Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Pháp luật thuế giá trị gia tăng ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.86 MB, 100 trang )

NGUYỄN HỒNG NHUNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

NGUYỄN HỒNG NHUNG

2016 - 2018

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
NGUYỄN HỒNG NHUNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

Người hướng dẫn khoa học:


TS.NGUYỄN MINH HẰNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
Ngày 20 tháng 9 năm 2018
Tác giả Luận văn

Nguyễn Hồng Nhung


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự ủng hộ,
giúp đỡ và những ý kiến đóng góp quý báu từ nhiều người. Trước hết, tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến Quý thầy, cô của Trường Đại học Mở Hà Nội, đặc biệt là
Quý thầy, cô Viện Đại học Mở Hà Nội đã tận tình giảng dạy và trang bị cho tôi
những kiến thức quý báu trong suốt thời gian theo học tại trường, giúp tôi có những
kỹ năng tiếp cận tư duy khoa học để phục vụ quá trình nghiên cứu và làm việc cũng
như vận dụng trong cuộc sống hàng ngày.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Minh Hằng - người thầy đã tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi để thực hiện Luận văn này. Sự hướng dẫn khoa học
cùng những động viên khích lệ của cô đã giúp tôi học hỏi được nhiều kiến thức và
phương pháp nghiên cứu khoa học, thiết thực và bổ ích.
Cuối cùng, tôi xin cám ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn yêu mến,

giúp đỡ và động viên tôi hoàn thành tốt công trình nghiên cứu này.
Trong quá trình thực hiện, măc dù đã hết sức cố gắng để hoàn thiện luận
văn, trao đổi và tiếp thu ý kiến đóng góp của Quý thầy, cô và bạn bè song Luận văn
cũng không thể tránh khỏi các thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những thông
tin đóng góp và phản hồi quý báu từ Quý thầy cô và bạn đọc để luận văn được hoàn
chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 09 năm 2018
Người thực hiện

Nguyễn Hồng Nhung


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP LUẬT
VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ............................................................................. 7
1.1. Khái quát về thuế giá trị gia tăng ..................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm, bản chất ................................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm, vai trò của thuế giá trị gia tăng ............................................... 10
1.1.3. Yếu tố tác động thuế giá trị gia tăng ........................................................ 18
1.2. Khái quát về pháp luật thuế giá trị gia tăng ................................................. 22
1.2.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh pháp luật thuế giá trị gia tăng .............. 22
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật thuế giá trị gia tăng ................................ 24
1.2.3. Nội dung chủ yếu của pháp luật thuế giá trị gia tăng .............................. 27

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................... 34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................................... 35
2.1. Thực trạng pháp luật về đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng ..................... 35
2.2. Thực trạng pháp luật về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế giá trị
gia tăng ..................................................................................................................... 39
2.3. Thực trạng pháp luật về căn cứ tính thuế giá trị gia tăng ........................... 43
2.3.1. Giá tính thuế Giá trị gia tăng ................................................................... 43
2.3.2 Thuế suất ................................................................................................... 50
2.4. Thực trạng pháp luật về phương pháp tính thuế giá trị gia tăng ............... 57
2.4.1 Phương pháp khấu trừ thuế ....................................................................... 58


2.4.2 Phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng ................................ 61
2.5. Thực trạng pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ...................................... 65
2.6. Thực trạng pháp luật về kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế Giá trị gia tăng 70
Kết luận chương 2 ................................................................................................... 71
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................ 72
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay.... 72
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay ............................................................. 75
3.2.1. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
hiện nay .............................................................................................................. 75
3.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng
ở Việt Nam hiện nay .......................................................................................... 81
Kết luận chương 3 ................................................................................................... 83
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 85



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GTGT

Giá trị gia tăng

NSNN

Ngân sách nhà nước

DN

Doanh nghiệp

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Bảng 1.1. Tỷ trọng VAT trong thu ngân sách, 2015-2016 [38] ............................ 16
Bảng 1.2. Số quốc gia thi hành VAT, 1990-2016 [38] .......................................... 22
Hình 2.1:

Doanh thu thuế GTGT so với GDP, tổng thu ngân sách và tổng thu thuế .. 42

Bảng 2.1: Mức thuế suất thuế GTGT của một số nước so sánh ............................. 54
Hình 2.2:


Năng suất thu VAT của Việt Nam và các nước trên thế giới, 2014...... 55

Bảng 2.2: Bảng dữ liệu........................................................................................... 67
Hình 2.3:

Số thu và hoàn thuế giá trị gia tăng hàng hóa nhập khẩu ...................... 69


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, Luật thuế giá trị gia tăng lần đầu tiên được Quốc hội khóa IX
thông qua ngày 10/5/1997 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Việc quy định
thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu là một bước cải cách quan trọng trong
hệ thống chính sách thuế của Việt Nam. Tính đến nay, Luật đã trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung. Tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII, nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ngày 03/6/2008 đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng, có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2009. Đến kì họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII, nước Cộng hòa
xã hội chủ ngĩa Việt Nam ngày 19 tháng 6 năm 2013 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12, có hiệu lực thi
hành ngày 01/01/2014. Tiếp theo đó, Luật thuế giá trị gia tăng lại được sửa đổi bởi
Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.
Kể từ khi ban hành cho đến nay, Luật thuế giá trị gia tăng luôn thu hút sự quan tâm
đặc biệt của xã hội, của các DN, tổ chức kinh tế, tổ chức, cá nhân.
Thuế giá trị gia tăng là một sắc thuế tiến bộ và được rất nhiều quốc gia áp
dụng. Một trong những ưu điểm nổi bật của loại thuế này là số thuế phải nộp được
xác định trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng
sau mỗi công đoạn từ sản xuất, nhập khẩu, lưu thông đến tiêu dùng trên thị trường.
Tuy nhiên, thuế giá trị gia tăng cũng có những đặc điểm riêng biệt, đó là độ bao phủ
rộng lớn của sắc thuế này từ hàng hóa, dịch vụ chịu thuế cho đến người nộp thuế và
việc quản lý, sử dụng hóa đơn, chứng từ khá phức tạp. Bên cạnh đó, do đặc thù về

điều kiện kinh tế - xã hội nên thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam vẫn quy định 2
phương pháp tính thuế, trong khi những quy định về chủ thể nộp thuế của phương
pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng và bản thân phương pháp tính thuế này
đã bộc lộ nhiều điểm bất cập. Đồng thời, quy định pháp luật về hoàn thuế giá trị gia
tăng cũng được cho là có ẩn chứa những hạn chế, bất cập so với lí luận của hoàn
thuế và thực tiễn thực hiện chính sách hoàn thuế nên nhiều tổ chức, cá nhân đã lợi
dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng để chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước.

1


Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu thu hút đầu tư, yêu cầu về
cải cách hệ thống thuế thì Việt Nam đang theo xu thế giảm bớt gánh nặng về thuế
thu nhập DN, thuế nhập khẩu và sẽ tăng cường nhiệm vụ thu NSNN từ các loại thuế

Deleted: ngân sách nhà nước

gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt... Do đó, vai trò của thuế giá
trị gia tăng ngày càng quan trọng với ý nghĩa tạo lập nguồn thu cho NSNN.

Deleted: ngân sách nhà nước

Như vậy, từ những phân tích trên, cả ở phương diện khoa học, phương diện
thực tiễn và thực trạng quy định pháp luật đều đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nghiên
cứu kỹ lưỡng và toàn diện đối với hệ thống các quy định pháp luật thuế giá trị gia
tăng. Việc tiếp tục nghiên cứu cả về lý luận và thực trạng quy định pháp luật thuế
giá trị gia tăng là cần thiết nhằm tìm ra giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn
tại để đạt được mục đích cuối cùng của việc thu thuế, đồng thời đảm bảo tính công
bằng, bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh, qua đó thiết lập và duy trì môi trường
kinh doanh thuận lợi và công bằng cho các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế.

Chính v́ vậy, học viên đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Pháp luật thuế giá trị gia
tăng ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” để làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Thuế giá trị gia tăng là một sắc thuế quan trọng vì những đóng góp tích cực
vào tổng thu NSNN hàng năm, từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu,
trao đổi về thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế giá trị gia tăng ở các góc độ khác
nhau. Dưới góc độ khoa học pháp lý, một số luận án, luận văn đã cho thấy các
chuyên gia pháp lý dành nhiều thời gian cũng như trí tuệ cho mảng khoa học pháp
lý này, như luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thương Huyền: "Những vấn đề pháp lý
về việc áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam", năm 2002; luận văn thạc sĩ của
Lê Thị Bích Liên: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật thuế GTGT ở
Việt Nam”, năm 2001; luận văn thạc sĩ của Trần Thị Minh Hiền: "Pháp luật về thuế
giá trị gia tăng ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp", năm 2006, Đại học Luật Hà
Nội; luận văn thạc sĩ của Lê Thị Thủy: Thực trạng pháp luật thuế giá trị gia tăng ở
Việt Nam và đề xuất hoàn thiện pháp luật, năm 2013, Đại học Luật Hà Nội… Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, đánh giá

2

Deleted: ngân sách nhà nước


các quy định pháp luật đã lạc hậu và chưa đánh giá được tình hình áp dụng pháp
luật về thuế giá trị gia tăng hiện nay trong xã hội.
Bên cạnh các luận văn, luận án kể trên, có một số bài viết nghiên cứu, trao
đổi đưa lại nhiều góc nhìn khác nhau về pháp luật thuế giá trị gia tăng như bài viết
“Luật thuế GTGT nên sửa đổi theo hướng nào?” của tác giả Lê Thị Thu Thủy đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu lập páp năm 2011; bài viết “Một số bất cập trong quá trình
thực hiện luật thuế GTGT” của tác giả Nghiêm Thị Thà đăng trên Tạp chí Thanh tra
năm 2012... Tuy nhiên, các nghiên cứu trên mới chỉ nêu và phân tích một vài khía

cạnh về lý luận và thực trạng pháp luật về thuế giá trị gia tăng.
Bởi vậy, việc nghiên cứu tổng thể các quy định pháp luật hiện hành và đánh
giá một cách toàn diện việc áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng trong giai đoạn
hiện nay ở Việt Nam mang ý nghĩa quan trọng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu khái quát về pháp luật thuế giá trị gia tăng, từ đó đưa ra
các tiêu chí đánh giá thực trạng pháp luật thuế giá trị gia tăng. Bên cạnh đó, luận
văn phân tích toàn diện thực trạng quy định pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt
Nam hiện nay và tình hình thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật thuế giá trị gia
tăng ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các
quy định pháp luật hiện hành và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng. Từ đó, luận văn đề xuất các phương hướng
hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng, kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm
hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành và các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả
công tác thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng trong thực tiễn, đáp ứng các chính
sách thương mại của Việt Nam trong thời gian tới.
Xuất phát từ mục đích đó, nhiệm vụ khoa học của luận văn là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thuế giá trị gia tăng và pháp luật về thuế
giá trị gia tăng.
- Phân tích các nội dung pháp luật thuế giá trị gia tăng và đánh giá thực trạng áp
dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay, từ đó chỉ ra những bất cập, hạn
chế trong các quy định pháp luật. Đồng thời, luận văn cũng đưa ra nhận định về những

3


khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng. Đó
chính là cơ sở cho việc nghiên cứu đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật và các
giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng.
- Làm rõ mục tiêu hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng hiện hành, đồng


Deleted: thuế

thời, trên cơ sở lý luận và thực trạng quy định pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở
Việt Nam, luận văn đưa ra các giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm tiếp tục hoàn
thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật thuế giá trị gia tăng trên thực tiễn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là các quan điểm khoa học
về các vấn đề lý luận liên quan đến thuế giá trị gia tăng, các quy định pháp luật hiện
hành của Việt Nam về thuế giá trị gia tăng, các số liệu thực tiễn áp dụng thi hành
pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam trong những năm gần đây nhằm đưa ra
các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng, góp phần nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng trên thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn xác định phạm vi nghiên cứu bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
+ Những vấn đề lý luận về thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế giá trị gia
tăng như: Khái niệm, bản chất, đặc điểm và vai trò của thuế giá trị gia tăng; Cơ chế
bảo đảm thực hiện thuế giá trị gia tăng; Khái niệm, đặc điểm và nội dung pháp luật
thuế giá trị gia tăng.
+ Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật nội dung về thuế GTGT hiện
hành của Việt Nam với các quy định về đối tượng chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ
và phương pháp tính thuế, đến các quy định về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng
nhằm chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật hiện hành.
+ Tham khảo kinh nghiệm pháp lý của một số nước trên thế giới về thuế giá
trị gia tăng để rút ra bài học hữu ích cho Việt Nam.
+ Phân tích xu hướng phát triển của hệ thống pháp luật thuế giá trị gia tăng;
Các yêu cầu trong việc hoàn thiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng trên cơ sở đó


4

Deleted: thuế


đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay và các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật trong
thực tiễn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta về đổi mới kinh tế, quản lý nhà nước về kinh tế, hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh tế theo hướng chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
mà cụ thể là quan điểm cải cách hệ thống thuế và pháp luật về thuế, từ đó đưa ra
những mục tiêu hoàn thiện pháp luật cũng như những giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật thuế giá trị gia tăng hiện nay ở nước ta.
5.2 Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu trong đề tài bao gồm
các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu
khoa học pháp lý nói riêng như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, hệ
thống hóa pháp luật, so sánh, diễn giải, qui nạp và kiểm chứng… để khái quát cơ
sở đánh giá thực trạng pháp luật thuế giá trị gia tăng, qua đó đưa ra một số đánh
giá chung về thực trạng pháp luật thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam hiện nay.
Các phương pháp được sử dụng phù hợp với từng nội dung của các phần trong
luận văn, trong đó, phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử
dụng nhiều nhất trong luận văn nhằm đảm bảo các kết quả nghiên cứu là khách
quan và có độ tin cậy cao.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
- Ý nghĩa lí luận: luận văn nghiên cứu và trình bày cơ sở lý luận về thuế giá
trị gia tăng, các đặc điểm của thuế giá trị gia tăng và vai trò của thuế giá trị gia tăng

một các toàn diện và có hệ thống.
- Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo
cho các nhà lập pháp, người thực tiễn hành nghề luật và là tài liệu nghiên cứu có giá
trị cho giảng viên và sinh viên, học viên theo học về pháp luật thuế ở Việt Nam.

5

Deleted: trưng


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của đề tài gồm 3 chương và được sắp xếp như sau:
Chương 1: Khái quát về thuế giá trị gia tăng và pháp luật về thuế giá trị gia tăng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế giá trị
gia tăng và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
hiện nay.

6


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1. Khái quát về thuế giá trị gia tăng
1.1.1. Khái niệm, bản chất
Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) mang tính khoa học rất cao và được đánh giá
là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính công của nhiều nước trên thế
giới. So với nhiều sắc thuế khác, thuế GTGT có lịch sử phát triển không dài nhưng

là loại thuế có những ưu điểm nội trội, khắc phục được những hạn chế của thuế
doanh thu trước kia đối với hành vi tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trong xã hội.
Thuật ngữ thuế GTGT còn được hiểu theo nghĩa rộng liên quan đến người
sản xuất, người bán buôn và cả những người bán lẻ, bởi lẽ chỉ khi khái niệm thuế
GTGT được hiểu theo nghĩa mở rộng mới có khả năng giải đáp được những thắc
mắc về sự lựa chọn mà chúng ta sẽ đề cập dưới đây. Thuế GTGT bắt nguồn từ thuế
doanh thu, do một người Đức là Carl Friendrich Von Siemens đề xuất vào năm
1918 nhưng không được chính phủ Đức áp dụng vào thời bấy giờ. Đến năm 1954
loại thuế này mới chính thức được áp dụng đầu tiên tại Pháp trong một số ngành
nghề thí điểm và áp dụng với tất cả các ngành vào năm 1968. Trong quá trình áp
dụng thuế GTGT đã chứng tỏ được những đặc tính ưu việt của mình, vì vậy nó đã
nhanh chóng lan rộng ra nhiều nước khác nhau trên thế giới.[17, tr. 11] Theo nghiên
cứu và thống kê của ngân hàng thế giới (WB) và quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), ở phần
lớn các nước sau khi áp dụng thuế GTGT, giá các loại hàng hóa dịch vụ đều không
thay đổi hoặc chỉ thay đổi một tỷ lệ không đáng kể và mức sản xuất của các DN,
mức tiêu dùng của dân chúng không sút giảm, hay chỉ sút giảm một tỷ lệ nhỏ trong
thời gian đầu, kể cả các trường hợp thuế suất GTGT đối với một số mặt hàng trong
kỳ điều chỉnh. [30]
Ở Việt Nam thuế GTGT đã được nghiên cứu từ khi tiến hành các cải cách
thuế bước 1 năm 1990 và đưa vào thử nghiệm ở 11 đơn vị thuộc ngành dệt, xi măng

7


từ tháng 9/1993. Thuế GTGT được nghiên cứu đưa vào sử dụng nhằm thay thế cho
thuế doanh thu trước đây để khắc phục những hạn chế cơ bản của thuế doanh thu là
hiện tượng thuế đánh chồng thuế và sự phức tạp của việc áp dụng chi tiết từng
ngành nghề, đồng thời vẫn đảm bảo được nguồn thu ngân sách ổn định cho cả nước,
đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, chống các hành vi gian lận
thuế. Có thể nói việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam trong giai đoạn đầu là khá

mới mẻ nếu như không nói rằng so với trình độ về hệ thống kế toán của Việt Nam
tại thời điểm thuế GTGT được ban hành vào năm 1997 thì thuế GTGT là quá xa lạ
với cách tư duy vốn đã tồn tại lâu nay của người dân và các DN với cách tư duy vốn
đã tồn tại lâu nay của người dân và các DN về thuế doanh thu. Chính vì vậy, mặc dù
được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 thông qua nhưng lường trước được những
khó khăn sẽ gặp phải nếu ngay lập tức áp dụng luật thuế GTGT nên Quốc hội,

Deleted: khan

Chính phủ đã cân nhắc, quyết định phải có thời gian một năm rưỡi để chuẩn bị đủ
các điều kiện áp dụng luật thuế GTGT trên phạm vi cả nước. Có thể nói đây cũng là
một trong những luật thuế mà công tác tổ chức chuẩn bị cho việc áp dụng được tổ
chức khá công phu và kỹ lưỡng từ việc triển khai tập huấn cho các đối tượng có liên
quan đến việc trực tiếp áp dụng thuế sau này đến công tác tuyên truyền cho đông
đảo tầng lớp nhân dân hiểu và nhận thức được về thuế GTGT, về nghĩa vụ nộp thuế
GTGT của công dân đối với đất nước. Nghiệp vụ quản lý thuế và bộ máy quản lý
thuế được tổ chức lại cho phù hợp với các quy định của luật thuế GTGT; song song
với đó là việc nâng cấp và hiện đại hóa hệ thống thông tin liên lạc của ngành thuế;
các đối tượng nộp thuế được cấp mã số thuế riêng biệt để tạo cơ sở tốt hơn cho việc
quản lý đối tượng nộp thuế bằng máy tính. Một công tác đặc biệt quan trọng đến
việc thực hiện thuế GTGT là in ấn, cung cấp hóa đơn chứng từ cần thiết cho các đối
tượng nộp thiế cũng được cơ quan thuế tiến hành khẩn trương và kịp thời. Trong
quá trình áp dụng luật thuế GTGT 1997 đã phát huy được nhiều tác dụng tích cực
giúp tháo gỡ khó khăn cho các cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, sự
thay đổi của nền kinh tế thị trường đã đặt ra đòi hỏi các quy định pháp luật thuế
GTGT phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ mới phát
sinh. Do đó, năm 2003, Quốc hội đã thông qua luật sửa đổi một số điều Luật thuế

8


Deleted: khan


GTGT năm 2003. Về cơ bản, luật thuế GTGT sửa đổi năm 2003 đã điều chỉnh lại
một số nội dung như đối tượng nộp thuế, đối tượng không nộp thuế, giá tính thuế,

Deleted: trị

thuế suất, những quy định liên quan đến khấu trừ thuế và hoàn thuế…
Năm 2007, nước ta chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại
thế giới (WTO). Với sự tác động của sự phát triển kinh tế thế giới, nền kinh tế nước

Deleted: nền

ta đã có nhiều thay đổi, cùng với đó là yêu cầu về cải cách hệ thống pháp luật. Năm

Deleted: của việc

2008, để đáp ứng yêu cầu mới về hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế GTGT, ngày

Deleted: nhu

03/06/2008 tại kỳ họp Quốc hội khóa XII, Quốc hội đã nhất trí thông qua Luật thuế

Deleted: của việc
Deleted: l

GTGT, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 quy định thống nhất về thuế GTGT
và thay thế cho các văn bản trước đây về vấn đề này.


Deleted: quy định

Năm 2013 là năm bản lề trong cải cách chính sách thuế, đánh dấu bằng việc
ra đời của một loạt Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành các Luật thuế được sửa
đổi bổ sung trong năm. Ngày 19 tháng 6 năm 2013, Quốc Hội đã thông qua Luật số
31/2013/QH13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, quy định
một số nội dung sửa đổi, bổ sung về đối tượng chịu thuế GTGT, về phương pháp
tính thuế giá trị gia tăng, vấn đề hoàn thuế GTGT và ưu đãi giảm thuế GTGT đối

Deleted: giá

với các dịch vụ liên quan đến nhà ở xã hội và nhà ở thương mại tại Việt Nam.
Nhằm khắc phục những hạn chế của pháp luật thuế GTGT cho phù hợp với thực
tiễn điều chỉnh và đồng bộ các quy định pháp luật điều chỉnh thuế GTGT, thuế tiêu
thụ đặc biệt và pháp luật quản lý thuế, ngày 06/4/2016, Quốc hội ban hành Luật sửa
đổi bổ sung số 106/2016/QH13 sửa đổi một số nội dung về đối tượng chịu thuế và
phương pháp tính thuế GTGT.

Deleted: ¶

Về khái niệm thuế GTGT, theo quy định tại Điều 2 Luật thuế GTGT năm
2008: “Thuế GTGT là thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ
phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.”
Xét về bản chất, thuế GTGT là loại thuế gián thu vì vậy nó cũng mang đầy
đủ các đặc điểm của thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch
vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực chất là người chịu thuế thông
qua giá cả của hàng hóa, dịch vụ. Điều này giúp các cơ quan thu thuế GTGT tránh
được sự phản ứng gay gắt về thuế, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc

9


Deleted: dung


quản lý, việc thu, nộp thuế GTGT. Mặt khác, nó cũng có khả năng tác động tới sức
mua của công chúng do phần thuế này đã được cấu thành trong giá bán hàng hóa,
cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng, do đó việc thực hiện thuế GTGT có thể làm
ảnh hưởng tới mức độ tiêu dùng xã hội và lạm phát của nền kinh tế.

Deleted: mức độ

1.1.2. Đặc điểm, vai trò của thuế giá trị gia tăng
Nhìn chung, thuế GTGT có các đặc điểm cơ bản sau:

Deleted: trưng

Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Thuế GTGT là thuế
gián thu cộng thêm vào giá bán, không phải là một yếu tố chi phí, do đó nó không
chịu ảnh hưởng bởi sự phân chia các chu trình kinh tế mà chỉ nhằm động viên một
phần thu nhập của đại bộ phận người tiêu dùng trong xã hội vào NSNN. Vì vậy,

Deleted: ngân sách nhà nước

thuế GTGT xuất hiện ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ. Điều đó không chỉ mở rộng đối tượng chịu thuế ra nhiều
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà nó còn có chủ thể chịu thuế nhiều hơn các loại thuế
khác. Mọi đối tượng tồn tại trong xã hội, không phân biệt người giàu hay người
nghèo, tổ chức hay cá nhân đều có thể trở thành chủ thể chịu thuế GTGT thông qua
việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Điều này thể hiện sự công bằng của thuế đồng
thời thể hiện thái độ của nhà nước đối với các hành vi tiêu dùng trong xã hội. Đối


Deleted: loại

với các trường hợp hàng hóa, dịch vụ có số thu không lớn, là sản phẩm của những
ngành vẫn còn gặp nhiều khó khăn hoặc Nhà nước đang có chính sách khuyến

Deleted: khan

khích phát triển, việc tổ chức quản lý thu nộp không dễ dàng, Nhà nước sẽ không

Deleted: …

đánh thuế hoặc đánh thuế với mức thuế suất thấp. Nhìn chung, thuế GTGT áp dụng
với hầu hết các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, kinh doanh từ khâu sản xuất, nhập
khẩu cho đến khâu kinh doanh và tiêu dùng, chỉ trừ một số ít hàng hóa hoặc dịch vụ
thiết yếu nhà nước cần khuyến khích hỗ trợ dựa trên tình hình kinh tế - xã hội và
mục tiêu phát triển mà quốc gia đó theo đuổi.
Thứ hai, thuế GTGT được tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch
vụ: Việc chỉ đánh thuế trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ là yếu tố

Deleted: là
Deleted: .

tích cực, không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Điểm cốt lõi ở
đây là cần làm rõ phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các khâu lưu
thông, một mặt lý giải cho cơ sở xác định số thuế GTGT phải nộp, mặt khác đưa ra

10

Deleted: á



phương án khả thi để xác định phần giá trị tăng thêm qua mỗi khâu lưu thông. Một
số quan điểm được đưa ra như sau:
Có quan điểm cho rằng: “GTGT của hàng hóa, dịch vụ là giá trị cộng thêm ở
mỗi giai đoạn của diễn tiến kỹ nghệ hay thương mại mà sản phẩm đó đã trải qua kể
từ khi còn là nguyên liệu cho tới tay người tiêu thụ. Giá trị của sản phẩm mỗi khi
qua một giai đoạn là diễn tiến kỹ nghệ hay thương mại tăng lên. Chính các sự tăng
giá trị này phải chịu thuế. Do đó, ta gọi nói là thuế đánh vào giá trị cộng thêm.” Bên
cạnh đó, có quan điểm khác cho rằng: “GTGT được hiểu là giá trị tăng thêm của
sản phẩm hàng hóa hoặc hoạt động dịch vụ do cơ sở sản xuất, chế biến, gia công,
dịch vụ tác động vào nguyên vật liệu thô bán thành phẩm hoặc sản phẩm hàng hóa
mua vào làm cho giá trị chúng tăng thêm. Hay nói cách khác, giá trị tăng thêm của
khoản chênh lệch giữa giá trị đầu ra và đầu vào của một số sản phẩm hàng hóa và
mỗi sản phẩm hàng hoá trước khi được phân phối đến tay người tiêu dùng thường
phải trải qua nhiều công đoạn như sản xuất, bán buôn, bán lẻ. Giá trị hàng hóa, dịch
vụ ngày càng tăng lên qua mỗi công đoạn. Thông thường ở giai đoạn đầu tiên cơ sở
sản xuất phải dùng nguyên, nhiên, vật liệu là chủ yếu, còn đối với các giai đoạn sau,
giá trị tăng thêm chủ yếu do sức lao động và lợi nhuận tạo nên”. [28, tr.24] Thêm
nữa, bên cạnh những quan điểm trên còn rất nhiều quan điểm khác đề cập tới khái
niệm và cách xác định giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Tuy có sự khác biệt
nhưng những quan điểm trên đây đều được đưa ra dựa trên cơ sở những công trình
nghiên cứu khoa học pháp lý đã được tiến hành. Nhưng dù tiếp cận theo quan điểm
nào cũng đều có điểm chung của “phần giá trị tăng thêm” là sự chênh lệch giá trị
đầu ra và đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sau mỗi giai đoạn. Mà căn nguyên của sự
gia tăng về giá trị đó là do những tác động của nhà sản xuất, nhà kinh doanh tới
hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, việc xác định trên thực tế phần giá trị tăng thêm là
không dễ dàng. Để biết chính xác lượng giá trị tăng thêm đó thì một yếu tố cần xác
định là sức lao động đã bỏ ra. Thông thường, sức lao động sẽ được xác định dựa
trên thời gian làm việc như số giờ, số ngày làm việc, năng suất lao động nhưng để

bóc tách lại không hề dễ dàng. Do vậy, phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ
thường căn cứ dựa trên giá trị trao đổi của hàng hóa dịch vụ ấy. Do giá trị trao đổi

11


và GTGT không phải là một, giá trị trao đổi chỉ có thể phản ánh được phần nào yếu
tố GTGT vì trong nhiều trường hợp giá trị thực của hàng hóa, dịch vụ không tăng,
tức là không có phần giá trị tăng thêm nhưng giá trị trao đổi vẫn có thể tăng và
ngược lại. Bởi giá trị trao đổi còn phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài như cung,
cầu của thị trường hay thị hiếu của người tiêu dùng.
Có thể thấy, về nguyên tắc thuế GTGT chỉ cần đánh vào khâu tiêu dùng cuối
cùng là có thể xác định được toàn bộ GTGT của hàng hóa từ khâu đầu tiên (khâu
sản xuất hoặc nhập khẩu) đến khâu cuối cùng (khâu tiêu dùng). Tuy nhiên, việc xác
định khâu tiêu dùng cuối cùng và thời điểm xác định khâu cuối cùng cũng không
đơn giản. Do đó, khi kết thúc mỗi khâu lưu thông hàng hóa mà có phát sinh thêm
GTGT thì phải đánh thuế ngay để đảm bảo số thuế GTGT thu về cho nhà nước. Về
cơ bản, quá trình này có thể được nhìn nhận từ khi các nhà sản xuất mua nguyên,
nhiên, vật liệu sau đó qua quá trình sản xuất, chế biến tạo GTGT để bán cho các nhà
bán buôn; sau đó các nhà bán buôn phân phối đến các nhà bán lẻ và cuối cùng các
nhà bán lẻ phân phối đến tay người tiêu dùng. Sau mỗi một khâu lưu thông, nếu
hàng hóa, dịch vụ phát sinh thêm GTGT thì thuế GTGT sẽ được đánh ngay vào
phần GTGT đó.
Ngoài ra, đây là cũng đặc điểm khác biệt cơ bản và cũng là nguyên nhân Nhà
nước tiến hành áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu. Nếu như trước đây
thuế doanh thu đánh vào toàn bộ giá trị của sản phẩm ở tất cả các khâu trong quá
trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ gây ra hiện tượng đánh thuế
chồng thuế thì thuế GTGT chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch
vụ trong mỗi khâu. Như vậy, về cơ bản giá cả của hàng hóa dịch vụ bị thay đổi,
tổng số thuế thu được của tất cả các giai đoạn đúng bằng tổng số thuế tính trên giá

bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Đặc điểm này không chỉ giải quyết những
nhược điểm của thuế doanh thu trước đây mà nó còn góp phần hạn chế tình trạng
lạm phát và phản ứng của người tiêu dùng do giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao sau
mỗi khâu của quá trình lưu thông.
Với đặc điểm trên, trong quá trình triển khai áp dụng, các nhà làm luật cũng
cần phải tìm ra cách thức, phương pháp phù hợp, có tính khả thi để xác định được

12

Deleted: qúa


phần giá trị tăng thêm làm căn cứ tính thuế. Đây là căn cứ quan trọng để việc tính
thuế được thực hiện chính xác, nghiêm túc và đạt hiệu quả. Hiện nay, nhằm đảm
bảo việc xác định phần giá tăng thêm làm căn cứ tính thuế, phần giá trị tăng thêm
của hàng hóa, dịch vụ được coi là căn cứ quan trọng để việc tính thuế được thực
hiện chính xác, nghiêm túc và đạt hiệu quả. Hiện nay, nhằm đảm bảo việc xác định
phần giá trị tăng thêm là đối tượng chịu thuế GTGT, pháp luật thuế GTGT quy định
hai phương pháp tính thuế là phương pháp tính trực tiếp và phương pháp khấu trừ
thuế. Các phương pháp này đều được thực hiện dựa trên cơ sở chứng từ chứng minh
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể nộp thuế nhằm đảm bảo khả
năng kiểm soát của Nhà nước đối với các chủ thể nộp thuế cũng như tạo cơ hội cho
các chủ thể nộp thuế tự kiểm soát lẫn nhau.
Thứ ba, thuế GTGT là loại thuế gián thu. Vì đây là thuế đánh vào việc tiêu
dùng hàng hóa hoặc dịch vụ, nó không đánh trực tiếp vào thu nhập của người nộp
thuế mà đánh vào người tiêu dùng. Do đó, tiền thuế là yếu tố được cộng vào trong
giá bán của hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng phải trả khi mua hàng. Đối với
thuế GTGT, người nộp thuế và người chịu thuế về cơ bản là khác nhau, trong đó
người mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ là người chịu thuế và có nghĩa vụ chi trả
một khoản tiền thuế cho người cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Người bán hàng, cung

ứng dịch vụ sẽ có nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN số thuế giá trị gia tăng thay cho
người mua hàng, người sử dụng dịch vụ. Mối quan hệ này xảy ra chủ yếu giữa
người tiêu dùng và các cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu hàng hóa hoặc chủ thể kinh
doanh cung ứng dịch vụ. Chính vì khoản tiền thuế GTGT mà người tiêu dùng phải
trả đã ẩn trong số tiền thanh toán và họ cũng không phải là người có nghĩa vụ đi nộp
thuế GTGT cho nhà nước nên người tiêu dùng không cảm nhận rõ áp lực về thuế
GTGT và đây cũng là ưu điểm của thế gián thu. Tuy nhiên, không phải lúc nào
trong thuế GTGT người nộp thuế và người chịu thuế cũng là hai chủ thể khác nhau.
Trong trường hợp, một cơ sở sản xuất hay một DN mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ
của một chủ thể khác nhưng lại không tiếp tục bán hàng hóa hay cung ứng dịc vụ
này thì lúc này chính DN hay cơ sở sản xuất đó là chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế
GTGT nhưng cũng đồng thời là chủ thể gánh chịu số thuế GTGT đó.

13

Deleted: ngân sách nhà nước


Thứ tư, thuế GTGT mang bản chất liên hoàn và có tính trung lập kinh tế cao.
Trong cơ chế vận hành của thuế GTGT luôn tồn tại nét đặc thù là bản chất liên
hoàn. Điều này được nhìn nhận khi một cơ sở kinh doanh mua hàng hóa, sử dụng
dịch vụ của cơ sở kinh doanh khác làm nguyên liệu đầu vào để sản xuất, chế biến
sau đó bán ra cho cơ sở kinh doanh khác. Cơ sở kinh doanh mua sản phẩm đầu ra
của cơ sở kinh doanh trước lại tiếp tục sản xuất, chế biến hàng hóa, dịch vụ để tạo
GTGT và bán cho cơ sở kinh doanh khác hoặc người tiêu dùng. Với cơ chế vận
hành như vậy, khi kết thúc mỗi công đoạn chủ thể mua hàng hóa hay sử dụng dịch
vụ chịu thuế GTGT sẽ phải chuyển giao một giá trị thuế GTGT (thuế GTGT đầu
vào) đã bao gồm trong giá mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ và chủ thể bán hàng sẽ
tiếp nhận số thuế GTGT ðó (thuế GTGT ðầu ra) để nộp vào NSNN. Điều này có


Deleted: ngân sách nhà nước

nghĩa, số thuế GTGT đầu vào của cơ sở kinh doanh này sẽ là số thuế GTGT đầu ra
của cơ sở kinh doanh khác. Như vậy, nhìn vào quá trình mỗi hàng hóa, dịch vụ lưu
thông trên thị trường, sản phẩm đầu ra của cơ sở kinh doanh này là sản phẩm đầu
vào của cơ sở kinh doanh khác và quá trình này cứ vận hành lặp đi lặp lại như vậy
cho tới khi sản phẩm được tiêu dùng. Do thuế GTGT chỉ đánh trên phần giá trị tăng
thêm của hàng hóa, dịch vụ vì vậy việc thực hiện thuế GTGT có sự liên hệ chặt chẽ
giữa các khâu của quá trình lưu thông hàng hóa, dịch vụ. Kết quả thực hiện của
khâu trước sẽ là cơ sở để tiến hành khâu tiếp theo của cả quá trình và ngược lại việc
thực hiện khâu sau sẽ kiểm tra lại tính chính xác của quá trình thực hiện khâu trước
đó. Đây là một chu trình thực hiện liên hoàn và có tính đồng bộ nhằm đảm bảo quá
trình thu nộp thuế đạt được kết quả tốt nhất.
Trong quá trình nộp thuế GTGT, với bản chất liên hoàn và cơ chế khấu trừ,
số thuế GTGT phải nộp không chỉ phụ thuộc vào giá tính thuế và thuế suất thuế
GTGT mà còn phụ thuộc vào số thuế GTGT đầu vào. Tuy nhiên, bản chất liên hoàn

Deleted: đặc trưng

của thuế GTGT có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng nếu xảy ra việc miễn thuế ở một
khâu lưu thông nào đó. Cơ chế khấu trừ thuế GTGT xác định số thuế GTGT phải
nộp bằng số thuế GTGT đầu ra trừ số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, như vậy
việc không phải nộp số thuế GTGT đầu ra sẽ làm đứt đoạn, phá vỡ tính liên hoàn
trong quá trình vận hành của thuế GTGT. Vì vậy, vấn đề miễn thuế trong thuế

14

Deleted: pải



GTGT phải hạn chế được đặt ra và phải được nghiên cứu cẩn trọng, Pháp luật thuế
GTGT của một số quốc gia cũng có những quy định đối với số thuế GTGT đầu ra
như quy định hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT hay quy định mức thuế suất
0% đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu hoặc thực hiện
một số chính sách về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên điều này cần hết sức hạn chế để
tránh làm ảnh hưởng tới tính liên hoàn của thuế GTGT cũng như quyền lợi của các
cơ sở sản xuất, kinh doanh trong việc khấu trừ, hoàn thuế GTGT.
Thuế GTGT là một đại lượng vật chất mà chủ thể mua hàng hóa, sử dụng
dịch vụ chuyển giao cho chủ thể bán hàng, cung ứng dịch vụ. Khoản thuế này đi
kèm với giá bán hàng hóa và nó không phải là một khoản chi phí của cơ sở kinh
doanh. Ngoài ra, thuế GTGT không phải là yếu tố cộng thêm ngoài giá bán của
người cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, thuế GTGT không bị ảnh hưởng trực tiếp
bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế, bởi quá trình tổ chức và phân chia các
chu trình kinh tế, sản phẩm được luân chuyển qua nhiều hay ít giai đoạn thì tổng số
thuế GTGT phải nộp của tất cả các giai đoạn không thay đổi. Tổng số thuế GTGT ở
các giai đoạn khớp với số thuế GTGT ở khâu cuối cùng. Điều này làm nên tính
trung lập kinh tế cho thuế GTGT.
Từ các đặc điểm trên có thể thấy ưu điểm của thuế GTGT là khắc phục được
tình trạng đánh trùng thuế bằng việc chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng
hóa, dịch vụ cùng với cơ chế khấu trừ; diện đánh thuế rộng từ hàng hóa, dịch vụ
chịu thuế cho đến người nộp thuế và người chịu thuế nên tạo điều kiện thuận lợi để
Nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội; thuế GTGT là thuế gián thu, số
thuế GTGT phải nộp đã nằm ẩn bên trong giá mua hàng hóa, dịch vụ và người tiêu
dùng không phải đi nộp thuế nên không tạo ra áp lực về thuế tới người chịu thuế.
Tuy nhiên, tính lũy thoái là nhược điểm cố hữu của loại thuế này. Tính chất cào
bằng được thể hiện khi mua cùng một loại hàng hóa, sử dụng cùng một loại dịch vụ
chịu thuế GTGT thì người tiêu dùng sẽ phải trả một khoản tiền như nhau, tức phải
chịu số tiền thuế GTGT như nhau. Dù là người có thu nhập cao hay thu nhập thấp
thì đều phải trả một khoản thuế GTGT như nhau khi mua hàng hoặc sử dụng dịch
vụ chịu thuế GTGT. Như vậy, với những hàng hóa, dịch vụ chịu mức thuế suất thuế

GTGT cao thì người có thu nhập thấp sẽ phải chịu tác động về thu nhập nhiều hơn
so với người có thu nhập cao.

15


Thuế là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô
đối với nền kinh tế, tạo lập nguồn thu chủ yếu cho NSNN. Nền kinh tế nước ta đang

Deleted: ngân sách nhà nước

trong quá trình vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN có sự quản lý
của nhà nước, do đó, các loại thuế nói chung, thuế GTGT nói riêng có vai trò rất
quan trọng và được thể hiện như sau:
Thứ nhất, thuế GTGT bảo đảm nguồn thu quan trọng và ổn định cho NSNN:

Deleted: ngân sách nhà nước

thuế GTGT huy động và xác định ngay từ khâu đầu và việc thu thuế GTGT ở khâu
sau còn kiểm tra việc tính thuế GTGT đã nộp ở khâu trước nên hạn chế được việc
thất thu thuế, kiểm soát được nguồn thu trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa,
thuế GTGT có diện đánh thuế rộng, áp dụng với hầu hết các loại hŕng hóa, dịch vụ
được tiêu dùng trên phạm vi lãnh thổ nên giá trị thuế thu được chiếm tỷ lệ lớn trong
tổng các khoản thu từ thuế tạo lập nguồn thu cho NSNN. Hơn nữa, vì thuế GTGT là

Deleted: ngân sách nhà nước

thuế gián thu, người nộp thuế về cơ bản không đồng thời là người chịu thuế nên ít
gây phản ứng về thuế. Điều này góp phần đảm bảo nguồn thu cho NSNNs, đảm bảo
cho nhà nước duy trì sự hoạt động của bộ máy và giúp cho nhà nước thực hiện các

chức năng và nhiệm vụ của mình.

Bảng 1.1. Tỷ trọng VAT trong thu ngân sách, 2015-2016 [38]

16

Deleted: ngân sách nhà nước


Thứ hai, thuế GTGT có vai trò là công cụ của nhà nước để điều tiết hoạt
động kinh tế và hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội. Thông qua việc xác định giá trị
phần tăng thêm của hàng hóa dịch vụ qua các chứng từ một mặt, Nhà nước kiểm
soát được mọi hoạt động của chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế, đánh giá được
tình hình sản xuất kinh doanh của các chủ thể, từ đó có biện pháp tác động để điều
tiết hoạt động kinh doanh của các chủ thể này, qua đó định hướng hoạt động tiêu
dùng các hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh trong nền kinh tế. Ngoài ra, việc
khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá,
chuyên môn hoá sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá
thành sản phẩm.
Thứ ba, thuế GTGT là công cụ giúp nhà nước kiểm soát được hoạt động sản
xuất, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nhờ kiểm soát được hệ thống hóa
đơn, chứng từ, hạn chế tình trạng trốn thuế. Việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng được
thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người
bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán; khắc phục được tình
trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế ở khâu bán lẻ
thường xảy ra trốn lậu thuế. Người tiêu dùng không cần đòi hỏi hoá đơn, vì đối với
họ không còn xảy ra việc khấu trừ thuế. Tuy vậy, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá trị
tăng thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu này không nhiều. Ngoài ra, thông
qua việc kiểm tra hóa đơn chứng từ, các chủ thể kinh doanh dần đi vào khuôn khổ
pháp luật và Nhà nước cũng tạo điều kiện cho các chủ thể này tự kiểm soát lẫn

nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao.
Thứ tư, thuế GTGT góp phần bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hợp
lý và khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu. Thông qua việc đánh thuế GTGT đối với
hàng nhập khẩu ngay từ khi đi vào lãnh thổ Việt Nam, hàng hóa nhập khẩu thuộc
diện chịu thuế phải chịu sự bất lợi hơn so với hàng hóa được sản xuất trong nước,
qua đó, nhà nước có thể thực hiện được chính sách bảo hộ đối với những ngành
công nghiệp còn non trẻ ở trong nước. Bên cạnh đó, hàng xuất khẩu không những
không nộp thuế giá trị gia tăng mà còn được khấu trừ hoặc được hoàn lại số thuế giá
trị gia tăng đầu vào nên có tác dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh

17


×