Nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ nhà nước có phẩm chất, năng lực và
phong cách công tác khoa học.


12
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức của Đảng; sắp xếp,
kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng một cách hợp lý, khoa học; tiếp tục
nghiên cứu hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, cán bộ chủ
chốt các cơ quan tham mưu. Xây dựng và hoàn thiện quy chế làm việc của
Đảng, các cấp ủy đảng, các tổ chức đảng.
Xác định rõ chức năgn, nhiệm vụ của từng cơ quan nhà nước, trên cơ
sở đó, sắp xếp kiện toàn các cơ quan nhà nước; khắc phục tình trạng song
trùng giữa cơ quan Đảng với các cơ quan Nhà nước.
Xác định rõ tiêu chuẩn của từng chức danh cán bộ và chức trách, nhiệm
vụ, quyền hạn của từng loại cán bộ, thực hiện nghiêm chỉnh các khâu của
công tác cán bộ. Đấu tranh ngăn chặn các bệnh dễ mắc phải của cán bộ Nhà
nước; đồng thời quan tâm thực hiện tốt đề án cải cách chế độ tiền lương, bảo
đảm cho cán bộ, công chức Nhà nước yên tâm công tác.
Bốn là, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Trong quan hệ quyền lực chính trị giữa Đảng với Quốc hội, Chính phủ,
vấn đề lớn hiện nay là nghiên cứu, xây dựng quy chế làm việc, quy chế phối
hợp giữa Đảng với Quốc hội, Chính phủ để giải quyết tốt mối quan hệ giữa

lãnh đạo (định hướng về nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo; bảo đảm sự lãnh đạo
toàn diện, trực tiếp, tuyệt đối) và chỉ đạo, thực hiện (quyền quyết định, quản
lý, điều hành) về những vấn đề trọng đại nhất của đất nước như kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, nhân sự cấp cao... Cụ thể:
Đối với Quốc hội: Để Quốc hội trở thành một cơ quan có thực quyền,
cần bố trí lại cơ cấu nhân sự của Quốc hội. Trong các quyết định phê chuẩn
nhân sự cấp cao, Bộ Chính trị và Ban Bí thư nên đưa ra nhiều phương án nhân
sự khác nhau để Quốc hội rộng đường lựa chọn. Trong hoạt động lập pháp
của Quốc hội, có thể thành lập một Hội đồng tư vấn lập pháp (hay chính
sách). Hội đồng có chức năng tư vấn cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các vấn
đề liên quan đến hoạt động lập pháp, chính sách của Quốc hội. Thể chế hoá sự


13
lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng các đạo luật nhằm bảo đảm cho các
hoạt động lãnh đạo của Đảng trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Quốc
hội cần được tổ chức lại theo hướng chuyên nghiệp bằng việc tăng số đại biểu
chuyên trách, chỉ một bộ phận nhỏ là kiêm nhiệm. Các ủy ban của Quốc hội
tổ chức theo hướng chuyên sâu, đảm nhiệm tốt việc chuẩn bị, thảo luận và
thông qua các đạo luật trong phạm vi lĩnh vực phụ trách, các phiên họp toàn
thể chủ yếu là cân nhắc về mặt chính trị và biểu quyết thông qua.
Đối với Chính phủ: Nhất thể hoá một số chức danh, một số cơ quan
tham mưu, giúp việc của Đảng và Chính phủ để tạo điều kiện cho bộ máy
hoạt động một cách thống nhất, thông suốt, hiệu quả. Trong khi nghiên cứu
việc nhất thể hoá một số chức danh lãnh đạo cấp cao, một số tổ chức, cơ quan
tham mưu, giúp việc, cần làm tốt việc tổng kết chủ trương nhất thể hoá một số
chức danh lãnh đạo ở cấp huyện, xã và tương đương, đồng thời đổi mới, hoàn
thiện thể chế, cơ chế kiểm soát quyền lực phù hợp theo Hiến pháp 2013. Cần
nghiên cứu, tổ chức lại mô hình Ban Cán sự đảng phù hợp với đổi mới về tổ
chức bộ máy và công tác cán bộ của Chính phủ.

Đối với các cơ quan tư pháp: Trong điều kiện một đảng cầm quyền,
Đảng lãnh đạo toàn diện đối với các nhánh quyền lực Nhà nước, trong đó có
tư pháp. Vì vậy, cần thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư
pháp thành các điều luật, quy phạm pháp luật để tránh sự lãnh đạo, chỉ đạo
mang tính chủ quan, tùy tiện của cấp uỷ đảng các cấp. Cần quy định rõ ràng
và cụ thể: Việc gì cần xin ý kiến cấp uỷ, việc gì cấp uỷ không cần can thiệp?
Trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý của cấp uỷ đến đâu khi tham gia
vào quá trình xét xử?... Khắc phục sự can thiệp, cho ý kiến trực tiếp hay gián
tiếp của cấp uỷ vào hoạt động của cơ quan tư pháp. Nhà nước pháp quyền
XHCN khẳng định vị thế vô cùng quan trọng của cơ quan tư pháp. Vì vậy, cần
cơ cấu Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân trong
cơ cấu ban chấp hành đảng bộ các cấp; coi trọng xây dựng và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ ngành tư pháp.


14
Năm là, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo
của Đảng; thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần
chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người
đứng đầu các cơ quan nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính Đảng và hành
chính Nhà nước.
Sáu là, đổi mới về phong cách và lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên;
các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nghiêm chỉnh: đảng viên hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Phong cách, lề lối làm việc có ảnh hưởng rất lớn và thường xuyên tới
chất lượng công việc. Không phải ngẫu nhiên, từ năm 1946, 1947 Hồ Chí
Minh đã viết về “Đời sống mới” và “Sửa đổi lối làm việc”. Đổi mới về phong
cách và lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng cho họ có
phương pháp làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, sát quần chúng, tôn trọng
sự thật, nói đi đôi với làm, gắn chặt với thực tiễn, hoàn thành tốt chức năng,

nhiệm vụ được giao. Khắc phục triệt để tình trạng mất dân chủ, quan liêu, gia
trưởng, độc đoán, chuyên quyền... Đây là vấn đề tưởng như đơn giản nhưng
lại hết sức phức tạp, khó khăn và lâu dài. Bởi nó gắn với văn hóa, với tâm lý
và phong tục tập quán, được nuôi dưỡng bởi một cơ sở kinh tế - xã hội khi
chưa phát triển đầy đủ.
Mặt khác, các tổ chức đảng và đảng viên phải thực hiện nghiêm chỉnh
quy định của Hiến pháp: tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật; thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Đảng đã được quy định trong Điều lệ Đảng: Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Bảy là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
nhất là ở cấp chiến lược.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, trước hết
cần có đội ngũ cán bộ có trình độ cao, phong cách tốt. Vì vậy, phải tiếp tục


15
đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục có hiệu quả những bất cập, hạn chế, yếu
kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Tiếp tục nâng cao chất lượng công
tác đánh giá, quản lý cán bộ. Cụ thể hoá vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của
người đứng đầu trong công tác cán bộ. Hoàn thiện chế độ bầu cử, mở rộng
quyền đề cử, tự ứng cử và giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn.
Hoàn thiện cơ chế tuyển chọn cán bộ, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm; cơ
chế đảng viên và nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Kết
hợp giữa quy hoạch cán bộ với thi tuyển cán bộ vào các chức danh lãnh đạo
cấp phòng, cấp vụ ở các tỉnh, thành phố, các bộ, ngành ở Trung ương... Đặc
biệt, chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược
của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và mặt trận là yếu tố quyết định tới đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Tám là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã

hội các cấp trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội các cấp tham gia vào các hoạt động của Đảng về xây dựng và thực hiện
các chủ trương, nghị quyết.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
các cấp tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, nhất là tham gia quản lý
Nhà nước.
Tăng cường hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đối với hoạt động của Đảng, các
cơ quan cán bộ, công chức Nhà nước.


16
KẾT LUẬN
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là hệ thống các
phương pháp, các hình thức, các biện pháp mà Đảng tác động vào Nhà nước
để hiện thực hóa ý chí và mục tiêu của Đảng. Về nguyên tắc, mục tiêu cao
nhất của Đảng lãnh đạo Nhà nước là tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân bằng Nhà nước, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước trong quá trình xây dựng xã hội mới,
nhằm làm cho mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nói chung, của từng
thời kỳ nói riêng được thực hiện có hiệu quả cao.
Từ khi cầm quyền, đặc biệt là trong quá trình thực hiện công cuộc đổi
mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng chăm lo, xây dựng, củng cố và
hoàn thiện bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, và
thực tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Thành tựu đó thể hiện sự
phát triển, trưởng thành của Nhà nước ta trong hoạt động quản lý và tổ chức
thực tiễn, đồng thời cũng đánh dấu sự phát triển của tiến trình đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Kinh nghiệm chỉ rõ rằng, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt

động của bộ máy nhà nước và toàn xã hội là một trong những phương diện
quan trọng của mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước nói chung. Vấn đề đổi
phương thức lãnh Đạo của đảng đối với Nhà nước ở Việt Nam liên quan đến
nhiều phương diện cơ bản của thể chế chính trị và đang được đặt ra cấp bách.
Bởi vì ở nước ta chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền, “xây dựng Đảng cầm
quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
là vấn đề mới và khó, phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để
đổi mới, hoàn thiện”. Do đó, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước càng cần được quan tâm nghiên cứu hơn.


17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tài
liệu môn học Lý luận chung về Đảng và xây dựng Đảng trong điều kiện mới.
2. Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tài
liệu môn học Đảng lãnh đạo Nhà nước và các lĩnh vực đời sống xã hội.
3. PGS. TS Nguyễn Minh Tuấn - PGS. TS Trần Khắc Việt, 350 thuật
ngữ xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018.
4. TS. Thang Văn Phúc, Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối
với nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
/>7/1782/Doi-moi-phuong-thuc-lanh-dao-cua-dang-doi-voi-nha.aspx
5. TS. Nguyễn Danh Châu, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước, />px?mid= 75&mzid=777&ID=1833



×