Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.72 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN
TỈNH THÁI BÌNH

NGUYỄN ANH ĐỨC

Hà Nội - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN
TỈNH THÁI BÌNH

NGUYỄN ANH ĐỨC

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS.NGUYỄN TRUNG TÍN

Hà Nội - 2018



i

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này cũng như hoàn thành cả quá trình học tập,
rèn luyện là nhờ sự giảng dạy, động viên và hướng dẫn nhiệt tình của các thầy
cô trong Khoa sau Đại học, Viện đại học mở Hà Nội cùng cơ quan, gia đình
và bạn bè. Nhân dịp này tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành của mình đến
lãnh đạo Viện đại học mở Hà Nội, Ban chủ nhiệm khoa sau Đại học, các thầy
giáo, cô giáo đã chỉ dẫn để tôi có những kiến thức vô cùng quý giá giúp tôi có
thể trưởng thành một cách vững vàng.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Bộ
môn Luật, đặc biệt là thày giáo PGS.TS: Nguyễn Trung Tín là người trực tiếp
hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các tổ chức, đơn vị đã tạo điều kiện cho tôi
tiếp cận và thu thập những thông tin cần thiết để làm sáng tỏ mục tiêu của đề tài.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè
đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2018
Tác giả luận văn


ii

LỜI CAM ĐOAN

Để hoàn thành một đề tài Luận văn Thạc sĩ luật học, tác giả phải tìm
hiểu, nghiên cứu nhiều tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, như sách, giáo
trình, tạp chí, internet,… đồng thời thu thập các số liệu thực tế, qua đó thống
kê, phân tích và xây dựng thành một đề tài nghiên cứu hoàn chỉnh.

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
của tôi. Tất cả các nội dung và số liệu trong đề tài này do tôi tự tìm hiểu,
nghiên cứu và xây dựng, các số liệu thu thập là đúng và trung thực.
Tôi cũng xin cam kết các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ
rõ nguồn gốc.Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình trước
Nhà trường và những quy định pháp luật.
Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2018
Tác giả luận văn


iii

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM QUYỀN CỦA
TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI...................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án ........ 6
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại ...................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án ......13
1.2. Ưu, nhược điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa
án ................................................................................................................. 17
2.1. Nội dung các quy định pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ............................................... 31
2.1.1. Những tranh chấp trong kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của

Tòa án .......................................................................................................... 31
2.1.2. Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại ................................................................................................... 32
2.2. Thực trạng, khó khăn, vướng mắc trong thực hiện thẩm quyền của Toà
án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tỉnh Thái Bình
..................................................................................................................... 45
2.2.1. Thực trạng việc thực hiện quy định pháp luật về thẩm quyền của Toà
án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại .......................... 45


iv

2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các quy định pháp luật
về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại ............................................................................................................... 62
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI ............................... 69
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ............................................... 69
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về vấn đề xác định tranh chấp kinh doanh thương
mại thuộc thẩm quyền của Tòa án ................................................................ 69
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về vấn đề xác định thẩm quyền của Tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại........................................ 70
3.1.3. Yêu cầu đặt ra đối với pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ............................................... 71
3.2. Giải pháp chủ yếu hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại........................................ 74
3.2.1. Quán triệt, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của
Nhà nước vào việc thực hiện công tác xét xử ............................................... 74

3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xác định và
thực hiện thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại ................................................................................................... 77
3.2.3. Nâng cao trình độ, năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại........................................ 78
3.2.4. Tăng cường công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật ............................................................................................................... 81
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

TAND

Tòa án nhân dân

2


XHCN

Xã hội chủ nghĩa

3

UBND

Ủy ban nhân dân


vi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ nói chung của tòa án hai cấp tỉnh
Thái Bình từ năm 2015 đến tháng 6/2018 ............................................................. 4
Bảng 2.2. Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án dân sự của tòa án hai cấp tỉnh
Thái Bình từ năm 2015 đến tháng 6/2018 ............................................................. 4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
điều chỉnh bởi pháp luật, quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Với môi trường tự do kinh doanh kết hợp
sự chi phối của các quy luật thị trường, mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận của các
chủ thể kinh doanh, việc phát sinh tranh chấp giữa các bên là không thể tránh
khỏi. Tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại phát sinh với nhiều
loại hình khác nhau: giữa các chủ thể tham gia kinh doanh, giữa nhà đầu tư

nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư, giữa các quốc gia trong việc thực
hiện các điều ước quốc tế…, do có những bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột
về lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh tế.
Để giải quyết các tranh chấp này các chủ thể có thể lựa chọn các phương thức
như thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và giải quyết thông qua Tòa
án cho phù hợp với đặc thù của vụ việc tranh chấp, tính khả thi của kết quả
giải quyết. Hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thông qua
Tòa án trong những năm qua ở Việt Nam thường được các chủ thể kinh doanh
lựa chọn và thực tế hình thức này đã phát huy được hiệu quả, bảo vệ được
quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh doanh khi việc thương lượng,
hòa giải không mang lại kết quả.
Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp bằng con đường Toà án còn nhiều
vấn đề đáng quan tâm đó là: vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật, nhiều
quy định chưa có sự hướng dẫn cụ thể; quan điểm giải quyết còn chưa thống
nhất giữa các cấp giải quyết, điều đó làm cho hoạt động xét xử của Toà án
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa thật sự đảm bảo công minh, nhanh
chóng, chính xác và kịp thời; tình trạng tồn đọng án, giải quyết án kéo dài, dễ
gây phiền hà, mệt mỏi, ảnh hưởng đến lợi ích cho các bên đương sự…Do đó,


tiếp tục nghiên cứu, phân tích, đánh giá làm rõ những vấn đề pháp lý và thực
tiễn về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại để đưa ra các giải pháp khoa học xây dựng, hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thông qua
Tòa án là vấn đề cấp thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài “thẩm quyền của Toà án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn tỉnh
Thái Bình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật tại khoa luật kinh tế,
Viện Đại học Mở Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu
Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,

thương mại là vấn đề được nhiều nhà khoa học, nhiều cơ quan khoa học
nghiên cứu và tổng kết. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên sách, báo,
tạp chí và trong các báo cáo tại các cuộc hội thảo khoa học, trong các luận văn
thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Trong đó, có thể nêu lên một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu liên quan đến đề tài như sau:
Đặng Thanh Hoa: “thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật
học, bảo vệ tại Đại học luật TP. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, 2015.
Hoàng Tố Nguyên: “thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật
học, bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013.
Hoàng Minh Chiến: “tranh chấp trong kinh doanh và thẩm quyền giải
quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Hà Nội, 2018.
Nguyễn Thị Hiên: “thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại”, Luận văn thạc sĩ Luật học, bảo vệ
tại Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014.


Nguyễn Văn Tiến: “thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân đối với các
vụ việc kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”
Luận án tiến sĩ Luật học, bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội,
2009.
Trần Văn Trường: “giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ
thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái”, Luận văn thạc sĩ, bảo vệ
tại Viện Đại học Mở Hà Nội, 2015.
Các công trình, bài viết khoa học nêu trên đã đề cập đến những vấn đề lý
luận và thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
thông qua Tòa án trong những khoảng thời gian khác nhau và từ những góc
độ khác nhau, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về thẩm

quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
trong thời gian qua. Tuy nhiên, cho đến nay các quy định pháp luật về giải
quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại có nhiều đổi mới,
chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện dưới
góc độ một luận văn khoa học pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về
thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại, tác giả làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn tại tỉnh
Thái Bình; đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của
Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn
xét xử của Tòa án ở tỉnh Thái Bình.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(1) Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền của tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án như: khái niệm,
đặc điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án; vai trò
của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại; ưu,
nhược điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án và
các nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án.
(2) Phân tích thực trạng pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại: khái quát tình hình và thực
trạng pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại; đánh giá đúng thực trạng pháp luật và thực tiễn thực
hiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại nói chung và từ thực tiễn tại tỉnh Thái Bình nói riêng; trên cơ

sở đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong thực thi pháp luật về thẩm
quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại.
(3) Xây dựng một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền
của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại: xác
định phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp
kinh doanh thương mại đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công tác xét
xử của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận văn là các quan hệ trong thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, đặc biệt là các quan
hệ trong thẩm quyền của Tòa án từ thực tiễn thực hiện công tác xét xử của
Tòa án tại tỉnh Thái Bình.


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: trong phạm vi là một Luận văn thạc sĩ Luật đề tài tập
trung nghiên cứu những các quan hệ về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại được điều chỉnh bởi pháp luật hiện
hành từ thực tiễn thực hiện công tác xét xử của Tòa án ở tỉnh Thái Bình.
Về thời gian: từ năm 2015 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trên nền tảng phương pháp luận đó, Luận văn được sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: Lịch sử, lôgíc, phân tích tổng hợp, điều tra, khảo
sát, thống kê, so sánh và tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
(1) Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu giúp

các cơ quan xét xử thực hiện tốt hơn công tác xét xử nói chung và nâng cao vai
trò, trách nhiệm, thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại nói riêng.
(2) Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên
cứu, giảng dạy và học tập bộ môn Luật Tố tụng dân sự tại cơ sở đào tạo.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM QUYỀN CỦA
TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại
Tòa án
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại
Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động
thương mại. Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường
xuyên diễn ra trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất
thường xuyên cũng như hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh
chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã
sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này cũng như các phương
thức giải quyết. Tranh chấp thương mại (hay tranh chấp kinh doanh) là thuật
ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế - xã hội ở các nước trên thế giới. Khái
niệm này mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm
gần đây và ngày càng chiếm giữ vị trí “thống lĩnh” bởi sự nhường bước của
khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc của cơ chế kế hoạch
hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn

về quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng,
mâu thuẫn này có thể phát sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật
điều chỉnh nên chúng được gọi theo ngành luật đó. Ví dụ: tranh chấp về tiền
lương giữa người lao động và người sử dụng lao động được gọi là tranh chấp
lao động. Tương tự như vậy, tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai... đều là
những tranh chấp có liên quan đến lợi ích kinh tế của các bên. Do đó, chúng


có thể được gọi là tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng. Một đặc trưng của các
tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng đó là các chủ thể tham gia vào quan hệ
này không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương
mại là tranh chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các
nước thành viên WTO khi một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một
hiệp định nào đó của WTO bị triệt tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước
thành viên khác áp dụng một biện pháp thương mại hoặc không thực hiện
một nghĩa vụ (khiếu kiện vi phạm); hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp
định bị cản trở, triệt tiêu hoặc suy giảm quyền lợi thương mại do biện pháp
thương mại của một thành viên bất kể là biện pháp này có trái với nghĩa vụ
thành viên hay không (khiếu kiện không có vi phạm); hoặc khi có bất kỳ tình
tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt mục tiêu hiệp định
(khiếu kiện tình huống). Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp
của WTO khi nó được chính thức thông báo cho Ban thư ký WTO. Như
vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là bất đồng
giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
theo các Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được thông báo
chính thức cho Ban thư ký WTO. Như vậy, tranh chấp thương mại trong
khuôn khổ WTO có một số đặc điểm sau: (i) tranh chấp thương mại trong
khuôn khổ WTO là tranh chấp thương mại quốc tế liên quốc gia, liên Chính
phủ; (ii) các bên tranh chấp là thành viên WTO. Các tổ chức quốc tế, các cá

nhân, pháp nhân… không thể là một bên của tranh chấp; (iii) khách thể của
tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các
hiệp định và thỏa thuận của WTO và (iv) tranh chấp phải được giải quyết
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (DSM).


Tại Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy
định trong Luật Thương mại năm 1997. Tại Điều 238 Luật Thương mại quy
định: Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Theo đó,
nội hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm
1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương mại
chỉ bao gồm ba nhóm: hoạt động mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ
thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại. Tranh chấp thương mại và
hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã loại
bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được
coi là các tranh chấp thương mại. Vì vậy đã dẫn đến các xung đột pháp luật
trong hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, trong
đó có cả những Công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên
(Công ước New York năm 1958) gây không ít những trở ngại, rắc rối trong
thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 không trực tiếp đưa ra định
nghĩa về tranh chấp thương mại song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt
động thương mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm
về thương mại và tranh chấp thương mại của pháp luật Việt Nam với chuẩn
mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. Theo quy định tại khoản 2 Điều
3 Pháp lệnh Trọng tài thương mại thì hoạt động thương mại là việc thực hiện
một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm:
Mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lí thương mại;
kí gửi, thuê, cho thuê; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li xăng; đầu tư; tài chính,

ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò; khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách
bằng đường hàng không, biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương
mại khác theo quy định của pháp luật.


Như vậy, khái niệm thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam
đã được mở rộng, phù hợp với khái niệm thương mại trong Luật mẫu của
Liên Hợp Quốc về trọng tài (UNCITRAL Model Law), Hiệp định Thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ và WTO. Vấn đề này không chỉ có ý nghĩa trong
việc bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động thương mại tham gia
vào việc giải quyết tranh chấp mà còn có ý nghĩa trong vấn đề công nhận và
thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Khái niệm
“hoạt động thương mại” quy định tại Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã thể
hiện sự đột phá trong việc tiếp cận các chuẩn mực chung của thông lệ và
pháp luật quốc tế. Vì vậy, khái niệm hoạt động thương mại đã được thể chế
hóa trong các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực thương mại.
Luật Thương mại năm 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005
đã đưa ra một khái niệm về hoạt động thương mại tương đối giản đơn. Tuy
nhiên, khái niệm này cũng đã hàm chứa và lột tả được nội hàm của hoạt động
thương mại. Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại quy định: “hoạt động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác” [11]. Theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại
được mở rộng bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận
này của Luật Thương mại cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã
thể hiện sự tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp
năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng như Luật Doanh nghiệp năm
2014. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 cũng đã
liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải


quyết của Tòa án. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 không sử dụng thuật ngữ
“tranh chấp thương mại” độc lập mà sử dụng chung thuật ngữ “tranh chấp
kinh doanh, thương mại” nhưng nội dung của các tranh chấp về kinh doanh
thương mại được quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự thực chất là
các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại năm
2005. Điều này cho thấy, mặc dù có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và
ngôn ngữ sử dụng nhưng nhìn chung quan niệm về hoạt động thương mại và
tranh chấp thương mại được thể hiện qua các quy định trong các văn bản
pháp luật tương đối nhất quán.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cũng xác định thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp của trọng tài thương mại, bao gồm: (i) tranh chấp giữa
các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) tranh chấp phát sinh giữa các
bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) tranh chấp khác
giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm đầu
của thế kỷ này được diễn ra trong bối cảnh sự phát triển theo chiều rộng và
chiều sâu của các quan hệ kinh tế với tốc độ nhanh chóng chưa từng có để
từng bước khẳng định nó là bộ phận không thể thiếu được của thị trường thế
giới. Tranh chấp trong kinh tế nói chung và trong kinh doanh nói riêng với
tính cách là hệ quả tất yếu của quá trình này cũng trở nên phong phú hơn về
chủng loại và gay gắt phức tạp hơn về tính chất và quy mô.
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song đa số các nhà khoa học đều
thống nhất rằng, tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự
mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể
tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau. Theo đó, tranh
chấp kinh tế có thể có các dạng cơ bản sau:



(i) Tranh chấp trong kinh doanh: được diễn ra giữa các chủ thể tham
gia kinh doanh. Cụ thể, đó là những tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu
tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi.
(ii) Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu
tư: Loại hình tranh chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng
BTO, BT, BOT, thực hiện các điều ước quốc tế về khuyến khích và bảo hộ
đầu tư song phương và đa phương.
(iii) Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện các điều ước
quốc tế về thương mại song phương và đa phương.
(iv) Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế
trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về thương mại đa phương.
Ở đâu có hoạt động kinh doanh thương mại thì ở đó có khả năng phát
sinh tranh chấp.Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh
doanh, vì vậy giải quyết các tranh chấp phát sinh được coi là tự thân của các
quan hệ kinh tế. Ở góc độ khái quát chung, giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh chính là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải toả
các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân
bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị
trường phải đáp ứng các yêu cầu sau:
(i) Nhanh chóng, thuận lợi, không làm hạn chế, cản trở các hoạt động
kinh doanh thương mại.
(ii) Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên
trong kinh doanh thương mại.
(iii) Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường.
(iv) Kinh tế nhất, ít tốn kém nhất.



(v) Phải được giải quyết theo nguyên tắc tự do ý chí, thể hiện quyền
định đoạt của các bên trong tranh chấp.
Có nhiều cách thức khác nhau để giải quyết tranh chấp.Tùy thuộc vào
phong tục tập quán, truyền thống, trình độ phát triển kinh tế – xã hội mà mỗi
quốc gia trên thế giới có các cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
rất khác nhau. Nhìn chung cho đến thời điểm hiện tại, các hình thức giải
quyết tranh chấp chủ yếu được áp dụng rộng rãi trên thế giới bao gồm: thương
lượng, hoà giải, trọng tài (phi chính phủ) và giải quyết thông qua Tòa án.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Tòa án là hình thức giải quyết
tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh
quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành,
kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, Tòa án phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định mà pháp
luật đã quy định, cụ thể đó là những nguyên tắc cơ bản; trình tự, thủ tục khởi
kiện; trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc tại Tòa án, thi hành bản án, quyết
định của Tòa án; quyền và nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng cũng như của những cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan…
Ở hầu hết các nước trên thế giới, giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Tòa án áp dụng cho các tranh chấp trong kinh doanh được
dựa trên nền tảng thủ tục tố tụng dân sự cùng với một số quy định đặc thù
cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như: về hội đồng xét xử,
về thời gian của các trình tự tố tụng, … Do vậy, ở các quốc gia này người ta
không hình thành luật tố tụng riêng cho các tranh chấp trong kinh doanh mà
chỉ có luật về tố tụng dân sự.
Ví dụ: Ở Cộng hoà Liên bang Đức, Luật tố tụng đối với các vụ án dân
sự và thương mại được quy định thống nhất trong Bộ luật tố tụng dân sự; ở



Pháp, Anh và Mỹ các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án đều được áp dụng theo thủ tục tố tụng dân sự.
Có thể nói, giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Tòa án – một cơ
quan Nhà nước, hoạt động xét xử của nó mang tính quyền lực Nhà nước
nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và đóng vai trò là cơ
quan bảo vệ pháp luật; phán quyết của Tòa án được đảm bảo thi hành và thủ
tục giải quyết của Tòa án rất chặt chẽ, rất phức tạp và không thể thay đổi
được; phán quyết của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị hoặc có thể
được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Như vậy, có thể khái quát khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Toà án: là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét
xử nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục
nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Toà án về vụ tranh chấp
nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
tại Tòa án
Trong các loại hình tranh chấp kinh tế thì tranh chấp trong kinh doanh
là loại hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó trong một số trường hợp khái
niệm tranh chấp trong kinh doanh và khái niệm tranh chấp kinh tế được sử
dụng với ý nghĩa tương đương nhau. Mặt khác, tranh chấp trong kinh doanh
thương mại còn được hiểu là sự bất đồng về một hiện tượng pháp lý phát sinh
trong đời sống kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh doanh và thông thường
gắn liền với các yếu tố, lợi ích về mặt tài sản. Do đó, có thể khái quát những
đặc điểm tranh chấp trong kinh doanh như sau:
Thứ nhất, chủ thể tranh chấp trong thương mại. Chủ thể chủ yếu trong
quan hệ tranh chấp thương mại là các thương nhân; ngoài thương nhân là chủ


thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, một bên chủ thể của tranh chấp

thương mại có thể là thành viên của thương nhân với nhau hoặc với thương
nhân; giữa thương nhân với các bên có liên quan không phải là thương nhân
tùy thuộc vào từng quan hệ thương mại cụ thể. Khoa học pháp lý gọi giao
dịch này là giao dịch hỗn hợp (hành vi hỗn hợp). Về bản chất, hoạt động
không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân
không phải là hoạt động thương mại thuần túy, nhưng bên không nhằm mục
đích sinh lợi đã chọn áp dụng luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan
hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này
phải được quan niệm là tranh chấp thương mại. Một quy tắc được pháp luật
của Pháp và nhiều quốc gia áp dụng để giải quyết loại tranh chấp này đó là
căn cứ vào bị đơn là thương nhân hay không phải là thương nhân. Nếu bị đơn
là thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi dân sự) có thể chọn Tòa
Thương mại hoặc Tòa Dân sự để giải quyết vụ tranh chấp. Trường hợp
nguyên đơn chọn Tòa Thương mại thì các quy định khắt khe hơn của luật
thương mại được áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp. Ngược lại, bị đơn
không phải là thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi thương mại) chỉ
có quyền kiện ra Tòa Dân sự và luật dân sự được áp dụng để giải quyết vụ
tranh chấp mà các quy định của luật thương mại không thể áp dụng cho đối
phương không phải là thương nhân.
Thứ hai, lĩnh vực phát sinh tranh chấp trong thương mại. Căn cứ phát
sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp
luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có
vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có
những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh
chấp. Tranh chấp trong thương mại phải là những mâu thuẫn, bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ các hoạt động thương mại, là


những hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác, trong đó cần

chú ý tới các hoạt động đầu tư.
Thứ ba, nội dung của tranh chấp trong thương mại. Tranh chấp thương
mại chính là những xung đột về lợi ích của các bên trong quan hệ thương
mại; do đó, nội dung của tranh chấp thường liên quan đến lợi ích vật chất, lợi
ích tài sản của các bên tranh chấp. Xét về mặt giá trị, các tranh chấp trong
thương mại thường có giá trị lớn.Các giá trị của tranh chấp trong thương mại
tỷ lệ thuận với sự phát triển của nền kinh tế xã hội.Hơn nữa, trong quan hệ
thương mại hiện đại, tính rủi ro trong thực hiên hợp đồng càng cao thì giá trị
của các tranh chấp càng lớn.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các tranh chấp trong kinh doanh
chủ yếu tồn tại dưới dạng các tranh chấp về hợp đồng kinh tế, phản ánh tính
đơn điệu của các lợi ích cần bảo vệ trong mô hình kinh tế này. Ngược lại,
trong điều kiện kinh tế thị trường, sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế
kéo theo sự đa dạng về đối tượng chủ thể và lợi ích cần bảo vệ, sự xuất hiện
của các phương thức kinh doanh, thị trường và các yếu tố sản xuất phi truyền
thống làm phát sinh nhiều dạng tranh chấp mới, ví dụ như: tranh chấp giữa
thành viên công ty với công ty, giữa các thành viên công ty với nhau trong
quá trình thành lập, hoạt động và giải thể công ty; tranh chấp trong việc mua
bán các loại cổ phiếu, trái phiếu; tranh chấp về liên doanh, liên kết kinh tế,…
Chính sự thay đổi về nội dung và hình thức tranh chấp trong kinh doanh
trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã và đang đòi hỏi các hình thức giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp với
các yêu cầu của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Dựa trên những căn cứ pháp lý khác nhau như: Phạm vi lãnh thổ, số
lượng các bên tranh chấp, căn cứ vào lĩnh vực tranh chấp, quá trình thực


hiện, thời điểm phát sinh tranh chấp, tranh chấp thương mại được chia thành
các loại tranh chấp khác nhau.
Tranh chấp thương mại đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan

của nền kinh tế thị trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi hỏi cần
phải được giải quyết một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong
hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội.
Ở các nước khác nhau, có sự khác nhau trong việc xác định thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp thương mại bằng Toà án. Một số nước (Mỹ
Nhật, Hà Lan…) trao thẩm quyền xét xử mọi tranh chấp, trong đó có các
tranh chấp trong thương mại do Toà án thường (dân sự). Một số nước khác
lại trao thẩm quyền xét xử các tranh chấp thương mại cho Tòa án thương mại
– Toà chuyên trách trong cơ quan tư pháp (Đức, Pháp, Áo, Bỉ…). Các Toà án
thương mại chỉ xét xử sơ thẩm, nếu có kháng án sẽ được đưa ra xét xử tại
Toà thượng thẩm dân sự.
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa
án của các nước cho thấy, đều có chung một số đặc điểm cơ bản sau:
Một là, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án là
phương thức giải quyết trên cơ sở đơn kiện của một bên tranh chấp yêu cầu
Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án. Thẩm quyền của Toà án về giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại được pháp luật quy định phân theo cấp toà
xét xử, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Hai là, Toà án là cơ quan tài phán nhân danh quyền lực Nhà nước để
giải quyết tranh chấp. Vì vậy, phán quyết của Toà án (bản án hay quyết định)
có giá trị bắt buộc thi hành dựa vào sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Ba là, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án phải
tuân thủ triệt để trình tự, thủ tục tố tụng theo luật định. Thủ tục tố tụng được


áp dụng cho viêc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại dựa trên nền
tảng thủ tục tố tụng dân sự. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
bằng Tòa án theo nguyên tắc 2 cấp xét xử, trong một số trường hợp, bản án,
quyết định giải quyết tranh chấp có thể được xem xét lại theo thủ tục giám

đốc thẩm hoặc tái thẩm khi có các căn cứ.
Bốn là, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án được
xét theo nguyên tắc công khai trừ một số trường hợp theo yêu cầu chính đáng
của đương sự thì Toà xử kín nhưng tuyên án công khai.
1.2. Ưu, nhược điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Tòa án
Có thể hiểu giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là cách thức,
phương pháp cũng như các hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp
phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh.
Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, trong đó bao hàm quyền tự do lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp có quyền lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất cho mình. Thực tiễn, trên thế
giới cũng như ở Việt Nam đã hình thành bốn phương thức giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại đó, bao gồm:
(1) Thương lượng;
(2) Hòa giải;
(3) Trọng tài Thương mại;
(4) Tòa án.
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
được tiến hành giữa các bên (hoặc đại diện của các bên) tranh chấp để cùng
tìm ra và đi đến những thỏa thuận thống nhất bằng những giải pháp phù hợp
với tất cả các bên nhằm chấm dứt những tranh chấp trong hoạt động kinh
doanh.


×