Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

Kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.34 KB, 113 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi, các số liệu
kết quả trong luận văn là trung thực, hợp lý và có nguồn gốc rõ ràng. Nếu có sai sót
tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 12 tháng 6 năm 2017
Tác giả

Phạm Thị Lý Nga

1


2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và bản luận văn này, bên cạnh những nỗ
lực của bản thân tác giả đã nhận được sự quan tâm, động viên, giúp đỡ tận tình của
thày cô, gia đình và bạn bè trong suốt quá trình học tập, công tác.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
- Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Hồng Mai
- Các thầy cô giáo khoa Sau đại học và khoa Kế toán Kiểm toán Trường Đại
học Thương mại Hà Nội.
- Lãnh đạo và toàn thể cán bộ kế toán đang công tác tại Công ty Than Núi
Hồng mà tác giả đã tiến hành khảo sát và các nhà khoa học, đồng nghiệp, bạn bè đã
giúp đỡ và cung cấp tài liệu cho tác giả trong quá trình học tập, công tác và thực
hiện luận văn thạc sĩ.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng để hoàn thành Luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của bản thân, tuy nhiên Luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót, tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành để bản Luận văn không


chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa cao trong hoạt động thực tiễn.
Trân trọng cảm ơn!

2


3

MỤC LỤC

3


4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BHXH
BHYT
BTC
CCDC
CMKT
CP
CPPS
CPSX
SXC
DD ĐK
DDCK
DN
GTGT

GTSP

KPCĐ
KTTC
NCTT
NVLTT

SXKD
SPDDCK
TK
TSCĐ
TT
VLXD

Đầy đủ tiếng việt
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Bộ tài chính
Công cụ dụng cụ
Chuẩn mực kế toán
Chi phí
Ci phí phát sinh
Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất chung
Dở dang đầu kỳ
Dở dang cuối kỳ
Doanh nghiệp
Giá trị gia tăng
Giá thành sản phẩm
Hợp đồng

Kinh phí công đoàn
Kế toán tài chính
Nhân công trực tiếp
Nguyên vật liệu trực tiếp
Quyết định
Sản xuất kinh doanh
Sản phẩm dở dang cuối kỳ
Tài khoản
Tài sản cố định
Thông tư
Vật liệu xây dựng

DANH MỤC SƠ ĐỒ
STT
1
2

Tên sơ đồ
Sơ đồ 1.1 : Sơ đồ kết chuyển chi phí tính giá thành (không tính
giá thành bán thành phẩm)
Sơ đồ 1.2 : Sơ đồ kết chuyển chi phí tính giá thành (có tính giá
thành bán thành phẩm)

Trang
39
40

4



5

3
4
5
6

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ dây chuyền công nghệ sản xuất bằng cơ giới
Sơ đồ 2.2: Sơ đồ dây chuyền công nghệ sản xuất Đá vôi bằng
cơ giới
Sơ đồ 2.3: Quy trình tập hợp chi phí và tính giá thành sản
phẩm Than
Sơ đồ 2.4: Quy trình tập hợp chi phí và tính giá thành sản
phẩm Đá vôi

50
51
80
81

5


6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong giai đoạn hiện nay, với việc tham gia 12 hiệp định thương mại tự do
song phương và đa phương, cùng với đó là một số hiệp định khác đang đàm phán,
môi trường đầu tư của Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá rất cao.

Việc hội nhập sâu rộng là lợi thế nhưng đi kèm với đó là những khó khăn với
cả nền kinh tế cũng như với các doanh nghiệp – đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà
nước . Do vậy các quyết định trong sản xuất cần được cân nhắc và thông tin về chi
phí - giá thành trở nên cần thiết.
Quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm chí phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm
là những biện pháp cơ bản giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh từ đó
gia tăng lợi nhuận. Đây là điều kiện cần và đủ để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Một trong những công cụ đắc lực giúp doanh nghiệp kiểm soát chi phí đó là hệ
thống kế toán chi phí sản xuất.
Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm giữ một vai trò rất quan trọng
trong công tác kế toán ở doanh nghiệp. Vì hạch toán chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời sẽ tạo cơ sở cho các nhà quản lý ra
quyết định kinh doanh đúng đắn. Thông qua chỉ tiêu về chi phí và giá thành sản
phẩm các nhà quản lý sẽ biết được nguyên nhân gây biến động chi phí và giá thành
là do đâu và từ đó tìm ra biện pháp khắc phục và ra quyết định kinh doanh như thế
nào để đạt được lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp, đồng thời góp phần tăng
cường quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Do vậy kế toán chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm luôn là vấn đề cơ bản được các nhà quản lý rất quan
tâm.
Trong những năm gần đây, tình hình sản xuất kinh doanh của ngành than nói
chung và Công ty than Núi Hồng nói riêng không được tốt. Mặc dù đã nỗ lực duy
trì ổn định sản xuất, đảm bảo việc làm và thu nhập cho công nhân lao động, nhưng

6


7
với sự giảm sút về giá bán và thị trường tiêu thụ làm cho kết quả sản xuất kinh
doanh giảm.
Trước những diễn biến bất lợi này, có thể thấy việc tiết giảm chi phí, sắp xếp

lại tổ chức sản xuất, điều hành sản xuất than theo nhu cầu thị trường là vô cùng cần
thiết.
Kết quả khảo sát thực tế công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành tại
Công ty than Núi Hồng, tác giả nhận thấy phát sinh những vấn đề sau:
Thứ nhất, kế toán dùng tài khoản 152 để phản ánh vật liệu phụ và các vật
liệu khác của đơn vị. Trong khi chi phí về công cụ dụng cụ lại rất ít, khi nhận kho
kế toán có thể nhầm lẫn tính chi phí công cụ dụng cụ vào chi phí sản xuất là vật
liệu.
Thứ hai, việc lập danh điểm theo dõi nguyên vật liệu của công ty được tổ
chức theo phương pháp sổ số dư nhưng thực tế lại theo phương pháp ghi thẻ song
song kết hợp với sổ đối chiếu luân chuyển nên việc ghi trùng lặp giữa thủ kho và kế
toán vẫn xảy ra.
Thứ ba, toàn bộ TSCĐ được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty đều thực hiện việc trích khấu hao theo phương pháp đường thẳng. Việc
trích khấu hao như vậy là chưa phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh trong
ngành khai thác mỏ.
Thứ tư, công ty than Núi Hồng vận dụng hình thức kế toán tập trung nhưng
địa bàn sản xuất kinh doanh rộng cho nên việc kiểm tra giám sát của phòng kế toán
đôi khi còn chậm. Dẫn đến việc cung cấp thông tin cho lãnh dạo chưa kịp thời ảnh
hưởng đến công tác chỉ đạo sản xuất trong đơn vị.
Từ những tồn tại về kế toán trên tại Công ty than Núi Hồng – VVMI. Nhận
thấy tầm quan trọng của kế toán chi phí sản xuất và giá thành đối với việc sản xuất
kinh doanh than, em đã quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu “ Kế toán chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm tại công ty Than Núi Hồng ”.

7


8


2. Tổng quan nghiên cứu của đề tài

Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm luôn là một trong
những đề tài được nhiều tác giả lựa chọn nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu đã
phản ánh cả về mặt lý luận và thực tiễn kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại các doanh nghiệp ở Việt Nam. Mỗi đề tài nghiên cứu được thực hiện ở
những thời điểm khác nhau, không gian, đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác
nhau. Vì mỗi ngành sẽ có những đặc thù riêng. Do đó, các kiến nghị, giải pháp cũng
khác nhau và được áp dụng tùy thuộc vào hoàn cảnh, thời gian, không gian cụ thể.


Nghiên cứu về kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong ngành than.
- Luận văn: “ Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản
phẩm than nguyên khai tại công ty cổ phần than Hà Tu” (2008), của Lê Văn Tâm.
Luận văn này nghiên cứu khái quát lý thuyết về kế toán chi phí, tính giá thành trong
các DNSX nói chung và đi sâu vào doanh nghiệp khai thác than nói riêng. Từ thực
trạng công tác kế toán chi phí và giá thành than nguyên khai tại công ty kết hợp với
cơ sở lý luận, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm than nguyên khai tại Công ty than Hà Tu về các
mặt: phân bổ lương và các khoản trích theo lương, kế toán công cụ dụng cụ, kế toán
thiệt hại trong sản xuất và hình thức kế toán cũng như việc áp dụng phần mềm phù
hợp với đặc thù doanh nghiệp.



Nghiên cứu về kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong các ngành
khác.
- Luận văn “ Hoàn thiện công tác chi phí sản xuất và tính giá thành xi măng
tại các công ty xi măng tại các Công ty thuộc Tổng công ty Xi Măng Việt Nam”
(2009), của Phạm Hoài Nam, Trường Đại học Thương Mại. Về lý luận, tác giả đã

trình bày và phân tich các quan điểm về chi phí và giá thành, phân tích đối tượng
tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất.

8


9
Về mặt thực tiễn , luận văn đã khái quát được thực trạng chi phí sản xuất và tính giá
thành tại một số công ty khai thác mỏ, phát hiện ra những hạn chế về tổ chức công
tác kế toán chi phí giá thành như:hạn chế hệ thống chứng từ, về tổ chức tài khoản,
tổ chức nội dung các khoản mục chi phí, tổ chức hệ thống sổ kê toán… Đồng thời
đưa ra các giải pháp, triển vọng của đề tài trên.
- Luận văn: “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
tại Công ty cổ phần xây lắp Sơn Giang” (2013), của Nguyễn Thị Lan, chuyên ngành
kế toán, Đại học Kinh tế quốc dân. Luận văn đi nghiên cứu, làm rõ các nội dung lý
thuyết cơ bản trong công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đối với
đơn vị xây lắp. Vận dụng lý thuyết để phân tích thực trạng công tác kế toán sản xuất
và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần xây lắp Sơn Giang. Từ đó, rút ra các ưu
điểm, các tồn tại để đưa ra những đề xuất chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác kế toán
sản xuất và giá thành sản phẩm tại công ty trong mối liên kết với từng tổ đội xây lắp
về các mặt như công tác tập hợp chứng từ, kế toán nguyên vật liệu trực tiếp, nhân
công trực tiếp, phương pháp tính giá thành, trích trước chi phí sửa chữa lớn và kế
toán thiệt hại trong sản xuất.
- Luận văn: “Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại tổng công ty cổ
phần may 10” (2014), của Lê Thị Thu Hằng, Đại học Kinh tế quốc dân. Đề tài tập
trung nghiên cứu, khái quát hóa để xây dựng một mô hình lý thuyết về kế toán chi
phí, tính giá thành trong các DNSX nói chung và đi sâu vào loại hình may gia công
xuất khẩu, nhằm hệ thống một cách khoa học nhất về mô hình này giúp người làm
kế toán có được cái nhìn lý luận một cách có hệ thống và tổng thể, toàn diện
hơn. Bên cạnh đó luận văn tiến hành khảo sát thực tế tại Tổng Công ty CP May 10

về kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm may mặc gia công xuất khẩu. Thông qua
đó phát hiện những mặt hạn chế còn tồn tại và đề xuất các giải pháp hoàn thiện kế
toán chi phí, tính giá thành sản phẩm may mặc gia công xuất khẩu.
- Luận văn: “ Kế toán chi phí và giá thành sản xuất bê tông tươi tại Công ty
CP Đầu tư và Thương mại Dầu khí Sông Đà” (2014), của Triệu Thị Thu Phương,
Đại học Thương Mại. Luận văn đã trình bày lý luận chung về kế toán chi phí sản
9


10
xuất và giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất. Vận dụng lý thuyết để
phân tích thực trạng kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm bê tông tươi tại
Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại Dầu khí Sông Đà. Từ đó đưa ra các giải
pháp về các khoản mục chi phí nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm bê tông tươi tại Công ty cổ phần Đầu Tư và Thương mại Dầu khí
Sông Đà.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về kế toán chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm tại một số ngành, công ty khác nhau nhưng hiện tại ở Công ty Than
Núi Hồng mới chỉ có 1 công trình nghiên cứu về cơ cấu vốn mà chưa có công trình
nào nghiên cứu về tình hình kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại công
ty. Vì vậy qua đề tài nghiên cứu này tác giả sẽ hệ thống cơ sở lý luận về kế toán chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất, phân tích thực
trạng kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty Than Núi Hồng, từ
đó đưa ra những phương hướng và giải pháp để hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm tại Công ty.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
• Mục tiêu nghiên cứu chung
Nghiên cứu nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
tại công ty than Núi Hồng.


-

Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
Về lý luận
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của kế toán chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.

-

Về thực tế
Nghiên cứu thực trạng kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại
công ty Than Núi Hồng nhằm rút ra những ưu điểm cũng như những mặt còn hạn
chế tồn tại trong kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại công ty.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm, từ đó giúp công ty tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm.

10


11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
• Đối tượng nghiên cứu:

Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
• Phạm vi nghiên cứu
+ Nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu kế toán tài chính (gồm kế toán tổng hợp và kế
toán chi tiết) chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm than và đá vôi. Trong đó tập
trung nhiều hơn vào kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm than tại công ty
Than Núi Hồng.

+ Không gian: Bài nghiên cứu sử dụng số liệu từ phòng KT-TKTC của công
ty và kết quả khảo sát thực tế tại các phân xưởng, bộ phận sản xuất.
+ Thời gian: Thời gian nghiên cứu năm 2015 và 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp thu thập dữ liệu
+ Quan sát :

- Quan sát thực hiện kế toán : Về cách thức thu thập dữ liệu, các khoản mục chi phí
tương ứng, quan sát quy trình nhập dữ liệu vào máy và quá trình xử lý kế toán.
Cách thức thu thập dữ liệu của phương pháp này :

- Quan sát tại phòng kế toán : kết xuất các dữ liệu từ hệ thống phần mềm như các
chứng từ, các sổ chi tiết, các sổ tổng hợp,... thu thập dữ liệu bằng giấy với các
chứng từ kèm theo như phiếu đề nghị vật tư, báo cáo vật tư cuối tháng, bảng phân
bổ tiền lương...
+ Phỏng vấn :
Phỏng vấn các đối tượng bằng các câu hỏi liên quan như sau :

- Phỏng vấn kế toán trưởng : về chu trình hạch toán chi phí giá thành trong DN,
phương pháp tính giá thành cụ thể.

- Phỏng vấn kế toán NVL,CCDC : Cách phân loại nguyên vật liệu, CCDC trình tự
luân chuyển chứng từ nhập và xuất NVL, trình tự ghi sổ.

- Phỏng vấn kế toán tổng hợp : Cách tập hợp các khoản mục chi phí, nhập dữ liệu vào
máy và quá trình xử lý kế toán.

11



12

- Cách thức thu thập dữ liệu của phương pháp này : Ghi lại các thông tin trên vào
giấy, đối với thông tin chi tiết như lao động, tài sản, các loại nguyên vật liệu cụ
thể ...sẽ thực hiện thu thập dữ liệu bằng file word, exel mà DN cung cấp.
+ Nghiên cứu tài liệu : Các tạp chí chuyên ngành kế toán, các thông tư,
chính sách, quyết định, chuẩn mực kế toán , sách kế toán tài chính và các tài liệu
của công ty.


Phương pháp xử lý dữ liệu :
Tổng hợp, phân tích và so sánh qua đó để xuất các giải pháp hoàn thiện kế
toán tài chính tại Công ty.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Phụ lục gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp sản xuất.
- Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại
Công ty Than Núi Hồng.
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm tại Công ty Than Núi Hồng.

12


13
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

1.1 Khái quát về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1.1.1 Chi phí sản xuất
1.1.1.1 Khái niệm và bản chất chi phí sản xuất.
Quá trình sản xuất sản phẩm là quá trình phát sinh thường xuyên liên tục
của các khoản chi phí sản xuất nhằm mục đích tạo ra một hoặc nhiều loại sản phẩm
khác nhau.Vì vây, cần phải nắm được bản chất chi phí sản xuất để xác định đúng
các chi phí sản xuất trong doanh nghiệp bởi lẽ không phải tất cả các chi phí trong
doanh nghiệp bỏ ra đều là chi phí sản xuất.


Hiện nay có nhiều khái niệm về chi phí sản xuất như.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Việt Nam, 2011 chi phí sản xuất được
hiểu là “Chi phí sản xuất là số tiền mà một nhà sản xuất hay doanh nghiệp phải chi
để mua các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất hàng hóa nhằm mục đích
thu lợi nhuận”’
Theo VAS 01 - Chuẩn mực chung: “Chi phí là tổng giá trị các khoản làm
giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản
khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu,
không bao gồm các khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu”.
Dưới góc độ kế toán tài chính, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra để tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh trong một thời kì nhất định (tháng, quý, năm).
Nhìn chung các quan điểm về chi phí sản xuất tương đối giống nhau. Vậy có
thể khái quát như sau: Chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động sống, lao
động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp chi ra để tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định biểu hiện dưới hình thái
tiền tệ.

13



14


Đặc điểm của chi phí sản xuất:

-

Chi phí sản xuất mang tính vận động liên tục không ngừng và mang tính chất khách
quan.

-

Chi phí sản xuất mang tính da dạng và phong phú, tiết kiệm chi phí là một quy luật
khách quan đối với doanh nghiệp.

-

Chi phí sản xuất đuợc hình thành do có sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản
xuất vào sản phẩm sản xuất và được biểu hiện trên hai mặt:
Về mặt định tính: Đó là bản thân các yếu tố vật chất phát sinh và tiêu hao tạo
nên quá trình sản xuất, đạt được mục đích tạo ra sản phẩm, dịch vụ.
Về mặt định lượng: Đó là mức tiêu hao cụ thể của các yếu tố vật chất tham
gia vào quá trình sản xuất và được biểu hiện qua thước đo phù hợp mà thước đo
tổng quát là tiền tệ.
Cả hai mặt định tính và định lượng của chi phí sản xuất chịu sự chi phối
thường xuyên của quá trình sản xuất và đặc điểm sản xuất sản phẩm.




Bản chất của chi phí sản xuất thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Về nội dung: Chi phí sản xuất bao gồm:
Hao phí lao động vật hoá như giá trị của tư liệu sản xuất và giá trị của đối
tượng lao động đã tiêu hao như khấu hao tài sản cố định, chi phí nguyên vật liệu,
công cụ dụng cụ…
Hao phí lao động sống như chi phí về tiền lương (tiền công) phải trả cho
người lao động tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm.
Một phần giá trị mới sáng tạo ra như các khoản trích theo lương, các khoản
thuế có tính chi phí như: Thuế tài nguyên, thuế nhà đất, thuế môn bài…
- Các chi phí của doanh nghiệp phải được đo lường và tính toán bằng tiền
trong một khoảng thời gian xác định (năm: kỳ kế toán chính thức; tháng, quý: kỳ kế
toán tạm thời).
- Chi phí luôn có tính cá biệt, nó phải bao gồm tất cả các khoản chi phí mà
doanh nghiệp phải chi ra để tồn tại và để hoạt động kinh doanh, bất kể đó là chi phí
cần thiết hay không cần thiết, khách quan hay chủ quan (chi phí của doanh nghiệp

14


15
phải bao gồm cả các khoản thiệt hại về tài sản, các khoản tiền phải nộp, phải bồi
thường…). Lý do là các doanh nghiệp khác nhau về chức năng, nhiệm vụ, quy mô,
trình độ tổ chức quản lý… nên chi phí chi ra không giống nhau.
- Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản:
Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong một thời gian nhất
định.
Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu hao và tiền lương (tiền công) của một đơn
vị lao động đã hao phí.
Chi phí và chi tiêu của doanh nghiệp có nhiều điểm giống nhau, nhưng

không phải là một. Chi phí khác chi tiêu ở 1 thời điểm về nôi dung và số lượng. Có
trường hợp là chi phí nhưng lại không phải là chi tiêu ngược lại có trường hợp là chi
tiêu nhưng lại không phải là chi phí.
Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao
động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh
nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Như vậy chỉ được tính là chi phí của kỳ
hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản
phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán.
Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật liệu, tài sản, tiền vốn của
doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì.
Mặc dù là hai khái niệm khác nhau nhưng chi phí và chi tiêu có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát của sinh chi phí, không có chi tiêu thì
không có chi phí. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về mặt lượng mà còn
khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào
chi phí và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu. Sở
dĩ có sự khác biệt như vậy là do đặc điểm tính chất vận động và phương thức
chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật
hạch toán của chúng.
Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố giá cả thường xuyên biến động thì việc
hạch toán hợp lý, đầy đủ và kịp thời chi phí sản xuất chẳng những là điều kiện cần

15


16
thiết để quản trị giá thành mà còn nhằm xác định đúng chi phí phù hợp với giá cả
thực tại tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện bảo toàn vốn theo yêu cầu của chế
độ quản lý kinh tế hiện nay.
Như vậy, từ phân tích trên chúng ta có thể hiểu được bản chất chi phí và các
bộ phận cấu thành chi phí, các bộ phận cấu thành chi phí này sẽ được sắp xếp và

phân loại theo những tiêu thức khác nhau để có thể đáp ứng nhu cầu cung cấp thông
tin kế toán phục vụ việc ra các quyết định kinh tế.
1.1.1.2 Phân loại chi phí sản xuất
Phân loại chi phi là nội dung quan trọng đầu tiên cần phải thực hiện để phục
vụ cho việc tổ chức theo dõi tập hợp chi phí, tính giá thành sản phẩm. Chi phí sản
xuất kinh doanh được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ thuộc vào mục
đích và yêu cầu công tác quản lý.
* Phân loại theo yếu tố chi phí
Theo tiêu thức này toàn bộ chi phí sản xuất được chia làm 5 yếu tố sau:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu: Gồm toàn bộ giá trị các loại nguyên liệu,
nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ, động lực... mà doanh nghiệp sử
dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Chi phí nhân công: Là toàn bộ số tiền lương, phụ cấp lương phải trả cho
người lao động, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỉ lệ quy địng trên tổng số
lương và phụ cấp phải trả cho người lao động tính vào chi phí.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong
kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho SXKD.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp phải trả từ
các dịch vụ mua từ bên ngoài (tiền điện, nước, điện thoại...) phục vụ cho hoạt động
sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí khác bằng tiền: Là các chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp ngoài các yếu tố chi phí trên: Chi phí hội họp, hội
nghị, giao dịch...

16


17
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp biết được trong quá trình sản xuất
kinh doanh cần chi dùng những chi phí gì để từ đó phục vụ cho việc lập, kiểm tra và

phân tích dự toán chi phí.
* Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi phí
Căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí trong sản xuất có thể chia ra
các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản mục chỉ bao gồm những chi phí có
cùng mục đích và công dụng, không phân biệt nội dung kinh tế của chi phí. Theo
cách phân loại này chi phí sản xuất được chia thành các khoản mục chi phí sau
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm chi phí về nguyên vật liệu
chính, vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng trực tiếp vào sản xuất chế tạo sản phẩm,
không tính vào khoản mục này những chi phí nguyên vật liệu sử dụng vào mục đích
chung và những hoạt động ngoài sản xuất.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm chi phí về tiền lương, tiền ăn ca, số
tiền trích KPCĐ, BHXH, BHYT của công nhân trực tiếp sản xuất.
+ Chi phí sản xuất chung: là những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất
chung ở các phân xưởng, đội sản xuất ngoài hai khoản mục chi phí trực tiếp trên
bao gồm
- Chi phí nhân viên phân xưởng: phản ánh các khoản tiền lương, các khoản
phụ cấp phải trả cho nhân viên quản lý phân xưởng, bộ phận sản xuất; khoản trích
KPCĐ, BHXH, BHYT theo tỷ lệ quy định hiện hành trên tiền lương phải trả cho
nhân viên phân xưởng, bộ phận, tổ, đội sản xuất,...
- Chi phí vật liệu: phản ánh chi phí vật liệu dùng cho phân xưởng như vật
liệu dùng để sửa chữa bảo dưỡng TSCĐ, vật liệu văn phòng phân xưởng và những
vật liệu dùng cho nhu cầu quản lý ở phân xưởng, chi phí lán trại tạm thời,...
- Chi phí dụng cụ sản xuất: phản ánh chi phí về công cụ, dụng cụ xuất dùng
cho hoạt động quản lý của phân xưởng, bộ phận, tổ, đội sản xuất,...
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: phản ánh toàn bộ số tiền trích khấu hao
TSCĐ dùng trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm, thực hiện dịch vụ và TSCĐ
dùng chung cho hoạt động của phân xưởng, bộ phận, tổ, đội sản xuất,...

17



18
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh các khoản tiền dịch vụ mua ngoài
phục vụ cho hoạt động của phân xưởng, bộ phận sản xuất như chi phí sửa chữa, chi
phí thuê ngoài, chi phí điện, nước, điện thoại, tiền thuê TSCĐ, chi phí trả cho nhà
thầu phụ (đối với doanh nghiệp xây lắp),…
- Chi phí bằng tiền khác: phản ánh các chi phí bằng tiền ngoài các chi phí
đã kể trên phục vụ cho hoạt động của phân xưởng, bộ phận, tổ, đội sản xuất.
Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi phí có tác
dụng phục vụ cho việc quản lý chi phí sản xuất theo định mức, cung cấp số liệu cho
công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành
sản phẩm làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản xuất và lập kế hoạch
giá thành sản phẩm cho kỳ sau.
Ngoài hai cách phân loại này chi phí sản xuất trong doanh nghiệp còn được
phân loại theo một số tiều thức khác:
* Phân loại theo mối quan hệ với kỳ tính kết quả kinh doanh
Theo cách thức kết chuyển, toàn bộ chi phí SXKD chia thành:
- Chi phí sản phẩm (chi phí sản xuất): Là những chi phí gắn liền với các sản
phẩm được sản xuất hoặc được mua.
- Chi phí thời kỳ: Là những chi phí phát sinh làm giảm lợi tức trong một kỳ
nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua
nên được xem là các phí tổn cần được khấu trừ ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà
chúng phát sinh.
Cách phân loại này giúp cho nhà quản trị biết được đâu là khoản chi phí gắn
liền với quá trình sản xuất hàng hóa, đâu là khoản chi phí không gắn liền với quá
trình sản xuất nhưng lại làm giảm lợi tức trong kỳ phát sinh.
* Phân loại theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm
hoàn thành
- Biến phí: Là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng
công việc hoàn thành, chẳng hạn: chi phí nguyên liệu, chi phí nhân công trực tiếp...

Cần lưu ý rằng, biến phí nếu tính trên một đơn vị sản phẩm lại có tính cố định.

18


19
- Định phí: Là những chi phí thay không thay đổi về tổng số so với khối
lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê
mặt bằng, phương tiện kinh doanh... Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản
phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi.
- Chi phí hỗn hợp: Là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố của chi
phí cố định và chi phí biến đổi. Ở một mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp
thường biểu hiện là định phí, khi vượt khỏi mức độ căn bản, chi phí hỗn hợp bao
gồm cả biến phí.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp biết được cách ứng xử của từng loại
chi phí khi thay đổi mức độ hoạt động trong doanh nghiệp, xây dựng được mức chi
phí, xây dựng các dự toán chi phí, lợi nhuận.
* Phân loại chi phí theo khả năng quy nạp cho các đối tượng chịu chi
phí
Theo cách phân loại này, chi phí được chia thành chi phí trực tiếp và chi phí
gián tiếp.
Chi phí trực tiếp: là chi phí có quan hệ trực tiếp tới 1 đối tượng tập hợp chi
phí nhất định. Do đó, kế toán có thể căn cứ số liệu từ chứng từ kế toán để ghi trực
tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí.
Chi phí gián tiếp: liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí khác nhau. Khi
phát sinh, kế toán phải tập hợp lại, cuối kỳ phân bổ cho các đối tượng liên quan theo
tiêu chí nhất định.
Phương pháp phân loại này giúp kế toán tập hợp chi phí một cách rõ ràng
chính xác cho từng đối tượng chịu chi phí. Chi phí trực tiếp sẽ được tập hợp theo
phương pháp tập hợp trực tiếp, chi phí gián tiếp sẽ được phân bổ cho các đối tượng

chịu chi phí theo tiêu thức phân bổ phù hợp.
1.1.2 Giá thành sản phẩm
1.1.2.1 Khái niệm và bản chất của giá thành sản phẩm
Trong quá trình sản xuất, chi phí chi ra mới biểu hiện ở đầu vào của quá
trình sản xuất, để đánh giá chất lượng sản xuất kinh doanh cần xem xét chi phí trong

19


20
mối quan hệ với kết quả đầu ra của quá trình sản xuất đó là sản phẩm hoàn thành.
Quan hệ so sánh này đã hình thành nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
“Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí
về lao động sống và lao động vật hoá và những hao phí khác cần thiết có liên quan
đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành”( Võ Văn Nhị, 2010, tr
228 ).
Giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau vốn có bên trong nó
là chi phí sản xuất đã chi ra và lượng giá trị sử dụng thu được cấu thành trong khối
lượng sản phẩm công việc hoàn thành. Như vậy, bản chất của giá thành sản phẩm là
sự chuyển dịch các yếu tố chi phí vào sản phẩm, công việc hoàn thành.
Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu đó là chức năng bù đắp và
chức năng lập giá. Toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành một khối
lượng công việc, sản phẩm phải được bù đắp bằng chính số tiền thu về tiêu thụ sản
phẩm. Việc bù đắp chi phí đầu vào mới đảm bảo được quá trình tái sản xuất giản
đơn chứ chưa phải là mục đích sản xuất và nguyên tắc kinh doanh trong cơ chế thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường giá bán của sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào
quy luật cung cầu thông qua việc tiêu thụ sản phẩm mà thực hiện giá trị sử dụng của
sản phẩm. Giá bán của sản phẩm là biểu hiện giá trị của sản phẩm, phải được dựa
trên cơ sở giá thành sản phẩm để xác định. Thông qua giá bán của sản phẩm mà
đánh giá được mức độ bù đắp chi phí và hiệu quả của chi phí.

Ngoài ra để hiểu rõ hơn về giá thành sản phẩm, có thể xem xét nó trong mối
quan hệ với giá trị và giá cả. Giá thành sản phẩm là phạm trù kinh tế khách quan
của sản xuất hàng hoá, có quan hệ mật thiết với giá trị và giá cả hàng hoá. Giá thành
sản phẩm được coi là xuất phát điểm để xây dựng giá cả, là giới hạn tối thiểu về
lượng của giá cả, dưới mức đó thì không thể thực hiện được tái sản xuất giản đơn.
Trên ý nghĩa đó thì giá thành sản phẩm là một bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá
trị. Giá thành và giá cả có mối quan hệ mật thiết, giữa giá thành sản phẩm với giá trị
và giá cả luôn tồn tại khách quan một sự chênh lệch về lượng hoặc là có lợi cho nhà
sản xuất trở thành điều kiện vật chất phát triển hoặc là có hại cho nhà sản xuất. Sản

20


21
xuất chỉ có thể tồn tại và phát triển khi người sản xuất đạt mức giá thành thấp hơn
giá bán của hàng hoá. Giá thành là cơ sở xuất phát để xây dựng và quy định giá cả
sản phẩm. Quy định giá cả đúng đắn phụ thuộc vào mức độ đầy đủ và chính xác của
việc xác định giá thành của từng loại sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra.
Như vậy giữa giá thành và giá cả có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giá cả là
cơ sở của giá thành và giá thành là cơ sở để xây dựng giá cả. Vì vậy, nếu trong điều
kiện giá bán không đổi thì việc giảm giá thành cũng là việc tăng lợi nhuận. Do đó
việc hạ thấp chi phí giảm giá thành là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của
công tác quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp.
1.1.2.2 Phân loại giá thành sản phẩm
Để phục vụ cho các mục đích khác nhau của quản lý, giá thành sản phẩm
được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
* Phân loại theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành
Theo cách phân loại này, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành kế
hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế.
- Giá thành kế hoạch: Giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào

kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi
phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: Là giá thành được xác định trước khi bắt đầu sản
xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở
các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá
thành định mức được xác định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng
thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch nên giá thành định mức luôn thay đổi phù
hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế
hoạch giá thành.
- Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản
xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất
sản phẩm.

21


22
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác
định được các nguyên nhân vượt (hụt) định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó,
điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.
* Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí tính vào giá thành
Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành
sản xuất và giá thành tiêu thụ.
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các
chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm phát sinh ở phân
xưởng sản xuất.
- Giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ): Là chỉ tiêu phản ánh các chi phí phát
sinh liên quan đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh
doanh lãi hoặc lỗ của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất.

1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với
nhau trong quá trình tạo ra sản phẩm và cung ứng sản phẩm đó ra bên ngoài. Chi
phí sản xuất là căn cứ để tính giá thành sản phẩm. Sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí
sản xuất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm, đòi hỏi quản lý giá thành
phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất.
Giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất giống nhau ở chỗ chúng đều là biểu
hiện bằng tiền những hao phí lao động sống và lao động vật hóa bỏ ra. Nhưng giữa
chúng có sự khác nhau về phạm vi và giới hạn. Chi phí sản xuất chỉ tính những chi
phí của doanh nghiệp chi ra trong quá trình sản xuất của một thời kỳ nhất định
không phân biệt chi phí đó có liên quan đến quá trình sản xuất sản phẩm đó đã hoàn
thành hay chưa hoàn thành, không gắn liền với chủng loại và khối lượng sản phẩm
lao vụ đã hoàn thành. Còn giá thành sản phẩm là xác định một lượng chi phí nhất
định, tính cho một đại lượng kết quả hoàn thành nhất định. Mặt khác, chi phí sản
xuất chỉ tính cho một thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm xác định trên cơ sở
chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ và gồm cả chi phí sản xuất phát sinh kỳ trước

22


23
chuyển sang kỳ này, không bao gồm chi phí cho sản phẩm dở dang cuối kỳ chuyển
sang kỳ sau.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được thể hiện qua
công thức tính giá thành:
Giá thành

=

Chi phí sản xuất


+

Chi phí phát

-

Chi phí sản xuất

(CT 1.1)
sản phẩm
dở dang đầu kỳ
sinh trong kỳ
dở dang cuối kỳ
Mặc dù cả hai phạm trù đều giống nhau về chất nhưng lại khác nhau về
lượng. Chi phí sản xuất của một doanh nghiệp công nghiệp trong một thời kỳ nhất
định cũng khác với tổng giá thành sản phẩm của các loại sản phẩm đã hoàn thành
trong thời kỳ đó. Bởi giá thành sản phẩm không bao gồm chi phí sản xuất của sản
phẩm dở dang cuối kỳ nhưng phải cộng thêm những chi phí sản xuất dở dang kỳ
trước chuyển sang.
Về mặt kế toán, kế toán tập hợp chi phí sản xuất tạo cơ sở để tính giá thành
sản phẩm. Có thể nói kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là
hai bước công nghệ liên tiếp gắn bó hữu cơ với nhau. Khi giá trị sản phẩm dở dang
đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các doanh nghiệp sản xuất không có sản phẩm dở
dang thì giá thành sản phẩm bằng chi phí sản xuất.
1.2 Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
sản xuất
1.2.1 Nguyên tắc kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Khi hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thì kế toán
phải tuân theo các nguyên tắc và các yêu cầu cơ bản. Cụ thể, việc hạch toán chi phí

phải tuân thủ các nguyên tắc như sau:
+ Nguyên tắc cơ sở dồn tích:
Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ
phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời
điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc
tương đương tiền.
Khi bỏ ra 1 khoản chi phí để sản xuất, thì theo Cơ sở dồn tích, chi phí ấy sẽ
được ghi nhận ngay tại thời điểm phát sinh, tập hợp chi phí sản xuất và những chi

23


24
phí này sẽ nằm ở giá thành sản phẩm, khi bán được hàng thì sẽ kết chuyển vào giá
vốn hàng bán.
Báo cáo tài chính lập trên cơ sở dồn tích phản ánh tình hình tài chính của
doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Vì việc ghi nhận doanh thu và chi phí có ảnh hưởng quyết định đến báo cáo
lợi nhuận của DN trong một kỳ, cơ sở kế toán dồn tích được xem là một nguyên tắc
chính yếu đối với việc xác định lợi nhuận của DN. Lợi nhuận theo cơ sở dồn tích là
phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí; từ đó, BCTC nói chung và BCKQKD
nói riêng được lập trên cơ sở dồn tích phản ánh đầy đủ (hay tuân thủ yêu cầu trung
thực) các giao dịch kinh tế trong kỳ và từ đó, cho phép tình trạng tài sản, nguồn vốn
của DN một cách đầy đủ, hợp lý. Như vậy thì báo cáo tài chính mới có ích cho việc
ra quyết định của các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
+ Nguyên tắc giá gốc:
Nội dung của nguyên tắc giá gốc là khi ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế liên
quan đến tài sản, kế toán phải dựa vào chi phí đã phát sinh để hình thành nên tài sản
chứ không phải căn cứ vào giá hiện hành trên thị trường. Như vậy, giá trị của tài sản
được ghi nhận vào bảng cân đối kế toán là chi phí mà doanh nghiệp đã phải bỏ ra để

có tài sản đó, chứ không phải giá thị trường ở thời điểm báo cáo. Và các khoản chi
phí phát sinh theo giá gốc là số tiền mà doanh nghiệp đã chi ra tại thời điểm phát
sinh nghiệp vụ.
Tài sản hình thành từ quá trình sản xuất chính là các thành phẩm, các bán
thành phẩm và giá trị của chúng là giá thành sản phẩm được tính toán từ quá trình
với các chi phí thực tế phát sinh. Chi phí cấu thành giá thành sản phẩm gồm : CP
NVLTT, CP NCTT, CP SXC đã được tập hợp. Cuối kỳ kế toán, căn cứ vào tài liệu
về các khoản mục chi phí phát sinh đó để tính giá thành sản phẩm theo phương
pháp thích hợp.

+ Nguyên tắc phù hợp:

24


25
Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau. Khi ghi nhận một
khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng có liên quan đến
việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí tương ứng với doanh thu gồm chi phí của kỳ tạo ra
doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến
doanh thu của kỳ đó. Chi phí bao gồm các chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp và
các chi phí khác.
Các giá phí có liên hệ trong việc tạo ra các doanh thu của một thời kỳ là chi
phí của thời kỳ đó. Tính giá thành sản phẩm hoàn thành chính xác, hợp lý sẽ góp
phần xác định chính xác giá vốn hàng bán làm cho nó tương ứng với doanh thu
trong kỳ. Để đạt được mục tiêu trên thì việc lựa chọn phương pháp tính giá thành
phù hợp đối với từng doanh nghiệp là điều kiện tiên quyết.
+ Nguyên tắc nhất quán:
Trong kế toán có thể một số trường hợp được phép có nhiều phương pháp

tính toán, mỗi phương pháp lại cho một kết quả khác nhau. Theo nguyên tắc này,
khi đã chọn phương pháp nào thì kế toán phải áp dụng nhất quán trong các kỳ kế
toán. Trường hợp cần thiết sự thay đổi về phương pháp đã chọn cho hợp lý thì trong
phần thuyết minh báo cáo tài chính phải giải trình lý do tại sao phải thay đổi
phương pháp và sự thay đổi đó ảnh hưởng như thế nào đến kết quả tính toán so với
phương pháp cũ.
Có nhiều phương pháp tính khấu hao tài sản cố định; tính giá trị hàng tồn khi
cuối kỳ... Mỗi phương pháp sẽ mang lại một con số khác nhau về chi phí và lợi
nhuận. áp dụng phương pháp nào là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng doanh
nghiệp vì tất cả các phương pháp đó đều được công nhận, nhưng theo nguyên tắc
này, kế toán đã lựa chọn áp dụng phương pháp nào thì phải áp dụng nhất quán trong
các kỳ kế toán.
Công tác tính giá thành bao gồm cả việc tập hợp chi phí sản xuất theo đối
tượng tính giá thành, đánh giá sản phẩm dở dang và cuối cùng là tính giá sản phẩm
hoàn thành. Việc lựa chọn phương pháp tính giá thành phải phù hợp với các đặc

25


×