Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.91 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP
Ở VIỆT NAM

TRẦN THỊ MINH NGỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM

TRẦN THỊ MINH NGỌC

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Pháp luật về người đại diện của
doanh nghiệp ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng
dẫn của TS. Bùi Ngọc Cường. Các kết quả nêu trong luận văn, các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Người cam đoan

Trần Thị Minh Ngọc


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, hướng
dẫn, giúp đỡ của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn
các thầy cô giáo thuộc khoa Đào tạo Sau Đại học - Viện Đại học Mở Hà Nội. Đặc
biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn sự chỉ dạy và hướng dẫn nhiệt tình của giảng viên
hướng dẫn là TS. Bùi Ngọc Cường đã đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài luận văn thạc sĩ này.

Học viên

Trần Thị Minh Ngọc


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài..................................................1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài........................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu..........................................5
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................6
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................6
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn......................................................7
7. Kết cấu của luận văn...................................................................................7
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN VÀ QUY CHẾ
PHÁP LÝ VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về người đại diện của doanh nghiệp.....................9
1.1.1.Khái niệm và đặc điểm người đại diện của doanh nghiệp....................9
1.1.2.Lịch sử hình thành chế định người đại diện của doanh nghiệp......... 16
1.1.3. Vai trò của người đại diện của doanh nghiệp ..................................18
1.2. Quy chế pháp lý về người đại diện của doanh nghiệp.....................20
1.2.1. Khái niệm quy chế pháp lý về người đại diện của doanh nghiệp......... 20
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy chế pháp lý về người đại diện của doanh
nghiệp........................................................................................................21
1.2.3. Nguồn pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.....................24
1.2.4. Nội dung cơ bản của quy chế pháp lý về người đại diện của doanh
nghiệp ......................................................................................................27


1.2.5. Quy chế pháp lý về người đại diện của doanh nghiệp của một số quốc
gia trên thế giới..........................................................................................28
Kết luận chương 1.........................................................................................32
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA
DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Nội dung cơ bản của các quy định pháp luật về người đại diện của
doanh nghiệp...........................................................................................34
2.1.1. Quy định về xác lập quyền đại diện của người đại diện của doanh
nghiệp....................................................................................................... 34

2.1.2. Quy định về số lượng người đại diện của doanh nghiệp ................... 38
2.1.3. Quy định về thời hạn và phạm vi đại diện của người đại diện của doanh
nghiệp.......................................................................................................39
2.1.4. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện của doanh nghiệp.41
2.1.5. Quy định về trường hợp vượt quá phạm vi đại diện và xử lý vi phạm về
người đại diện của doanh nghiệp...............................................................43
2.2. Thực tiễn áp dụng quy chế pháp lý về người đại diện doanh
nghiệp ................................................................................................................
..45
2.2.1. Một số kết quả đạt được từ thực tiễn áp dụng quy chế pháp lý về người
đại diện của doanh nghiệp.........................................................................45
2.2.2. Một số hạn chế trong thực tiễn thực hiện của người đại diện của doanh
nghiệp và nguyên nhân ............................................................................59
Kết luận chương 2.........................................................................................66


Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY
CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế pháp lý về
người đại diện của doanh nghiệp............................................................65
3.2. Một số giải pháp đối với doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện quy chế pháp lý về người đại diện của doanh nghiệp........................66
3.2.1. Nâng cao hiệu quả xây dựng Điều lệ doanh nghiệp..............................66
3.2.2. Về phạm vi thẩm quyền của người đại diện.......................................67
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm của người đại diện của doanh nghiệp trong việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình..........................................................69
3.3. Một số giải pháp đối với cơ quan quản lý nhà nước nhằm nâng cao
hiệu quả thi hành quy chế pháp lý về người đại diện của doanh nghiệp 69
3.4. Một số giải pháp đối với các tổ chức xã hội nghề nghiệp nhằm nâng
cao hiệu quả thi hành quy chế pháp lý về người đại diện của doanh

nghiệp.......................................................................................................71
Kết luận chương 3.........................................................................................75
KẾT LUẬN....................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................78


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Viết đầy đủ

1.

BLDS

Bộ luật dân sự

2.

LDN

Luật doanh nghiệp

3.

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn


4.

HĐQT

Hội đồng quản trị

5.

CTCP

Công ty cổ phần


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển hay không, phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, song trước hết phụ thuộc vào người đứng đầu doanh nghiệp có đưa ra
được những quyết sách sáng suốt để doanh nghiệp phát triển hay không. Chính vì
vậy, trong quá trình nghiên cứu về pháp luật doanh nghiệp, vấn đề chúng ta phải
quan tâm đầu tiên đó là chế định người đại diện của doanh nghiệp. Vấn đề này có
tính cấp thiết bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, theo tinh thần Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và
phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 ngày 16/5/2016 là văn bản đưa ra thông điệp
để phát triển doanh nghiệp, đó là: “Doanh nghiệp là động lực của sự phát triển,
chính phủ vai trò kiến tạo, khởi nghiệp là sự nghiệp của nhân dân”. Trong Nghị
quyết 35/NQ-CP có nhắc đến mục tiêu: “Đến năm 2020, xây dựng doanh nghiệp
Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững, cả nước có ít nhất một triệu
doanh nghiệp hoạt động, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực
mạnh”. Để đạt được mục tiêu đó thì cần phải tuân thủ nhiều nguyên tắc, trong đó có

nguyên tắc về quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp; nguyên tắc bảo đảm điều
kiện kinh doanh phải rõ ràng minh bạch, dễ thực hiện, loại bỏ các thủ tục hành
chính phức tạp bất hợp lý. Trong bối cảnh đó, Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13
(sau đây gọi chung là Luật doanh nghiệp năm 2014) thay thế Luật doanh nghiệp
năm 2005; Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 (sau đây gọi chung Bộ luật Dân sự
năm 2015) ra đời thay thế Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 (sau đây gọi chung là
Bộ luật Dân sự năm 2005) đã trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp đặc biệt đề cao
chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp tự
do lựa chọn số lượng người đại diện của mình nâng cao vai trò của người đại diện
theo pháp luật đối với hoạt động của doanh nghiệp.

1


Thứ hai, Hiến pháp nước ta được sửa đổi năm 2013 đã ghi nhận sự thay đổi
của nhiều nguyên tắc, trong đó có nhiều nguyên tắc mà Bộ luật Dân sự năm 2005
chưa kịp dự liệu như: Nguyên tắc pháp luật bảo đảm nguyên tắc quyền dân sự chỉ
có thể bị hạn chế bởi luật trong những trường hợp đặc biệt như Hiến pháp năm 2013
đã ghi nhận; Pháp luật chưa tạo được cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi
ích của bên thứ ba ngay tình, của bên thiện chí, bên yếu thế trong quan hệ dân sự.
Pháp luật dân sự còn hạn chế nhiều quy định về chủ thể giao dịch, đại diện, nghĩa
vụ và hợp đồng, thừa kế còn bất hợp lý, thiếu tính khả thi. Riêng đối với các quy
định về đại diện thì Bộ luật Dân sự năm 2005 còn nhiều thiếu sót như chưa có quy
định về việc pháp nhân có thể là đại diện theo ủy quyền là không phù hợp với nhu
cầu chính đáng của các doanh nghiệp về đại diện, chưa bảo đảm tính hiệu quả trong
quản lý, nhất là trong điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang có nhu
cầu và khả năng mở rộng quy mô, địa bàn hoạt động của mình và có sự cạnh tranh
của nhiều công ty xuyên quốc gia. Chính vì vậy, cần nghiên cứu về chế định người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp để hiểu được sự thay đổi của pháp luật và
những ưu điểm, nhược điểm trong thực tiễn áp dụng.

Thứ ba, hiện nay có nhiều trường hợp người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp thiếu trách nhiệm để xảy ra những hậu quả nghiêm trọng, gây thất
thoát cho nguồn vốn của doanh nghiệp hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của doanh
nghiệp, người đại diện theo pháp luật sẽ nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp
xác lập, thực hiện các giao dịch, thể hiện mối quan hệ với các chủ thể trong doanh
nghiệp (như với các thành viên, cổ đông góp vốn) hoặc với các chủ thể khác bên
ngoài doanh nghiệp (đối tác, khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước...). Do chế định
về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa thực sự được quan tâm một
cách thích đáng, doanh nghiệp dễ rơi vào trường hợp thất thoát về tài sản, hoặc
doanh nghiệp và những người quản lý doanh nghiệp có thể còn phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại, thậm chí chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, về mặt lý luận, từ khi có Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật doanh
nghiệp năm 2014 với rất nhiều mối liên quan đến người đại diện, chưa có những
2


nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về chế định này, đồng thời, chưa có những nghiên
cứu cụ thể về thực tiễn thực hiện chế định này. Chính vì vậy, tác giả mong muốn
nghiên cứu để đưa ra một cái nhìn toàn điện về chế định người đại diện của doanh
nghiệp.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về người
đại đại diện của doanh nghiệp ở Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới, những học thuyết nghiên cứu về chế định “đại diện” xuất hiện
từ rất sớm. Điển hình là các tác phẩm:
- Tài sản của Quốc gia (The Wealth of Nations) của Adam Smith 1: nhà kinh
tế học nổi tiếng Adam Smith đã cho rằng với đặc tính của công việc quản lý, các cổ
đông không nên kỳ vọng và tin tưởng rằng người quản lý công ty sẽ hành động như
họ muốn, bởi lẽ người quản lý công ty luôn có xu hướng thiếu siêng năng, mẫn cán

và lợi dụng vị trí của mình để tìm kiếm lợi ích cá nhân cho chính họ hơn là cho các
cổ đông và công ty. Trong nghiên cứu của mình, Adam Smith đã dự đoán xu hướng
phát triển của các công ty hiện đại với sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý,
kiểm soát công ty (separation of ownership and control).
- Công ty hiện đại và sở hữu tư nhân (The Modern Corporation and Private
Property) cảu Adolf A. Berle và Gardiner C. Means 2: Tác giả khẳng định rằng với
sự phát triển của phương tiện truyền thông hiện đại, việc tổ chức tốt các thị trường
chứng khoán và sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các nhà đầu tư, vấn đề sở hữu
vốn trong các công ty ngày càng bị phân tán và cổ phần sẽ được sở hữu bởi nhiều
chủ thể đa dạng hơn. Hai ông cũng cho rằng, mô hình công ty hiện đại ngày nay là
đại diện của một hình thức mới về tài sản, mà tài sản đó lại được kiểm soát, quản lý
bởi những người quản lý công ty (những người làm thuê) hơn là các cổ đông
1

truy cập ngày 28/5/2017
truy cập ngày 28/5/2017
2

3


(những chủ sở hữu thực sự của tài sản). Từ đó, các học giả này cũng kết luân rằng,
có sự phân tách giữa sở hữu và quản lý, kiểm soát trong các công ty hiện đại.
Kiểm soát quản trị (Corporate governance) của Bob Tricker, do Nguyễn
Dương Hiểu, Nguyễn Thị Thu Hương dịch3. Bất kể là quản trị công ty hay quản trị
quốc gia, một khi có sự tách bạch giữa “quyền sở hữu” và “quyền quản lý” (nắm sở
hữu nhưng không quản lý và/hoặc nắm quản lý nhưng không sở hữu) thì nhất định
phải áp dụng “governance” (cơ chế kiểm soát quản lý). Vì nếu không áp dụng cơ
chế kiểm soát quản lý thì chắc chắn sẽ dẫn đến sự “lạm quyền”, “lông quyền”,
“chuyên quyền” và “trục lợi” của người quản lý.

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu kể trên đều có dự đoán chung rằng: xu
hướng phát triển của các công ty hiện đại cần có sụ phân tách giữa quyền sở hữu và
quản lý, kiểm soát công ty.
Ở Việt Nam chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được
nghiên cứu ở nhiều phạm vi và góc độ khác nhau. Cụ thể như sau:
Nghiên cứu trong một số luận văn, luận án như: Nguyễn Văn Thắng (2007),
Người đại diện theo pháp luật trong Luật doanh nghiệp 2005, Luận văn thạc sĩ luật
học, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Vũ Thị Bích Thùy (2014), Đại
diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học,
Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Hồ Ngọc Hiển (2012), Đại diện cho
thương nhân theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Khoa học xã hội; Lê Việt Phương (2014), Người đại diện theo pháp
luật của công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học.
Nghiên cứu trong các bài viết, tạp chí như: Bùi Xuân Hải (1999) “Người
quản lý công ty theo Luật doanh nghiệp 1999 - Nhìn từ góc độ luật so sánh”, Tạp
chí Khoa học Pháp lý, (4); Bùi Xuân Hải (2007) “Học thuyết về đại diện và mấy
vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (4). Trong hai
bài viết này, tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản của học thuyết về đại diện và
3

Kiểm soát quản trị (corporate governance) (2012), Nxb Thời đại.

4


sử dụng những luận điểm của học thuyết này để bình luận một số vấn đề trong thực
tiễn quản trị doanh nghiệp và pháp luật công ty Việt Nam; Lê Thị Bích Thọ (2001)
“Một số ý kiến về vấn đề đại diện trong ký kết hợp đồng kinh tế”, Tạp chí Khoa học
Pháp lý, (2); Nguyễn Văn Tuyến (2003) “Vấn đề đại diện hợp pháp của ngân hàng
thương mại”, Tạp chí Luật học, (5); Ngô Huy Cương (2009) “Chế định đại diện

theo quy định của pháp luật Việt Nam - Nhìn từ góc độ Luật so sánh”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, (4); Nguyễn Ngọc Thanh (2010) “Vấn đề chủ sở hữu và người
đại diện, một số gợi ý về chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, Kinh tế và
Kinh doanh, (26); Hồ Ngọc Hiển (2011) “Khái niệm đại diện và phân loại đại diện
trong lĩnh vực thương mại”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (18); Lê Văn Thiệp
(2012), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện theo pháp luật”, Tạp chí
Kiểm sát, số Tân Xuân; Nguyễn Vũ Hoàng (2013) “Chế định đại diện trong pháp
luật Việt Nam và vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Luật học, (2); Thân
Văn Tài (2015) “Một số nội hàm khái niệm đại diện trong dự thảo Bộ luật dân sự
(sửa đổi), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật”, (10).
Các công trình trên chủ yếu tiếp cận vấn đề đại diện dưới một góc độ nhất
định pháp luật dân sự hoặc luật thương mại như: Đại diện trong giao kết hợp đồng;
khái niệm đại diện. Hoặc có một số bài viết về chế định đại diện và thực tiễn nhưng
đây hầu hết là những bài viết ngắn và phân tích quy định của Bộ luật Dân sự 2005
hoặc phân tích dự thảo Bộ luật Dân sự năm 2015 mà chưa có bài viết nào nghiên
cứu tổng thể các góc độ về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo quy
định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật doanh nghiệp năm 2014.
Chính vì vậy, tác giả trong luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống về vấn đề này để làm rõ những góc cạnh của chế định người đại diên của
doanh nghiệp và bổ sung vào những nghiên cứu đã có.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng các quy định pháp luật về chế định người đại diện của doanh nghiệp.

5


Phạm vi nghiên cứu của đề tài: luận văn nghiên cứu pháp luật về người đại
diện của doanh nghiệp. Để dễ hiểu và cụ thể hơn, luận văn sử dụng khái niệm “quy
chế pháp lý người đại diện của doanh nghiệp” theo pháp luật hiện hành của Bộ luật

Dân sự năm 2015 và Luật doanh nghiệp năm 2014. Các văn bản pháp luật đã hết
hiệu lực như Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật doanh nghiệp năm 2005 chỉ được giới
thiệu để làm rõ những điểm mới, tiến bộ của các văn bản pháp luật mới ban hành.
Nội dung quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tập
trung vào các vấn đề: xác lập quyền đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; số
lượng người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; thời hạn và phạm vi đại
diện; quyền và nghĩa vụ của người đại diện và vấn đề xử lý vi phạm của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và
thực tiễn các quy định về người đại diện của doanh nghiệp theo Bộ luật Dân sự năm
2015 và Luật doanh nghiệp 2014, từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về chế định người đại diện
của doanh nghiệp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể sau: (i) Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ đại diện
và người đại diện của doanh nghiệp; (ii) Phân tích các quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015 và Luật doanh nghiệp năm 2014 về chế định người đại diện của doanh
nghiệp; (iii) Đánh giá thực tiễn những điểm còn hạn chế khi áp dụng quy định pháp
luật về chế định người đại diện của doanh nghiệp; (iv) Đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về chế định
người đại diện của doanh nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Trong từng
6


chương cụ thể có sử dụng các phương pháp: phương pháp lịch sử, logic, phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so

sánh. Phương pháp nghiên cứu của từng chương như sau:
Chương 1: Tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử cụ thể, liệt kê, phân
tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống để đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về
người đại diện theo pháp luật;
Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp
luật học so sánh và phương pháp thống kê để làm rõ các quy định của pháp luật hiện
hành và thực tiễn thực hiện về người đại diện theo pháp luật;
Chương 3: Tác giả sử dụng phương pháp liên hệ, tổng hợp, hệ thống và đối
chiếu để đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
người đại diện theo pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Luận văn làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý cơ bản về người đại diện của
doanh nghiệp, từ đó có cơ sở khoa học để nghiên cứu sâu hơn về lý luận về người
đại diện. Đề tài có thể sử dụng trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học tại
các cơ sở đào tạo luật.
Luận văn có ý nghĩa thực tiễn. Luận văn đánh giá thực tiễn thi hành quy định
về người đại diện của doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở
đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện quy định pháp
luật dân sự và quy định pháp luật doanh nghiệp về chế định người đại diện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 03
chương sau:
- Chương 1: Khái quát chung về người đại diện và quy chế pháp lý về người
đại diện của doanh nghiệp

7


- Chương 2: Thực trạng pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp và
thực tiễn áp dụng.

- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về người đại
diện của doanh nghiệp.

8


Chương 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN VÀ QUY
CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về người đại diện của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm người đại diện của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm “đại diện”
Để tìm hiểu về người đại diện theo pháp luật, trước hết phải hiểu thế nào là
“Đại diện”.
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm đại diện được hiểu là: “Thay mặt cho cá
nhân hoặc tổ chức làm việc gì”4. Theo Từ điển Luật học, khái niệm đại diện được
hiểu là: “Việc một người, một cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ quan tổ chức
khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lí trong phạm vi thẩm quyền đại diện”5.
Trên thế giới, chế định đại diện là chế định quan trọng trong pháp luật tư,
được ghi nhận trong pháp luật nhiều quốc gia và hệ thống pháp luật.
Theo truyền thống Common law, “đại diện” có vai trò trong mọi mặt đời
sống xã hội nói chung và trong hoạt động kinh doanh thương mại nói riêng. Đại
diện thúc đẩy sự phân công lao động xã hội với một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn và
được những học thuyết riêng ghi nhận. Sự phát triển của chế định đại diện dựa trên
nền tảng tư tưởng của trường phái luật tự nhiên trong bối cảnh thương mại và công
nghiệp đang phát triển mạnh6. Ví dụ: Có quan niệm cho rằng pháp luật về đại diện
trong Commonlaw bắt nguồn từ một châm ngôn La tinh: “Đại diện là hành động
của một người thông qua một chủ thể khác được pháp luật coi là hành động của

Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.325.
Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp và Nxb Từ điển
Bách khoa, Hà Nội, tr.225.
6
Nguyễn Vũ Hoàng (2013), Chế định đại diện trong pháp luật Việt Nam và vấn đề đặt ra trong
thực tiễn áp dụng, Tạp chí Luật học (2), tr.2.
4
5

9


chính người đó”7. Có quan niệm cho rằng vấn đề đại diện lúc này như “giao một
con tàu cho thuyền trưởng điều khiển và quản lý hay hoạt động kinh doanh thông
qua sự điều hành của người khác”8. Quan hệ đại diện là một dạng quan hệ phức hợp
được tạo bởi quan hệ giữa người ủy quyền (principal), người đại diện (agent) và
người thứ bà (third patry)9. Đối với pháp luật công ty, các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển đều quan tâm điều chỉnh vấn đề đại diện. Công ty với tư cách là
một pháp nhân - một thực thể pháp lý độc lập (a separate legal entity), tự bản thân
nó không thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động thông qua những
con người cụ thể là những người đại diện trong giao dịch để xác lập và thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình 10. Theo lý thuyết về đại diện của mình, Jensen và
Mecklin cho rằng: “Lý thuyết đại diện liên quan đến một hợp đồng theo đó một
hoặc vài người (cổ đông) giao cho người khác (thành viên HĐQT) thay mặt họ thực
hiện một số dịch vụ, trong đó có việc ủy quyền ra quyết định cho đại diện. Nếu cả
hai bên trong mối quan hệ này là những người muốn tối đa hóa lợi ích, chúng ta có
lý do để tin rằng đại diện sẽ không luôn luôn hành động vì lợi ích của người chủ”11.
Sự phát triển của vấn đề phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, kiểm soát công ty
làm tiền đề cho sự xuất hiện lý thuyết về người chủ và người đại diện. Mối quan hệ
này được coi như là quan hệ hợp đồng mà theo đó, các cổ đông (những người chủ

sở hữu - principals), bổ nhiệm, chỉ định người khác, người quản lý công ty (người
thụ ủy - agents) để thực hiện việc quản lý công ty cho họ, mà trong đó bao gồm cả
việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của công ty 12. Người đại
Abdul Kadar, Ken Hoyle, Geofrey Whitehead (1985), Business Law, Made Simple Books,
London, p. 166.
8
Ngô Huy Cương (2009), Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - Nhìn từ góc
độ Luật so sánh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (4), tr.26-28.
9
Hồ Ngọc Hiển (2007), Nghĩa vụ người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh của
Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, (3), tr.57.
10
Bùi Xuân Hải (2007), Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam,
Tạp chí Khoa học pháp lý, tr.11-18.
11
Michael C ensen and William Meckling (1976), Theory of the Firm: Managerial Behavior,
Agency Cots and Ownership Structure, Journall of Financial Economics, October, 3, p.26.
12
Bùi Xuân Hải (2007), “Nghĩa vụ người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh
của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam”, Tạp chí nhà
nước và pháp luật, (4), tr.11-18
7

10


diện cho người chủ sở hữu (principals) hay cho cổ đông (shareholders) chính là
thành viên HĐQT và những vị trí quản lý quan trọng (managers, directors) trong
công ty hoặc giữ một vị trí của người quản lý bất luận chức danh của họ được gọi là

gì13. Theo Từ điển Black Law Dictionary bản thứ 9 thì thuật ngữ “Đại diện” được
dùng để biểu đạt quan hệ một chủ thể nhân danh và vì lợi ích của một chủ thể khác
để giao kết, thực hiện một giao dịch14.
Điều 134 BLDS năm 2015 có định nghĩa về đại diện như sau: Đại diện là
việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi
ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện)
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”15. Pháp luật dân sự Việt Nam đã có tiếp thu
tương đối đầy đủ những học thuyết về đại diện. Pháp luật Việt Nam tiếp cận khái
niệm đại diện theo quan điểm tương đối hài hòa với các hệ thống pháp luật trên thế
giới, có lẽ xuất phát từ việc vấn đề đại diện của pháp luật Việt Nam có nguồn gốc từ
trường phái luật tự nhiên giống với BLDS Pháp 16.
Từ những học thuyết nói trên, tác giả đồng tình với khái niệm đại diện trong
BLDS năm 2015 của Việt Nam như sau: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau
đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp
nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự”.
1.1.1.2. Khái niệm “người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”
Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được
đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Doanh
nghiệp có thể có tư cách pháp nhân (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh) hoặc không có tư cách pháp nhân (doanh nghiệp tư nhân). Nếu là
13

Bùi Xuân Hải (2007), “Nghĩa vụ người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh
của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam”, Tạp chí nhà
nước và pháp luật, (4), tr.11-18
14
Từ điển Black Law Dictionary, p.1058.
15
Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2015.

16
Ngô Huy Cương (2009), “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - Nhìn từ góc
độ Luật so sánh”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, tr.29.

11


pháp nhân, doanh nghiệp là pháp nhân thương mại theo quy định tại Điều 75 BLDS
năm 2015. Do là một tổ chức, là một thực thể pháp lý, không phải là con người cụ
thể nên tổ chức đó cần có cá nhân đại diện cho mình, thay mặt mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của tổ chức. Khi thực hiện chức năng đại diện, người đại diện
phải nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp (Điều 134 BLDS năm 2015).
Ở Việt Nam, khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp,
được quy định tại khoản 1 Điều 13 LDN năm 2014: “Người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư
cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước trọng tài,
tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có đặc điểm như sau:
Thứ nhất, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trước hết phải là
con người cụ thể nên mang đầy đủ năng lực cá nhân, con người. Cụ thể, đó là năng
lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Nang lực hành vi dân sự của cá nhân là
khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân
sự. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trước hết có đầy đủ năng lực
này và không bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đây là điều kiện bắt
buộc và tiên quyết để trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mà
nếu không đáp ứng thì pháp luật có quy định thay thế người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp. Đặc điểm này phù hợp với quy định của BLDS năm 2015 và quy
định về các chức danh quản lý trong LDN năm 2014.
Thứ hai, người đại diện của doanh nghiệp nhân danh doanh nghiệp, vì lợi ích

của doanh nghiệp và thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Người đại diện
của doanh nghiệp là người có thẩm quyền nhân danh doanh nghiệp tham gia, xác
lập và thực hiện các giao dịch vì lợi ích của doanh nghiệp là phù hợp với quy định
của BLDS năm 2015 về phạm vi đại diện tại Khoản 3 Điều 141 quy định: “Người
đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích

12


của người được đại diện, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Trong mối quan hệ
với người chủ sở hữu (cổ đông, thành viên) thì người đại diện được coi như là
người nhận ủy quyền và phải có nghĩa vụ của người thụ ủy. Đây cũng được xem là
mối quan hệ ủy thác tài sản, khi tài sản được đặt dưới sự kiểm soát của người được
ủy thác vì lợi ích của một người thụ hưởng hoặc cho một mục đích đã định. Người
được ủy thác có quyền và bổn phận và chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng theo các
điều khoản ủy thác và nhiệm vụ đặc biệt mà luật pháp áp đặt. Trong BLDS năm
2015 quy định việc xác lập quyền đại diện của người đại diện theo ba phương thức,
trong đó có quy định về xác lập theo điều lệ doanh nghiệp, xác lập theo quy định
pháp luật hoặc theo quyết định của Tòa án. Nếu doanh nghiệp là nguyên đơn, bị đơn
trong các vụ kiện tại tòa án, trọng tài thì người đại diện đương nhiên của doanh
nghiệp tham gia các thủ tục tố tụng phải là người đại diện theo pháp luật. Nếu người
này không tham gia được thì có thể ủy quyền cho người khác những người không
có quyền đương nhiên như người đại diện theo pháp luật. Ngoài ra, người đại diện
theo pháp luật có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp ngoài
những quyền và nghĩa vụ đã phân tích ở trên. Có thể nhận xét tóm tắt người đại diện
của doanh nghiệp là người có trách nhiệm thực hiện các công việc vì quyền và lợi
ích của doanh nghiệp.
Thứ ba, người đại diện của doanh nghiệp chỉ được nhân danh doanh nghiệp
xác lập, thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện. Giao dịch do người đại diện xác
lập, thực hiện chỉ có hiệu lực pháp lý đối với người được đại diện khi và chỉ khi

giao dịch đó phù hợp với phạm vi đại diện. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng và
tác dộng đến hầu hết mọi vấn đề liên quan đến quan hệ đại diện. Quyền và nghĩa vụ,
trách nhiệm của doanh nghiệp, của người đại diện và của người thứ ba có phát sinh
hay không, được thực hiện như thế nào phụ thuộc vào việc người đại diện có thực
hiện đúng phạm vi đại diện của mình hay không. Do đó, đòi hỏi người đại diện phải
minh bạch trong việc cung cấp thông tin về phạm vi đại diện trước khi xác lập các
giao dịch, nhất là trong điều kiện BLDS năm 2015 và LDN năm 2014 cho phép một

13


doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật. Việc xác định phạm vi đại
diện lại càng có ý nghĩa.
Thứ tư, mỗi doanh nghiệp là công ty TNHH, CTCP có thể có một hoặc nhiều
người đại diện theo pháp luật. Số lượng người đại diện theo pháp luật do doanh
nghiệp tự quyết định, trừ doanh nghiệp tư nhân. Số lượng, chức danh quản lý và
quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định
cụ thể tại điều lệ công ty. Đây là quy định hoàn toàn mới, lần đầu tiên được LDN
ghi nhận nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tận dụng được mọi cơ hội
kinh doanh với bên ngoài thông qua các đại diện theo pháp luật. Nếu như trước đây,
theo LDN năm 2005, mỗi doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật,
tất cả những người khác muốn thực hiện các giao dịch nhân danh công ty đều phải
có ủy quyền của người đại diện theo pháp luật thì nay, với quy định mới này của
Luật doanh nghiệp năm 2014, tất cả những người được điều lệ quy định là đại diện
theo pháp luật đều có quyền nhân danh công ty thực hiện các giao dịch đó mà
không cần bất cứ ủy quyền nào. Bên cạnh đó, quy định này còn giúp doanh nghiệp
chủ động hơn trong việc quản lý nội bộ, tăng trách nhiệm của những người được chỉ
định là đại diện theo pháp luật, giảm bớt các thủ tục hành chính khi không cần phải
tiến hành thủ tục ủy quyền. Đồng thời quy định này còn gỡ rối cho doanh nghiệp
trong một số trường hợp đặc biệt, ví dụ, người đại diện duy nhất của doanh nghiệp

không hợp tác, không thực hiện các yêu cầu của thành viên, cổ đông trong quá trình
quản lý điều hành nội bộ cũng như giao dịch với bên ngoài.
1.1.1.3. Khái niệm “người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp”
Ở Việt Nam, khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp,
được quy định tại khoản 1 Điều 15 LDN năm 2014: “Người đại diện theo ủy quyền
của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông công ty là tổ chức phải là cá nhân được ủy
quyền bằng văn bản nhân danh chủ sở hữu, thành viên, cổ đông đó thực hiện các
quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này”.
Người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp có đặc điểm như sau:

14


Thứ nhất, người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp phải đáp ứng các
điều kiện sau đây: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Không thuộc đối tượng bị
cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp quy định tại Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh
nghiệp 2014; Thành viên, cổ đông là doanh nghiệp có phần vốn góp hay cổ phần
do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ không được cử vợ hoặc chồng, cha đẻ,
cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột của người
quản lý và của người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty làm người
đại diện theo ủy quyền tại công ty khác; Các tiêu chuẩn và điều kiện khác theo
Điều lệ công ty quy định.
Thứ hai, về văn bản ủy quyền. Việc chỉ định người đại diện theo ủy quyền
phải được lập thành văn bản với các nội dung sau đây: Tên, mã số doanh nghiệp,
địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số
thẻ Căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá
nhân hợp pháp khác của người đại diện theo ủy quyền;Thời hạn được ủy quyền
tương ứng với từng người đại diện theo ủy quyền, trong đó phải ghi ngày bắt đầu
được ủy quyền; Họ, tên và chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp và cả người đại diện theo ủy quyền; Văn bản này phải được thông báo cho

công ty nơi doanh nghiệp là chủ sở hữu, thành viên, cổ đông và chỉ có hiệu lực với
doanh nghiệp kể từ ngày công ty nhận được thông báo.
Thứ ba, Số lượng người đại diện theo ủy quyền. Nếu Điều lệ công ty không
có quy định khác, số lượng người đại diện theo ủy quyền được xác định như sau:
Doanh nghiệp sở hữu ít nhất 35% vốn điều lệ của công ty TNHH nhiều thành viên
thì có thể cử tối đa 03 người đại diện theo ủy quyền; Doanh nghiệp sở hữu ít nhất
10% cổ phần phổ thông của công ty cổ phần có thể cử tối đa 03 người đại diện
theo ủy quyền;Trên đây, pháp luật chỉ quy định số lượng người đại diện theo ủy
quyền nếu doanh nghiệp sở hữu ít nhất 35% vốn điều lệ công ty TNHH nhiều
thành viên và ít nhất 10% cổ đông phổ thông của công ty cổ phần. Nếu doanh
nghiệp sở hữu ít hơn tỷ lệ này thì Điều lệ công ty phải quy định số lượng người
đại diện theo ủy quyền; Doanh nghiệp cử nhiều người đại diện thì phải xác định cụ

15


thể phần góp vốn góp, số cổ phần cho từng người đại diện. Nếu như doanh nghiệp
không xác định phần vốn góp, cổ phần cho từng người đại diện thì phần vốn góp
và số cổ phần sẽ được chia đều cho từng người đại diện.
1.1.2. Lịch sử hình thành chế định người đại diện của doanh nghiệp
Chế định người đại diện của doanh nghiệp hình thành và phát triển cùng với
sự phát triển của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam và được quy định ở những văn
bản pháp luật sau đây:
- Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 là văn bản pháp luật đầu
tiên góp phần tạo ra khung pháp lý cho việc đại diện. Tại Điều 12 Luật này khi quy
định về xí nghiệp liên doanh, khái niệm về người đại diện của doanh nghiệp lần đầu
tiên xuất hiện17. Theo đó, mỗi bên trong xí nghiệp liên doanh cử người của mình
vào HĐQT, Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám đốc có nhiệm vụ điều hành các
hoạt động của xí nghiệp và chịu trách nhiệm trước HĐQT. Tuy nhiên, các quy định
này không thể hiện rõ tư tưởng đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền

như các văn bản pháp luật sau này.
- Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 đã có một số quy định về người đại diện
của pháp nhân khi ký kết hợp đồng kinh tế, đã ghi nhận quan hệ đại diện giữa chủ
thể pháp nhân và người đại diện trong việc ký kết hợp đồng kinh tế với chủ thể thứ
ba. Nhưng những quy định này mang nặng tính hình thức đã gây những trở ngại,
thậm chí là thiệt hại về kinh tế cho các chủ thể. Đó cũng là điểm hạn chế lớn của
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 198918.

17

Điều 12 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 quy định: Cơ quan lãnh đạo của xí
nghiệp liên doanh là Hội đồng quản trị. Mỗi bên chỉ định người của mình tham gia Hội đồng quản
trị theo tỷ lệ tương ứng với phần góp vốn nhưng ít nhất có hai thành viên trong Hội đồng. Chủ tịch
Hội đồng do hai bên thỏa thuận cử ra Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám đốc do Hội đồng quản
trị cử ra để điều hành các hoạt động hàng ngày của xí nghiệp và chịu trách nhiệm trước Hội đồng
về hoạt động của xí nghiệp. Tổng giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc thứ nhất là công dân Việt
Nam.
18
Bùi Ngọc Cường (2001), “Vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế nước ta hiện nay”, Tạp
chí Khoa học Pháp lý, (4), tr.20.

16


- Pháp luật công ty Việt Nam đã có bước phát triển mới khi ban hành Luật
công ty 1990 và LDN tư nhân 1990. Trong hai đạo luật này đã có những quy định
mang đặc trưng cơ bản về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Mặc dù
có những điểm tiến bộ nhưng do ban hành vào những năm đầu của công cuộc đổi
mới nên các quy định về người đại diện của doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở những
chế định cơ bản nhất, còn mang tính nguyên tắc và chưa được cụ thể hóa19.

- BLDS 1995 và LDN 1999 đã quy định có sự tách biệt giữa hệ thống pháp
luật điều chỉnh quan hệ dân sự và hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Song về thực chất, sự phân biệt này trong luật thực định chưa được làm rõ từ luật
vật chất cho tới luật hình thức, chưa có một hệ thống lý thuyết rõ ràng của hai ngành
luật dân sự và luật kinh tế20. Vì thế, pháp luật về đại diện đã được ghi nhận song vẫn
chưa có sự thống nhất với nhiều hạn chế về nội dung và phạm vi điều chỉnh.
- BLDS năm 2005 và LDN năm 2005 được ban hành đánh dấu một bước cải
cách quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thể chế kinh tế thị
trường, cùng với đó là một hệ thống pháp luật dân sự - thương mại thống nhất, liên
thông được xác lập dựa trên nguyên tắc mối quan hệ luật chung và luật riêng. BLDS
được xác định là luật chung21. LDN và các đạo luật khác liên quan đến các hành vi
kinh doanh thương mại được xác định là luật chuyên ngành. Các quy định về đại
diện cũng dựa trên nguyên tắc này. Do tầm quan trọng của chế định đại diện nên
BLDS năm 2005 đã dành một chương riêng để quy định về đại diện trong quan hệ
pháp luật dân sự. Về nguyên tắc, pháp luật Việt Nam đã tiếp nhận và có sự hài hòa
nhất định với pháp luật của các nước về đại diện khi quy định tại Điều 139 BLDS
năm 2005 đại diện là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Quan hệ đại diện được xác
19

Nguyễn Thị Thu Vân (1998), Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện pháp luật về công ty ở Việt
Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.124-125.
20
Nguyễn Như Phát, Ngô Huy Cương, Những khác biệt giữa Luật thương mại Việt Nam và các chế
định pháp luật thương mại các nước. Tại địa chỉ: /
2013/04/5-luạt-thuong-mai-so-sanh.doc
21
Hồ Ngọc Hiển (2012), Đại diện cho thương nhân theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, tr.97.


17


×