Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Pháp luật về trợ giúp xã hội thường xuyên từ thực tiễn tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƯỜNG XUYÊN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI BÌNH

HOÀNG THỊ LEN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN HIỀN PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2018
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hiền Phương, Khoa pháp luật Kinh tế, Trường Đại
học Luật Hà Nội.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.
Người thực hiện

Hoàng Thị Len


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong Viện Đại học Mở Hà Nội


– Khoa sau đại học, Khoa Luật kinh tế đã giúp đỡ em, cung cấp các kiến thức cần
thiết, hướng dẫn em học tập, nghiên cứu trong suốt quá trình tham gia chương trình
học tập tại nhà trường và thực hiện luận văn thạc sỹ này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Cô giáo, PGS.TS Nguyễn
Hiền Phương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn thạc sỹ này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể lãnh đạo và cán bộ Sở Lao động, Thương binh và
Xã hội Thái Bình đã tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp thông tin, số liệu cũng như
trao đổi những kinh nghiệm thực tiễn công tác giúp tôi nghiên cứu đề tài, hoàn
thành luận văn này. Xin cảm ơn các thầy cô, bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài, hoàn thành luận văn.
Mặc dù bản thân đã rất nỗ lực song luận văn không tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô và quý độc giả
Trân trọng./.
Ngày 26 tháng 12 năm 2018
Học viên

Hoàng Thị Len


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI
THƯỜNG XUYÊN VÀ PHÁP LUẬT TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƯỜNG
XUYÊN .................................................................................................................. 8
1.1


Khái niệm trợ giúp xã hội thường xuyên ................................................... 8

1.1.1 Định nghĩa trợ giúp xã hội thường xuyên ...................................................... 8
1.1.2 Đặc điểm của trợ giúp xã hội thường xuyên ................................................ 10
1.1.3 Vai trò, ý nghĩa của trợ giúp xã hội thường xuyên ....................................... 12
1.2

Pháp luật trợ giúp xã hội thường xuyên .................................................. 15

1.2.1 Nguyên tắc cơ bản của trợ giúp xã hội thường xuyên .................................. 15
1.2.2 Nội dung pháp luật trợ giúp xã hội thường xuyên........................................ 18
1.3

Các yếu tố tác động đến quy định và thực hiện pháp luật trợ giúp
xã hội thường xuyên .................................................................................. 21

KẾT LUẬN CHƯƠNG I ..................................................................................... 24
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TRỢ GIÚP XÃ HỘI
THƯỜNG XUYÊN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH THÁI
BÌNH .................................................................................................................... 25
2.1

Thực trạng quy định pháp luật trợ giúp xã hội thường xuyên ............... 25

2.1.1 Chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên .......................................................... 25
2.1.2 Thủ tục hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên .............................................. 33
2.1.4 Tài chính thực hiện trợ giúp xã hội thường xuyên ....................................... 37
2.1.5 Tổ chức thực hiện trợ giúp xã hội thường xuyên ......................................... 37



2.2

Thực tiễn thực hiện pháp luật trợ giúp xã hội thường xuyên tại tỉnh
Thái Bình ................................................................................................... 39

2.2.1 Giới thiệu tổng quan về tỉnh Thái Bình và hoạt động trợ giúp xã hội........... 39
2.2.2 Những kết quả đạt được từ thực tiễn thực hiện trợ giúp xã hội thường
xuyên tại tỉnh Thái Bình .............................................................................. 42
2.2.3 Những tồn tại và nguyên nhân..................................................................... 52
KẾT LUẬN CHƯƠNG II ................................................................................... 56
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRỢ
GIÚP XÃ HỘI THƯỜNG XUYÊN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢTHỰC
HIỆN TẠI TỈNH THÁI BÌNH ............................................................................ 57
3.1

Định hướng hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội thường xuyên...... 57

3.2

Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về trợ giúp xã hội
thường xuyên............................................................................................. 59

3.3

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trợ giúp xã
hội thường xuyên tại Thái Bình................................................................ 62

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 69



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

BHYT

Bảo hiểm y tế

TGXH

Trợ giúp xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Số lượng đối tượng trợ giúp xã hội thường xuyên của tỉnh Thái Bình
phân theo địa bàn .................................................................................. 41
Bảng 2.2 Tình hình đối tượng và kinh phí trợ cấp xã hội hàng tháng tại tỉnh
Thái Bình.............................................................................................. 44
Bảng 2.3 Tình hình cấp thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng trợ giúp xã hội tại tỉnh
Thái Bình.............................................................................................. 45



MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Quá trình phát triển của xã hội với những quy luật của nó, quy luật phát triển
không đồng đều, có người tạo cơ hội vươn lên thành đạt trong cuộc sống, có người
không may mắn trong cuộc sống. Trong xã hội luôn tồn tại một bộ phận thành viên
xã hội rơi vào cảnh “rủi ro” bị suy giảm kinh tế hoặc không còn khả năng về kinh tế
để tự bảo đảm cuộc sống. Tập hợp những người như vậy trở thành bộ phận những
người yếu thế trong xã hội và cần có sự trợ giúp của cộng đồng để có thể duy trì,
đảm bảo cuộc sống hoặc vươn lên vượt qua khó khăn. Nhà nước, xã hội, cộng đồng
và gia đình cũng như từng thành viên trong xã hội phải chia sẻ với họ. Có những
người mà hoàn cảnh khó khăn trở nên kéo dài, thậm chí là không thể khắc phục,
chấm dứt được. Chính vì vậy trợ giúp xã hội thường xuyên đã trở thành một trong
những chính sách của hệ thống an sinh xã hội ở các quốc gia.
Thể chế hóa chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên, các quốc gia ban hành
pháp luật quy định chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên và tổ chức thực hiện phù
hợp với đặc điểm riêng của mình. Việt Nam là một đất nước trải qua nhiều cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, lại bị ảnh hưởng của thiên tai và biến đổi khí hậu; đang
trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh nên hiện nay số người cần trợ
giúp xã hội là rất lớn, chiếm hơn 20% dân số cả nước, trong đó có nhiều đối tượng
cần được trợ giúp thường xuyên. Hiện nay, số người cần trợ giúp xã hội trên cả
nước rất lớn, khoảng 22,5 triệu người, chiếm 25% dân số. Trong đó, có trên 10 triệu
người cao tuổi không có lương hưu; 7,6 triệu người khuyến tật; 1,5 triệu trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt. Đó là chưa kể 2,9 triệu hộ nghèo và cận nghèo, hơn 1,8 triệu hộ
gia đình cần được trợ cấp hằng tháng; khoảng 254.000 người nhiễm HIV/AIDS,
hơn 200.000 người nghiện ma túy, 30.000 nạn nhân bạo hành gia đình và nhiều phụ
nữ, trẻ em bị ngược đãi, xâm hại cần được trợ giúp [30].Trợ giúp xã hội thường
xuyên là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nướcta, xuất phát từ truyền thống
tương thân, tương ái của dân tộc ta đối với bộ phận dân cư yếu thế, gặp khó khăn
1



trong cuộc sống. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban chấp hành
Trung ương khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 nhấn
mạnh: “Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ
hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên
phù hợp với khả năng ngân sách Nhà nước. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp
với điều kiện kinh tế-xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện được hưởng trợ
giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ
thống cơ sở trợ giúp xã hội, phát triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc
biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các
mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ em mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình
nhà dưỡng lão”. Pháp luật nước ta quy định về chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên
qua các thời kỳ có những thay đổi phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Tuy
nhiên cho đến nay, chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên vẫn còn những bất cập
khi triển khai trong thực tiễn, chưa đạt được những kỳ vọng đặt ra.
Thái Bình là một tỉnh ở ven đồng bằng sông Hồng của nước ta, nền kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.
Trong những năm qua, các cơ quan chức năng tại tỉnh đã tích cực triển khai thực hiện
các quy định pháp luật về trợ giúp xã hội, mang lại những kết quả có ý nghĩa rất lớn đối
với việc chăm lo, ổn định đời sống người dân, an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh. Tuy
nhiên quá trình thực hiện đã bộc lộ những hạn chế từ nhiều nguyên nhân khác nhau,
bao gồm cả những quy định chính sách và điều kiện thực hiện. Để công tác trợ giúp xã
hội thường xuyên của tỉnh đi vào cuộc sống một cách thiết thực, thực sự trở thành chỗ
dựa vững chắc cho đối tượng thiệt thòi, yếu thế góp phần đảm bảo an sinh xã hội thì
việc nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội thường xuyên trên địa
bàn tỉnh là rất cần thiết. Do đó tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về trợ giúp xã hội
thường xuyên từ thực tiễn tỉnh Thái Bình” cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo tìm hiểu của tác giả, có một số công trình nghiên cứu về trợ giúp xã hội, trợ
giúp xã hội thường xuyên ở góc độ lý luận, chính sách, thực tiễn có thể kể đến như:

2


Sách và tạp chí:

- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục Bảo trợ xã hội (200), Hệ thống
các văn bản pháp luật về bảo trợ xã hội, NXB Lao động – Xã hội.

- Nguyễn Đình Liêu, (2000), “Trợ cấp xã hội trong hệ thống an sinh xã hội ở
Việt Nam”.

- Lê Bạch Dương và các tác giả, (2005), “Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt
thòi ở Việt Nam”, NXB Thế giới, Hà Nội.

- Nguyễn Hải Hữu, (2007), “Giáo trình nhập môn an sinh xã hội”, NXB Lao
động- xã hội, Hà Nội.

- Nguyễn Văn Định, (2008), “Giáo trình an sinh xã hội”, NXB Đại học Kinh
tế quốc dân, Hà Nội.

- Nguyễn Văn Tuân, (2015), “Chính sách trợ giúp xã hội cho người nghèo ở
Việt Nam- thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Khoa học và xã hội Việt Nam, số 7
(92)/ 2015.

- Nguyễn Ngọc Toản, (2015), “Giải pháp trợ giúp xã hội ở Việt Nam”, Tạp
chí Lao động và Xã hội số 4/2015.

- Nguyễn Văn Hồi, (2016), “Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội, đảm bảo an
sinh xã hội bền vững”, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 3/2016.
Về đề tài, công trình nghiên cứu:

- Nguyễn Ngọc Toản, (2010), Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên cộng
đồng ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân.
-Hà Thị Thanh Lê, (2010), Chính sách bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, Học viện
chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Đại Đồng, (2011), Chính sách bảo trợ xã hội đối với một số đối tượng
yếu thế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản
lý, Học viện chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.
3


- Phạm Thị Trang, (2016), Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Luật, Đại học
quốc gia Hà Nội.
- Đào Quang Hưng (2016), Pháp luật về bảo trợ xã hội cho người trên 80 tuổi
và thực tiễn thi hành tại quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
Có thể thấy rằng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về trợ giúp xã hội
nói chung tuy nhiên rất ít công trình nghiên cứu về trợ giúp xã hội thường xuyên,
trợ giúp xã hội thường xuyên gắn với một địa phương cụ thể. Do đó, nghiên cứu
về pháp luật trợ giúp xã hội thường xuyên từ thực tiễn tỉnh Thái Bình vẫn là một
đề tài mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về trợ
giúp xã hội thường xuyên tại tỉnh Thái Bình hiện nay, luận văn đưa ra những đề
xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về trợ giúp xã hội thường xuyên tại tỉnh Thái Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn tập trung giải quyết các
nhiệm vụ chủ yếu sau:

-Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về trợ giúp xã hội
thường xuyên.
-Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả thực hiện pháp luật trợ giúp xã hội
thường xuyên tại tỉnh Thái Bình.
-Đề xuất hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về trợ giúp xã hội thường xuyên tại tỉnh Thái Bình.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay ở nước ta, các văn bản pháp luật có quy định trực tiếp hoặc gián tiếp
về trợ giúp xã hội thường xuyên bao gồm Bộ luật lao động, Luật bảo vệ và chăm
sóc sức khỏe trẻ em, Luật người cao tuổi, Luật người khuyết tật… trong đó cụ thể
và trực tiếp nhất là Nghị định số 136/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chính
sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Thông tư liên tịch số
29/2014/TTLT-BLĐTBXH – BTC ngày 24/10/2014 hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định
chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Luận văn nghiên cứu
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trợ giúp xã hội thường xuyên,
chủ yếu là quy địnhtại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013, Thông tư
liên tịch số 29/20114/TTLT-BLĐTBXH – BTC. Nghiên cứu về việc tổ chức thực
hiện các quy định của pháp luật về trợ giúp xã hội thường xuyên tại tỉnh Thái Bình
trong những năm gần đây. Trong trường hợp cần thiết, một số vấn đề được đặt trong
tương quan so sánh với một số địa phương khác và cả nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta vềchính sách trợ giúp xã hội, dựa trên phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận văn sử dụng phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp so

sánh, phương pháp tổng hợp, …trong đó chú trọng hai phương pháp sau:
Phương pháp thống kê: Luận văn sử dụng phương pháp này để thống kê thực
trạng các nhóm đối tượng cần được trợ giúp và thống kê các nguồn lực để thực hiện
chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại Thái Bình.
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Luận văn phân tích đối tượng nghiên cứu
thành từng bộ phận, từng lĩnh vực, để thấy rõ hơn thực trạng chính sách trợ giúp xã
hội thường xuyên, từ đó khái quát, tổng hợp những kết quả đạt được, những thành
tựu và hạn chế của chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên.
5


6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn sau đây:
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về trợ
giúp xã hội thường xuyên.
- Phân tích quy định pháp luật hiện hành về trợ giúp xã hội thường xuyên.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội
thường xuyên tại tỉnh Thái Bình, nghiên cứu chỉ ra những kết quả đạt được, những
hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội thường xuyên
và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trợ giúp
xã hội thường xuyên tại tỉnh Thái Bình, qua đó góp phần thực hiện chính sách an
sinh xã hội, đảm bảo đời sống nhân dân địa phương.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Việt Nam là một đất nước đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, công cuộc xây
dựng lại đất nước đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng bên cạnh đó, đời
sống một bộ phận dân cư còn nhiều khó khăn. Các chính sách an sinh xã hội, trong
đó có chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên có vai trò, ý nghĩa to lớn đối với
người dân và sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đề án “Đổi mới, phát triển
trợ giúp xã hội giai đoạn 2017-2025 và tầm nhìn đến năm 2030” đã được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt vào ngày 14/4/2017 tại Quyết định số 488/QĐ-TTg ngày
14/4/2017. Đề án tập trung vào ba hợp phần cơ bản là: Chính sách trợ cấp xã hội
(trong đó đã tích hợp các chính sách trợ cấp tiền mặt hợp lý khác, đề xuất bỏ chính
sách trợ cấp tiền mặt chưa hợp lý); trợ giúp khẩn cấp và dịch vụ trợ giúp xã hội (bao
gồm cả cung cấp dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, dịch vụ công tác xã hội ở cộng
đồng và cơ sở trợ giúp xã hội).Chính vì thế, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện chính
sách trợ giúp xã hội thường xuyên là hết sức cần thiết, đặc biệt là nghiên cứu từ
thực tiễn triển khai thực hiện.
6


Tại Thái Bình, chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên cũng được Đảng
bộ và chính quyền tỉnh hết sức coi trọng, là một chính sách an sinh xã hội ý
nghĩa và được nhiều người dân quan tâm. Do đó việc nghiên cứu đề tài, đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện trên địa bàn tỉnh cũng có ý
nghĩa thực tiễn.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu gồm có 03 chương:
Chương I. Khái quát về trợ giúp xã hội thường xuyên và pháp luật về trợ giúp
xã hội thường xuyên
Chương II. Thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội thường xuyên và thực tiễn
thực hiện tại tỉnh Thái Bình
Chương III. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trợ giúp xã hội thường
xuyên và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Thái Bình

7


CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI

THƯỜNG XUYÊN VÀ PHÁP LUẬT TRỢ GIÚP XÃ HỘI
THƯỜNG XUYÊN

1.1 Khái niệm trợ giúp xã hội thường xuyên
1.1.1 Định nghĩa trợ giúp xã hội thường xuyên
Trong xã hội, mọi người đều có nguy cơ phải đối mặt với những rủi ro đến từ
nhiều phía, điều này ảnh hưởng đến cuộc sống của một bộ phận dân cư, làm cho
cuộc sống của họ bị đe dọa, có thể bị đẩy ra ngoài sự phát triển của xã hội và phải
nhờ đến sự giúp đỡ của cộng đồng. Nếu không có sự giúp đỡ đó, họ có thể bị rơi
vào bần cùng và nghèo đói. Tùy thuộc điều kiện, quan điểm ở mỗi quốc gia mà
TGXH được thực hiện rất đa dạng về hình thức thực hiện và có thể khác nhau về
phạm vi đối tượng bảo vệ, mức độ trợ giúp. Tuy nhiên,TGXH đã trở thành một yêu
cầu khách quan trong đời sống xã hội nhiều quốc gia trên thế giới, hầu hết các nước
tổ chức TGXH là một bộ phận của an sinh xã hội, là một hình thức tương trợ cộng
đồng phổ biến nhất nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho các thành viên “yếu thế”
trong xã hội. Tổ chức lao động quốc tế không đưa ra định nghĩa chuẩn về TGXH
mà chỉ đề cập đến thông qua những quy chuẩn tối thiểu của an sinh xã hội. Tại Điều
25 Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1984 quy định rằng “Tất cả mọi người đều có
quyền hưởng một mức sống đầy đủ về sức khỏe và phúc lợi cho bản thân người đó
và gia đình, bao gồm lương thực, quần áo và nhà ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã
hội thiết yếu, có quyền được hưởng chế độ an sinh trong trường hợp không có việc
làm, đau ốm, tàn tật, góa bụa, tuổi già hoặc thiếu sinh kế trong những hoàn cảnh
vượt ngoài kiểm soát của mình”.
Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật của Việt Nam cũng không có quy
định chính thức khái niệm TGXH. Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam,
8


TGXH là “sự giúp đỡ thêm bằng tiền hoặc các điều kiện sinh sống thích hợp để đối
tượng được giúp đỡ có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình hoặc

cho gia đình, sớm hòa nhập với cộng đồng”. Đối tượng của TGXH là những người
rơi vào hoàn cảnh thiếu thốn điều kiện vật chất, tinh thần vì nhiều nguyên nhân
khác nhau dẫn đến cuộc sống hàng ngày bị đe dọa, họ được cộng đồng bảo vệ, giúp
đỡ để có cuộc sống bình thường. TGXH không chỉ nhằm giúp đỡ đối tượng thoát
khỏi tình trạng khó khăn cấp thiết của cuộc sống hàng ngày mà còn tính đến việc hỗ
trợ, tạo điều kiện để họ phát huy năng lực của mình, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Gần với khái niệm “trợ giúp xã hội” có khái niệm “cứu tế xã hội”. Theo Từ
điển bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 1 trang 641, cứu tế xã hội là sự giúp đỡ bằng
tiền hoặc hiện vật có tính cấp thiết, “cấp cứu” ở mức độ cần thiết cho những người
lâm vào cảnh bần cùng không có khả năng tự lo liệu cuộc sống thường ngày của bản
thân và gia đình”. Cứu tế xã hội mang tính chất cấp thiết, cấp cứu giúp đối tượng
thoát ngay khỏi tình trạng nguy kịch, hiểm nghèo. Đối tượng của cứu tế xã hội là
những người lâm vào tình trạng khó khăn nghiêm trọng, nếu không có cứu tế xã hội
thì bản thân và gia đình có thể bị nguy hại đến cuộc sống, thậm chí có thể bị chết vì
đói, rét, bệnh tật. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà cuộc sống của họ bị đe dọa
như người già yếu, trẻ em mồ côi không có người nuôi dưỡng, thiếu đói do mất
mùa, thiên tai gây thiệt hại nặng nề đến điều kiện sống của đối tượng. Chính vì vậy
sự giúp đỡ cũng rất linh hoạt, phong phú với hoàn cảnh cụ thể nhưng mang tính
thiết thực gắn với điều kiện sống hàng ngày là cơm ăn, áo mặc và trong nhiều
trường hợp, cứu tế bằng hiện vật có ý nghĩa thiết thực hơn so với bằng tiền.
Có thể hiểu TGXH là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội và cộng đồng đối với
những người vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà lâm vào hoàn cảnh rủi ro, bất
hạnh, nghèo đóimà họ không thể tự lo liệu được mức sống tối thiểu của bản thân và
gia đình nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống hàng ngày hoặc giúp
họ vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng đồng. Căn cứ vào đặc
điểm về tính chất, người ta chia TGXH gồm có TGXH thường xuyên và TGXH đột
xuất. Trong đó, TGXH thường xuyên là hình thức trợ giúp mang tính định kì, lặp đi
9



lặp lại, áp dụng đối với đối tượng rơi vào hoàn cảnh khó khăn kéo dài. Mục tiêu
tổng quát của TGXH thường xuyên là hướng vào phát triển con người, thực hiện
công bằng xã hội và phát triển bền vững của quốc gia, nó thể hiện tính chất nhân
đạo và chính sách an sinh xã hội của nhà nước một cách rõ nét.
1.1.2 Đặc điểm của trợ giúp xã hội thường xuyên
* Đối tượng trợ giúp xã hội thường xuyên
Đối tượng của TGXH thường xuyên là mọi thành viên trong xã hội gặp khó
khăn, rơi vào hoàn cảnh thiếu thốn điều kiện vật chất, tinh thần, vì nhiều nguyên
nhân khác nhau dẫn đến cuộc sống thường ngày hoặc lâu dài bị đe dọa. Đó những
người hoàn toàn không thể tự lo được cuộc sống trong một thời gian dài hoặc trong
suốt cuộc đời.Đó có thể là người có tham gia quan hệ lao động hoặc không tham gia
quan hệ lao động, người già hoặc trẻ em, người khuyết tật, người lang thang không
có nơi cư trú…Trong xã hội, họ là bộ phận những người yếu thế, do những nguyên
nhân khách quan, chủ quan khác nhau mà bị rủi ro, thiệt thòi, ít có cơ may trong
cuộc sống như người bình thường và không đủ khả năng tự lo liệu, đảm bảo các
điều kiện sống tối thiểu cho bản thân và gia đình.Dưới góc độ kinh tế, đây là những
thành viên có mức sống thấp hơn mức sống tối thiểu của xã hội, họ gặp phải rủi ro,
khó khăn và cần được trợ giúp về vật chất để đảm bảo điều kiện sống. Dưới góc độ
nhân đạo, đối tượng TGXH bao gồm cả những người không may rơi vào tệ nạn xã
hội dẫn đến khó khăn, không đảm bảo cuộc sống bình thường như nghiện ma túy,
mại dâm, lang thang xin ăn…Đối với những đối tượng này, hoàn cảnh khó khăn là
liên tục, lặp lại do đó sự TGXH đối với họ cũng là nhu cầu thường xuyên.Có thể
thấy rằng cùng là một trong những chế độ an sinh xã hội nhưng đối tượng của
TGXH thường xuyên khá rộng. Nếu như đối tượng của bảo hiểm xã hội là người lao
động và gia đình họ, đối tượng của ưu đãi xã hội là những người có công với cách
mạng, thương binh, liệt sĩ, các anh hùng… thì đối tượng của TGXH thường xuyên
rộng hơn, mang đậm nét nhân đạo trong hệ thống các chế độ an sinh xã hội.
Đối tượng TGXH thường xuyên cũng không bị đặt ra điều kiện về sự đóng
10



góp vật chất, sức khỏe hay tinh thần để được hưởng TGXH. Bất cứ người nào khi
rơi vào hoàn cảnh đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định cho thấy tình trạng
khó khăn, khả năng khắc phục và nhu cầu cấp thiết của mình mang tính thýờng
xuyên thì đều có thể là đối tượng của TGXH thường xuyên. Phạm vi đối tượng
được hưởng trợ giúp, thứ tự ưu tiên trợ giúp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội
của quốc gia trong từng thời kỳ. Trong pháp luật các nước, đối tượng trợ cấp xã hội
thường xuyên sẽ được ưu tiên theo thứ tự lũy thoái mức độ rủi ro, khó khăn của đối
tượng. Đối tượng đầu tiên được tính đến là những người yếu thế nhất, khả năng tự
lo liệu cuộc sống là thấp nhất, họ gần như không thể lo liệu cuộc sống của mình do
hạn chế về sức khỏe, khả năng lao động. Đó là trẻ em mồ côi, không có nguồn nuôi
dưỡng, người già không có nơi nương tựa.
* Thời gian hưởng trợ cấp thường xuyên
Trong chế độ TGXH, thời gian hưởng trợ cấp cũng được xác định phù hợp với
đặc điểm khó khăn của đối tượng và khả năng cải thiện điều kiện sống của họ. Trợ
cấp có thể được thực hiện trong khoảng thời gian xác định hoặc lâu dài tùy thuộc
khả năng tài chính của ngân sách, nguồn trợ giúp và khả năng đối tượng trợ giúp
thoát khỏi tình trạng khó khăn, túng quẫn. Chế độ TGXH thường xuyên được thực
hiện ổn định, trong khoảng thời gian nhất định hoặc cho đến khi đối tượng thoát ra
khỏi hoàn cảnh khó khăn, không còn đáp ứng các điều kiện nhận trợ cấp. Do đó,
thậm chí thời gian trợ cấp có thể kéo dài hết cuộc đời của đối tượng trợ giúp.
* Mức trợ cấp thường xuyên:
TGXH là một trong những công cụ, biện pháp quan trọng trong hệ thống quản
lý rủi ro và thực hiện các chức năng phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục rủi ro.
TGXH bao gồm nhiều cấp độ chính sách khác nhau và có các loại hình dịch vụ
riêng. Cấp cao nhất là trợ giúp phát triển, sau đó là trợ giúp ổn định và cuối cùng là
trợ giúp để duy trì. Trong mỗi cấp độ trợ giúp lại được chia thành các hình thức
khác nhau.Mức trợ cấp thường xuyên cũng phải được đặt trong tương quan yêu cầu
chi phí sống thiết yếu, đặc điểm của điều kiện kinh tế xã hội nơi người được trợ cấp
11



sinh sống nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu. Chính sách TGXH nói chung hướng
vào phổ cập đối với tất cả đối tượng, không có sự ràng buộc về điều kiện cũng như
các tiêu chí ưu tiên nhưng do đông đối tượng hưởng trợ cấp nên mức trợ cấp thường
thấp không gắn vớibảo đảm mức sống tối thiểu mặc dù tổng kinh phí chi TGXH
hàng năm thì vẫn lớn. Đặc biệt là đối với TGXH thường xuyên, sự trợ giúp có tính
ổn định, kéo dài hơn do đó mức trợ cấp cần phải được tính toán để đảm bảo duy trì.
Do vậy, mức trợ cấp của TGXH thường xuyên thường thấp.
* Nguồn tài chính thực hiện trợ giúp xã hội thường xuyên:
Trợ giúp xã hội là một bộ phận của hệ thống an sinh xã hội, do Nhà nước đứng
ra tổ chức thực hiệ, đó là sự can thiệp nhằm hỗ trợ đáp ứng các nhu cầu cơ bản của
các cá nhân yếu thế trong xã hội. Nhà nước với trách nhiệm của mình, phải bố trí
ngân sách để thực hiện chế độ TGXHnói chung và TGXH thường xuyên nói riêng.
Tuy nhiên TGXH thường xuyên là một chính sách an sinh xã hội mang tính nhân
đạo sâu sắc, đặc biệt là trợ cấp lại mang tính thường xuyên, ổn định do đó rất cần sự
hỗ trợ từ các tổ chức, cá nhân có điều kiện, khả năng tham gia, đóng góp nguồn lực
thực hiện. Quan điểm tiếp cận này còn được các tổ chức xã hội vận dụng để huy
động nguồn lực và cung cấp dịch vụ TGXH tác động là giảm bớt sự thiếu thốn vật
chất, sự tách biệt với môi trường và sự tổn thương cá nhân.Chính sách TGXH
thường xuyên được xây dựng trên cơ sở bảo đảm cho bộ phận dân cư khó khăn thực
hiện các nhu cầu về đời sống như: lương thực, thực phẩm; có nước sạch sinh hoạt;
có nơi ở; bảo đảm vệ sinh cá nhân và môi trường; được chăm sóc y tế; được tiếp cận
giáo dục và các hoạt động cộng đồng. Với các nhu cầu ở bậc cao hơn thì trợ giúp
gián tiếp để xã hội cung cấp dịch vụ bảo đảm, hoặc thông qua việc khuyến khích để
các cá nhân tự bảo đảm. TGXH thường xuyên được thực hiện thông qua việc cung
cấp các dịch vụ xã hội làm thay đổi vị thế, tăng sự tham gia, có điều kiện kinh tế và
giảm bớt sự tổn thương do hoàn cảnh khó khăn.
1.1.3 Vai trò, ý nghĩa của trợ giúp xã hội thường xuyên
Vai trò của trợ giúp xã hội thường xuyên:

12


TGXH thường xuyên là chính sách an sinh xã hội mang tính nhân văn, nhân
đạo, đáp ứng quyền con người về an sinh. TGXH thường xuyên thực hiện chức
năng bảo đảm an sinh xã hội của nhà nước.TGXH thường xuyên là biện pháp tích
cực, sự chia sẻ của cộng đồng đối với các thành viên yếu thế gặp rủi ro, bất hạnh,
qua đó góp phần ổn định xã hội. Sự phân phối lại thông qua TGXH thường xuyên
đảm bảo mọi người đều hưởng lợi từ kết quả tăng trưởng, làm cho mọi thành viên
xã hội đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhất là người nghèo, nhóm xã hội yếu
thế và dễ bị tổn thương phải được hưởng lợi nhiều hơn để giảm dần khoảng cách
giàu, nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng và các tầng lớp dân cư, giữ
khoảng cách này ở mức hợp lý, không trở thành vấn đề xã hội bức xúc.
Chính sách TGXH thường xuyên có vai trò quan trọng trong đảm bảo mức
sống tối thiểu cho những người yếu thế, tạo cơ hội để họ khắc phục rủi ro, hạn chế,
thậm chí đối với một số người, sự trợ giúp của TGXH thường xuyên còn là cơ hội
để họ vươn lên, khắc phục nghèo khó. Đối tượng của TGXH thường xuyên là
những người nghèo khó, thậm chí hoàn toàn không có khả năng tự nuôi sống bản
thân. Do đó sự trợ giúp của cộng đồng, xã hội thông qua TGXH thường xuyên là
hết sức cần thiết, giúp họ duy trì cuộc sống tối thiểu và bám trụ lại với cộng đồng.
Thậm chí có những trường hợp, nhờ có TGXH thường xuyên mà họ không bị đẩy
vào sa ngã, trở thành đối tượng nguy hiểm cho xã hội.
Ý nghĩa của trợ giúp xã hội thường xuyên:
Trợ giúp xã hội thường xuyên thực hiện chức năng tái phân phối lại của cải xã
hội. Thông qua chính sách TGXH thường xuyên, Nhà nước sẽ điều tiết phân phối
thu nhập, cân đối, điều chỉnh nguồn lực để tăng cường cho các vùng nghèo, vùng
chậm phát triển, cho các đố i tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, tạo nên sự phát triển
hài hòa giữa các vùng, các tầng lớp dân cư trong xã hội.Tăng đầu tư cho phát triển
xã hội, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội;nhất là cho chính sách TGXH thường
xuyên, để bảo đảm công bằng xã hội, vì mục tiêu phát triển con người, đặc biệt bảo

đảm đời sống đối tượ g ít nhất ở mức đáp ứng nhu cầu tố i thiểu và từng bước được
cải thiện.Sự phân phối lại của cải xã hội thông qua TGXH thường xuyên không vì
13


mục đích lợi nhuận, làm thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa các thành phần
trong xã hội còn tăng cường tính nhân văn, cộng đồng, tạo nên những giá trị cao đẹp
của cộng đồng.
Chính sách TGXH thường xuyên là một trong những tiêu chí đánh giá sự tiến
bộ, phát triển của một quốc gia. Việc thực hiện TGXH thường xuyên còn thể hiện
định hướng phát triển bền vững của quốc gia. TGXH thường xuyên tốt sẽ thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Sự tăng trưởng kinh tế sẽ cho phép có thêm
nguồn lực cho phát triển xã hội. Ngược lại, vấn đề xã hội được giải quyết tốt bảo
đảm cho xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, tăng trưởng với nhịp
độ cao.Các nhà đầu tư không chỉ chú ý đến các yếu tố kinh tế mà còn chú ý đến các
yếu tố ổn định xã hội. Một xã hội ổn định giúp các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát
triển lâu dài, tạo cho kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, ngược lại một xã hội
không ổn định sẽ dẫn đến việc đầu tư ngắn hạn, làm ăn theo kiểu “chộp giật” làm
cho kinh tế tăng trưởng không bền vững.Kinh tế thị trường phát triển, một mặt thúc
đẩy được sức sản xuất, tăng sức cạnh tranh, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế
song mặt khác nó cũng tạo ra những rủi ro xã hội. Tình trạng phân hóa giàu nghèo,
phân tầng xã hội, bất bình đẳng ngày càng gia tăng dẫn đến trong xã hội luôn tồn tại
một bộ phận đối tượng yếu thế, thiệt thòi. Chính điều này tạo ra sự bất ổn định xã
hội, tao xung đột xã hội. TGXH thường xuyên là công cụ giảm thiểu, hạn chế và
khắc phục rủi ro, bất bình đẳng xã hội. TGXH thường xuyên như một tấm lưới bảo
vệ cho các đối tượng này. Do vậy, kinh tế thị trường càng phát triển mạnh thì vai trò
của TGXH thường xuyên càng lớn.
Dưới góc độ pháp luật, TGXH thường xuyên là chế định quan trọng trong hệ
thống pháp luật an sinh xã hội, điều chỉnh việc trợ giúp cho nhóm đối tượng có vị
thế thấp, chịu nhiều thiệt thòi, ít có cơ may trong cuộc sống. Ý nghĩa pháp luật của

TGXH thường xuyên xuất phát từ quyền cơ bản của con người bởi lẽ mỗi con người
được sinh ra đều có quyền được sống, được bình đẳng, được yêu thương và được
bảo vệ trước những biến cố bất lợi hoặc cuộc sống bị đe dọa. Ở những quốc gia có
nền dân chủ, nhân văn thì sự quan tâm đến bộ phận những người yếu thế là tất yếu
14


và nền kinh tế càng phát triển thì sự trợ giúp cho các đối tượng yếu thế càng lớn
hơn. TGXH thường xuyên không chỉ đơn thuần là hoạt động tự phát mang tính nhân
đạo của cộng đồng mà dưới góc độ pháp luật nó đã được thể chế hóa thành chế định
của hệ thống pháp luật an sinh xã hội quốc gia. Cũng từ đó, giúp chúng ta nhận thức
được rằng TGXH là quyền của mỗi thành viên trong xã hội, là trách nhiệm, nghĩa
vụ của cả cộng đồng,
1.2 Pháp luật trợ giúp xã hội thường xuyên
1.2.1 Nguyên tắc cơ bản của trợ giúp xã hội thường xuyên
Trợ giúp xã hội thường xuyên là một bộ phận của an sinh xã hội, do đó nó có
những nguyên tắc chung của an sinh xã hội như nguyên tắc lấy số đông bù số ít trên
cơ sở tương trợ cộng đồng, nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý thực hiện,
nguyên tắc đảm bảo thực hiện đối với mọi thành viên xã hội. Tuy nhiên, TGXH
thường xuyên là một loại hình TGXH, là bộ phận của an sinh xã hội và có những
đặc điểm riêng vì thế TGXH thường xuyên cũng có những nguyên tắc riêng cơ bản
như sau:
* Nguyên tắc công bằng, công khai, kịp thời theo mức độ khó khăn và ưu tiên
tại gia đình, nơi sinh sống
Đối tượng trợ giúp xã hội thường xuyên có nhiều hoàn cảnh, mức độ khó khăn
khác nhau. Quyền hưởng an sinh xã hội nói chung và TGXH nói riêng là quyền
công dân trong xã hội, mọi người trong xã hội đều có quyền được hưởng TGXH khi
rơi vào hoàn cành khó khăn, bất hạnh đe dọa cuộc sống hàng ngày mà không phân
biệt địa vị kinh tế xã hội, tôn giáo, giới tính, nhất là nhóm có nguy cơ cao bị loại trừ
xã hội (người già không nơi nơng tựa, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người tàn tật,

người nhiễm HIV/AIDS…). TGXH thường xuyênlà một hình thức tương trợ cộng
đồng sâu sắc, huy động nguồn lực và sự tham gia thực hiện không chỉ của nhà nước
mà còn cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Vì vậy khi nghiên cứu, xây dựng chính
sách phải bảo đảm sự công bằng ngay trong các nhóm đối tượng được hưởng lợi.
Tính công bằng của chính sách là thể hiện ở cơ hội phát triển của đối tượng TGXH
15


thường xuyên, sự thuận lợi về điều kiện hưởng lợi của đối tượng, sự hợp lý về chế
độ trợ cấp giữa các nhóm đối tượng. Đồng thời, chính sách TGXH thường xuyên
phải được xem xét trong mối quan hệ với các chính sách khác như: chính sách tiền
lương, chính sách giảm nghèo, chính sách bảo hiểm xã hội. Trong quá trình tổ chức
thực hiện chính sách TGXH thường xuyên phải bảo đảm tính công khai, minh bạch
ngay từ việc hoạch định chính sách, hồ sơ xét duyệt đối tượ ng hưởng lợi chính
sách, giám sát kết quả thực hiện chính sách. Phải đảm bảo công khai từ việc lập
danh sách đối tượng đến chi trả trợ cấp và cả huy động nguồn lực tham gia.
Thực hiện TGXH thường xuyên phải kịp thời theo mức độ khó khăn để đảm
bảo được mục đích, ý nghĩa giúp đối tượng nhanh chóng thoát khỏi tình trạng cuộc
sống bị đe dọa, vươn lên hòa nhập cộng đồng. Khi gặp rủi ro, lâm vào tình trạng
khó khăn, bất hạnhđối tượng trợ giúp được hưởng trợ cấp, giúp đỡ căn cứ vào mức
độ khó khăn mà không phụ thuộc hay đặt ra các điều kiện gắn với đặc điểm nhân
thân, mức sống hay nghĩa vụ tài chính trước khi gặp rủi ro. Các yếu tố hoàn cảnh cá
nhân, tình trạng tài sản, thu nhập và nhu cầu thực tế của đối tượng tại thời điểm phát
sinh nhu cầu trợ giúp là yếu tố cơ bản xác định hình thức và mức hưởng trợ cấp.
Đây chính là tính nhân đạo rõ nét của chế độ TGXH so vói các chế độ khác trong hệ
thống an sinh xã hội.
Trợ giúp xã hội không chỉ nhằm giúp đối tượng nhanh chóng thoát ra khỏi tình
trạng các điều kiện sống tối thiểu không được đảm bảo, cuộc sống hàng ngày bị đe
dọa mà còn tính đến tạo điều kiện để đối tượng phát huy năng lực của bản thân,
vươn lên hòa nhập cộng đồng. Gia đình, nơi sinh sống là môi trường gần gũi nhất

đối với người được trợ cấp, đây cũng là môi trường có thể giúp họ nhanh chóng hòa
nhập cộng đồng. Thực hiện TGXH thường xuyên ưu tiên tại gia đình, nơi sinh sống
thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước về trợ giúp xã hội, huy động nguồn lực tại
địa phương tham gia trợ giúp xã hội và đảm bảo trợ giúp đúng đối tượng, phù hợp
từng trường hợp cụ thể.
* Nguyên tắc trợ giúp phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, mức sống tối
thiểu của dân cư từng thời kỳ
16


Tùy thuộc điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội mà nhu cầu TGXH thường xuyên
ở mỗi địa phương, quốc gia là khác nhau. Việc đáp ứng nhu cầu TGXH thường
xuyên về cả phạm vi đối tượng hưởng và mức hưởng phải được tính toán cân đối và
phù hợp khả năng đáp ứng, điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Nếu
không có sự tính toán như vậy sẽ không đạt được mục đích của TGXH thường
xuyên và ảnh hưởng đến các chính sách kinh tế xã hội khác. TGXH hướng đến bao
phủ mọi thành viên yếu thế, thiệt thòi, khó khăn nhằm đảm bảo an toàn cuộc sống
cho họ khi họ gặp rủi ro làm suy giảm về kinh tế hoặc làm mất khả năng bảo đảm
về kinh tế. Tuy nhiên phạm vi đối tượng hưởng TGXHthường xuyên và mức hưởng
TGXH thường xuyên ở các quốc gia, thậm chí giữa các vùng, miền của quốc gia
cũng có thể có sự khác biệt phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia,
vùng miền. Nếu mức trợ cấp cao hơn so với khả năng đáp ứng thì sẽ không đảm bảo
thực hiện, tạo tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nguồn trợ cấp của đối tượng, vô hình
chung không tạo động lực để những người yếu thế trong xã hội phát huy năng lực
của mình, vươn lên hòa nhập cộng đồng. Nếu mức trợ cấp quá thấp thì không đảm
bảo được mục đích của TGXH thường xuyên nói riêng và an sinh xã hội nói chung,
không giúp được đối tượng thoát khỏi tình trạng cuộc sống hàng ngày bị đe dọa. Do
đó, mức trợ cấp phải được xác định và điều chỉnh kịp thời trên cơ sở mức sống tối
thiểu của dân cư từng thời kỳ.
Ở các thành phố lớn, chi phí đảm bảo cho các điều kiện sống tối thiểu thường

là cao hơn ở các tỉnh lẻ, khu vực nông thôn. Việc huy động nguồn lực cho TGXH
thường xuyên ở các khu vực, vùng miền cũng có sự khác nhau. Do đó, chế độ
TGXH thường xuyên giới hạn phạm vi đối tượng hưởng gắn với những điều kiện cụ
thể trong từng thời kỳ, đảm bảo được nhu cầu sống tối thiểu cho đối tượng được trợ
giúp. Đồng thời, chế độ TGXH thường xuyên phải đảm bảo tính thống nhất trong
phạm vi quốc gia và có tính đến các yếu tố đặc thù của địa phương.
* Nguyên tắc khuyến khích cơ quan, tổ chức tham gia thực hiện trợ giúp xã
hội thường xuyên
Trợ giúp xã hội thường xuyên là chế độ an sinh xã hội mang tính cộng đồng,
17


xã hội rõ nét. Mỗi cá nhân sống trong cộng đồng đều có trách nhiệm với các thành
viên khác và với chính mình trên cơ sở sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau. Trong khi đó
số lượng người yếu thế, rơi vào hoàn cảnh khó khăn cần được hỗ trợ là rất lớn, nhu
cầu trợ giúp rất đa dạng, phong phú. Nhằm tăng cường nguồn lực cho TGXH, Nhà
nước cần xã hội hóa TGXH thường xuyên, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân
tham gia thực hiện TGXH thường xuyên. Nhà nước sẵn sàng tiếp nhận sự đóng góp,
hỗ trợ tài chính của các tổ chức, cá nhân cho hoạt động TGXH.
Xã hội hóa thực hiện TGXH thường xuyên nhưng để đảm bảo mục đích của
TGXH thường xuyên, quyền lợi của các đối tượng trợ giúp, Nhà nước có các quy
định cụ thể về hoạt động của các hiệp hội từ thiện, các tổ chức phi chính phủ, hoạt
động huy động quyên góp từ thiện… Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức giúp
đỡ đối với đối tượng TGXH thường xuyên đồng thời giám sát, đảm bảo đúng mục
đích TGXH thường xuyên và quyền của đối tượng. Tránh việc nhân danh thực hiện
TGXH thường xuyên để đạt được những mục đích không chính đáng.
Là một chính sách an sinh xã hội quan trọng, với đặc điểm về đối tượng trợ
giúp là những người yếu thế trong xã hội, gần như không có khả năng tự bảo đảm
cuộc sống của mình, việc trợ cấp mang tính định kỳ, có thể trong thời gian dài do đó
TGXH thường xuyên phải đảm bảo bền vững về tài chính để thực hiện. TGXH

thường xuyên phải thiết lập thể chế về tài chính cho phù hợp và phải bảo đảm tính
bền vững về tài chính. Nguồn lực chủ yếu của TGXH thường xuyên là từ ngân sách
Nhà nước. Ngoài ra, còn huy động nguồn lực từ các tổ chức kinh tế, đoàn thể xã
hội, các cá nhân; từ các tổ chức phi chính phủ; nguồn lực từ hợp tác và hỗ trợ quốc
tế. Tuy nhiên để đảm bảo bền vững về tài chính, các nội dung chi từ nguồn kinh phí
này cần được tính toán ở mức hợp lý, xem xét ở cả phạm vi đối tượng, mức trợ cấp
và chi phí tổ chức thực hiện.
1.2.2 Nội dung pháp luật trợ giúp xã hội thường xuyên
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi quốc gia có những quy định
khác nhau về chế độ TGXH thường xuyên, song nhìn chung pháp luật TGXH
18


×