Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH VĨNH PHÚC

NGUYỄN HẢI ĐĂNG

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH VĨNH PHÚC

NGUYỄN HẢI ĐĂNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM THỊ HƯƠNG LAN

HÀ NỘI - 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố
theo đúng qui định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân
tích một cách trung thực, khách quan phù hợp với thực tiễn. Các kết quả này chưa
từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hải Đăng


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành luận luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh nỗ
lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quí thầy cô, cũng như
sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập nghiên cứu
và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến cô giáo TS. Phạm Thị Hương Lan
người hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn
này. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quí thầy cô trong khoa sau đại
học Viện Đại học Mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quí báu cũng
như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu
và cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các bạn
đồng nghiệp đã HT cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hải Đăng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT .............................8
1.1. Cơ sở lý luận về pháp luật Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất ..........................................................................................................................8
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất ........................................................................................8
1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ..............................................9
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất................13
1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ..............................................................................................................................15
1.3. Điều chỉnh bằng pháp luật với bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất ........................................................................................................................17
1.3.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ......17
1.3.2. Cơ cấu pháp luật điều chỉnh bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ............................17
1.4. Đặc trưng cơ bản của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ..................................................................................................................19
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC .......................................25
2.1. Quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ..............................................................................................................................25
2.1.1. Quy định về phạm vi, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi...............................................................................................................25
2.1.2. Quy định về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ..............................................................................................................................29
2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất ........................................................................................................................32

2.1.4. Quy định về giá đất làm căn cứ để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư .................34


2.1.5. Quy định về nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư .....................................35
2.1.6. Các quy định giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi pha ̣m về bồi thường, hỗ
trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ...................................................................38
2.2. Thực trạng về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của tỉnh
Vĩnh Phúc ..................................................................................................................39
2.2.1. Khái quát về tỉnh Vĩnh Phúc ...........................................................................39
2.2.2. Công tác xây dựng chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất của tỉnh Vĩnh Phúc ..................................................................................42
2.2.3. Phân tích thực trạng một số dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất của tỉnh Vĩnh Phúc .........................................................................45
2.2.4. Những kết quả đạt được trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất của tỉnh Vĩnh Phúc .................................................................70
3.3. Những khó khăn, vướng mắc, vi phạm pháp luật trong bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất của tỉnh Vĩnh Phúc ..............................................73
3.3.1. Những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư .......................................................................................................................73
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ...................................81
3.1. Quan điểm, định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .....................81
3.2. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ..............................................................................................................................83
3.2.1. Bổ sung quy định không được bồi thường tài sản gắn liền với đất đối với
trường hợp tự nguyện trả lại đất ................................................................................83
3.2.2. Bổ sung quy định giao cho ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất nông nghiệp bị
thu hồi xác nhận hộ gia đình, cá nhân có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông

nghiệp ........................................................................................................................84
3.2.3. Quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và thành


phần của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để địa phương tổ chức thực
hiện hiệu quả trong thực tế ........................................................................................85
3.2.4. Bổ sung quy định phê duyệt bổ sung dự toán kinh phí đối với số tiền phạt
chậm trả cho người có đất thu hồi vào phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ...86
3.2.5. Bổ sung quy định trường hợp còn đất ở, nhà ở trong địa bàn xã, phường, thị
trấn nơi có đất thu hồi (không phải di chuyển chỗ ở) vẫn được bố trí tái định cư (đối
với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở) để đảm bảo công bằng cho đối tượng bị
thu hồi đất ở...............................................................................................................87
3.2.6. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hành chính
trong lĩnh vực đất đai ................................................................................................87
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất ......................................................................................90
3.3.1. Thiết kế pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải trên cơ sở nhận thức
đầy đủ, toàn diện vai trò của đất đai..........................................................................90
3.3.2. Nâng cao nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức làm nhiệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cũng như đối với
tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng đất ..................................................................91
3.3.3. Nâng cao số lượng và năng lực trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các cán
bộ, ban, ngành ở địa phương và các đơn vị tư vấn thực hiện công tác bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư ...........................................................................................................93
3.3.4. Cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra trong thực tiễn thi hành pháp luật
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ...................................................................................93
3.3.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai ..............94
3.3.6. Phối hợp xử lý kịp thời, hiệu quả các vụ việc khiếu nại đông người, vượt
cấp.............................................................................................................................95
3.3.7. Giải pháp hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho các

định viên làm công tác dịch vụ tư vấn, xác định giá đất ...........................................96
3.3.8. Đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ................................97
KẾT LUẬN .............................................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................102


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Các chữ viết tắt

Ký hiệu

1

Giải phóng mặt bằng

GPMB

2

Tái định cư

TĐC

3

Hỗ trợ


HT

4

UBND

UBND

5

Luật đất đai

LĐĐ

6

Bồi thường

BT


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là một trong những nội dung quan
trọng của quản lý nhà nước đối với đất đai. Việc ra đời Luật Đất đai năm 2013 và các
văn bản pháp lý liên quan đã góp phần tháo gỡ những khó khăn trong bồi thường, tái
định cư khi thu hồi đất. Hệ thống pháp luật đất đai hiện hành cũng phù hợp với chế định
về đất đai được quy định trong Hiến pháp. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, vấn đề về BT
HT khi Nhà nước thu hồi đất luôn là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp
quyền và lợi ích của người dân.

Pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất nằm trong hệ thống pháp
LĐĐ với những văn bản pháp luật đồ sộ, từ khi LĐĐ 2013 đi vào thực tiễn áp dụng cho
đến nay, hệ thống văn bản pháp luật càng có nhiều sự chồng chéo, mâu thuẫn, vấn đề BT
HT khi Nhà nước thu hồi đất đã có nhiều vấn đề vướng mắc phát sinh trong quá trình
thực hiện.
Vĩnh Phúc là tỉnh đồng bằng bắc bộ có vị trí địa lý thuận lợi về giao thông
đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không và là cửa ngõ phía bắc của thủ
đô Hà Nội. Trong những năm gần đây tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang tập trung mạnh
phát triển kinh tế xã hội đã có những bước đột phá kinh tế, có nhiều dự án lớn được
các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào tỉnh làm thay đổi rõ rệt về bộ mặt
của tỉnh nhất là cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Để đạt được mục đích trên công tác BT HT
khi Nhà nước thu hồi đất tỉnh Vĩnh Phúc luôn chú trọng, tuy nhiên việc thu hồi đất
đặt ra rất nhiều thách thức trong thực tiễn.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu những qui định pháp luật về BT HT khi Nhà nước
thu hồi đất trên thực tiễn áp dụng là cần thiết để làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân. Từ đó tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng vào thực tiễn trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và các địa phương khác trong cả nước nói chung. Với mục
đích, ý nghĩa đó tôi lựa chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, vấn đề về BT khi Nhà nước thu hồi đất đã được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu dưới các phương diện khác nhau. Có thể đề cập các tác giả như thạc sĩ Lê
Ngọc Thạch – Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11, tháng 6 năm 2009 “Một số ý
kiến hoàn thiện pháp luật về BT khi Nhà nước thu hồi đất”; tác giả Đức Tâm, “Vì sao
dân chưa đồng thuận”– Báo điện tử Kinh tế và Đô thị; “Dân bức xúc vì sự vô cảm
của chính quyền ”của nhóm phóng viên điều tra – Báo điện tử Nhà báo và công luận

số ra ngày 17/9/2009; Đỗ Văn Dương (2011), “Thực hiện pháp luật về BT, HT và
TĐC khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà
Nội”,luận văn thạc sĩ; Nguyễn Minh Tuấn năm (2011), “Thu hồi đất vì mục đích kinh
tế ở Việt Nam hiện nay”;
Một số khóa luận tốt nghiệp, luận văn và luận án tiêu biểu như sau:
Đỗ Phương Thủy (2011), Pháp luật về BT, HT khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, khoá luận tốt nghiệp, do ThS. Phạm
Thu Thuỷ hướng dẫn. Đinh Thị Huê (2011), Thực hiện pháp luật về BT, HT và TĐC
khi nhà nước thu hồi đất ở tỉnh Hà Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Luật học do TS.
Nguyễn Quốc Hoàn hướng dẫn. Trần Cao Hải Yến (2012), Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện pháp luật về BT, HT khi nhà nước thu hồi đất, khoá luận tốt nghiệp do
ThS. Phạm Thu Thuỷ hướng dẫn. Nguyễn Thị Dương (2012), Tìm hiểu pháp luật về
BT, HT, TĐC khi nhà nước thu hồi đất, khoá luận tốt nghiệp do TS. Nguyễn Thị
Dung hướng dẫn. Đỗ Phương Linh (2012), Pháp luật về HT, TĐC người có đất bị
thu hồi trong GPMB - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, luận văn thạc sĩ luật học,
TS. Trần Quang Huy hướng dẫn. Trần Thị Phương Liên (2013), Pháp luật về BT,
HT đối với hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp - Thực trạng
và hướng hoàn thiện, luận văn thạc sĩ luật học, TS. Nguyễn Thị Nga hướng dẫn.
Nguyễn Quang Tuyến (2013), “Địa vị pháp lý của người sử dụng đất trong các giao
dịch dân sự và thương mại”, Luận văn tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội. Nguyễn Thị Tâm (2014), Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi, luận văn thạc sĩ luật

2


học, do TS. Trần Quang Huy hướng dẫn. Phạm Thu Thuỷ (2014), Pháp luật về BT
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam: luận án tiến sĩ luật học, do PGS.
TS. Nguyễn Quang Tuyến, PGS. TS. Phạm Hữu Nghị hướng dẫn. Nguyễn Thị Thảo
My (2014), Thực trạng áp dụng pháp luật về BT khi Nhà nước thu hồi đất trên địa

bàn huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang, luận văn thạc sỹ luật học, PGS. TS.
Nguyễn Quang Tuyến hướng dẫn. Trần Thị Ngà (2014), Pháp luật về HT khi nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp qua thực tiễn thi hành tại thành phố Phủ Lý - tỉnh Hà
Nam, luận văn thạc sĩ luật học, PGS. TS. Nguyễn Quang Tuyến hướng dẫn. Phạm
Thu Thuỷ (2014), Pháp luật về BT khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt
Nam: luận án tiến sĩ luật học; Người hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Quang Tuyến,
PGS. TS. Phạm Hữu Nghị. Nguyễn Thị Minh Khuê (2015), Những vấn đề pháp lý về
TĐC khi nhà nước thu hồi đất: khóa luận tốt nghiệp, do TS. Nguyễn Thị Dung hướng dẫn,
Hà Nội. Phạm Thị Tuyết Chinh (2015), Công khai, minh bạch, dân chủ trong BT,
HT, TĐC khi nhà nước thu hồi đất, khóa luận tốt nghiệp do PGS. TS. Nguyễn
Quang Tuyến hướng dẫn. Nông Thị Minh Trầm (2015), Những vấn đề pháp lý về
HT khi nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành pháp luật về HT cho người có đất
bị thu hồi: khóa luận tốt nghiệp, TS. Nguyễn Thị Nga hướng dẫn. Tạ Văn Thắng
(2015), Pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực
hiện tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ luật học Viện Đại học
Mở Hà Nội do TS. Nguyễn Văn Phương hướng dẫn. Vũ Hải Anh (2015), Pháp luật
về thu hồi đất, BT, HT và TĐC từ thực tiễn thực hiện tại Quận Long Biên, thành
phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ luật học Viện Đại học Mở Hà Nội do PGS.TS Phạm
Hữu Nghị. Nguyễn Đình Long (2015), Thực hiện pháp luật về BT, HT, TĐC khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội, luận văn
thạc sĩ luật học Viện Đại học Mở Hà Nội do PGS.TS. Đinh Văn Thanh hướng dẫn.
Vũ Thị Kiều Oanh (2016), Pháp luật về BT khi nhà nước thu hồi đất, khóa luận tốt
nghiệp do TS. Nguyễn Thị Dung hướng dẫn.
Một số đề tài nghiên cứu như sau:
- “Xã hội và các xung đột đất đai” là kết quả nghiên cứu trong nhiều năm của

3


Ngân hàng thế giới, nghiên cứu nhằm HT Bộ Tài nguyên và môi trường cải thiện

chính sách và thực tiễn về thu hồi và chuyển dịch đất đai để đạt được sự tăng trưởng
bền vững trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang diễn ra nhanh chóng
và sôi động. Báo cáo gồm 03 ấn phẩm: (1) Báo cáo 1: Nghiên cứu về hoàn thiện
chính sách Nhà nước về thu hồi đất và cơ chế chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt
Nam; (2) Báo cáo 2: Nghiên cứu về cơ chế xác định giá đất phục vụ BT, HT và TĐC
ở Việt Nam; và (3) Báo cáo 3: Nghiên cứu và hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại
về BT, HT TĐC khi nhà nước thu hồi đất tại Việt Nam. Các nghiên cứu này đã được
Ngân hàng thế giới công bố và phát hành năm 2011.
- Đào Trung Chính, Đặng Hùng Võ và Nguyễn Thanh Trà,“Đánh giá thực tiễn
triển khai công tác thu hồi đất, BT, HT TĐC theo quy định của pháp luật”, Nghiên cứu
này dựa trên số liệu điều tra trên địa bàn 3 thành phố: Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh
và 4 tỉnh: Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Long An, Bình Dương với 3 đối tượng là: 1.445 hộ
gia đình, 70 doanh nghiệp sử dụng đất và 224 cán bộ địa phương; nhằm đánh giá việc
thực hiện các quy định về: chuyển đổi đất đai, thu hồi đất, BT, HT, TĐC. Về thu hồi
đất: cơ bản các hộ dân đánh giá đã thực hiện theo đúng trình tự, hợp lý và đảm bảo tính
minh bạch; các doanh nghiệp cho rằng còn khó khăn trong tiếp cận đất đai do nhiều
quy định chồng chéo. Về BT: nhiều ý kiến đề nghị khung giá đất được ban hành định
kỳ 01- 03 năm một lần; phải xác định giá đất cụ thể để BT. Về HT: cần giao đất sản
xuất mới, tăng mức HT ổn định đời sống, việc làm. Về TĐC: cần tăng diện tích các căn
hộ TĐC, đất dịch vụ hoặc ưu tiên được mua nhà, đất thuộc các dự án phát triển đô thị
với giá ưu đãi và được miễn thuế. Các đề xuất trên là cơ sở để hoàn thiện pháp luật về
thu hồi, BT, HT TĐC (xem Tạp chí Khoa học và Phát triển 2013, tập 11, số 3: 328336; www.hua.edu.vn). Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình LĐĐ, Nhà
xuất bản Công an nhân dân. Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu tìm hiểu, bình luận
những quy định về đối tượng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục BT, HT, TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất được ban hành trước và sau khi LĐĐ năm 2013 ra đời mà chưa có
công trình đề cập, nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc xây dựng các quy định của LĐĐ năm 2013 về BT, HT TĐC khi Nhà nước thu

4



hồi đất trong bối cảnh hiện nay.
Có thể thấy các công trình nói trên đã đi sâu nghiên cứu nhiều khía cạnh về vấn
đề pháp luật về BT HT khi Nhà nước thu hồi đất hoặc tập trung nghiên cứu thực trạng
pháp luật về thực hiện BT để thực hiện các dự án. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có
công trình nghiên cứu chuyên sâu về góc độ thực tiễn áp dụng. Do đó, việc nghiên cứu
đề tài “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc” là phù hợp thực tiễn và vừa có giá trị lý luận nhất định.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu vấn đề lý luận và làm sáng tỏ nhận thức về vấn đề BT, HT và TĐC
khi Nhà nước thu hồi đất và nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về BT, HT,
TĐC qua các vụ việc, tình huống cụ thể trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc một trong
những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, mạnh trong những năm gần đây.
- Tập hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng các quy
định về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất;
- Tìm hiểu những đặc điểm và nội dung cơ bản của mảng pháp luật về BT,
HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất;
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất trong điều kiện, hoàn cảnh đặc thù của tỉnh Vĩnh Phúc;
- Chỉ ra những thành công và những tồn tại, khiếm khuyết và nguyên nhân
của những hạn chế của việc áp dụng pháp luật về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc;
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về BT, HT, TĐC
khi Nhà nước thu hồi đất; cũng như đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
công tác thực thi pháp luật về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đi sâu phân tích những cơ sở lý luận và tính pháp lý, nhằm phân tích
đánh giá vận dụng chính sách pháp luật trong quá trình thực thi về chính sách BT HT


5


khi Nhà nước thu hồi đất. Đặc biệt nghiên cứu tình hình thực tế trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc trong thời gian qua. Qua đó chỉ ra các qui định phù hợp, chưa phù hợp của pháp
luật về BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất cũng như những tồn tại vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng. Từ đó đưa ra đề xuất những giải pháp tiếp tục đổi mới góp phần nâng cao
chất lượng để áp dụng vào thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu pháp luật về BT HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất;
- Các qui định của tỉnh Vĩnh Phúc; Các Sở, ngành, huyện, thành phố; UBND
các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc áp dụng về vấn đề BT, HT,
TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các qui định pháp luật về BT HT khi
Nhà nước thu hồi đất mà cụ thể các qui định và chính sách về BT, HT cho các hộ
gia đình, cá nhân.
+ Không gian và thời gian thực hiện: Đề tài thực hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc vào khoảng thời gian từ 2013 đến 2018, đây đồng thời là thời gian LĐĐ 2013
được ban hành và thực hiện đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết học, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước trong điều kiện hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, so sánh, thống kê, tổng kết thực tiễn
đánh giá tình hình thực tế áp dụng.
(i) Phương pháp luận giải, phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử
v.v được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về BT,

HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về BT, HT, TĐC khi Nhà nước
thu hồi đất;
(ii) Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối

6


chiếu v.v v được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu pháp luật về BT, HT,
TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc;
(iii) Phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp
v.v v được sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc;
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lí luận: Góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho các cơ quan đưa
ra các quyết sách đảm bảo cho pháp luật về chính sách pháp luật về BT HT khi Nhà
nước thu hồi đất được thực hiện đầy đủ trong thời gian tới.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài đóng góp vận dụng vào thực tiễn trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc và có thể nhân rộng áp dụng trên toàn quốc.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất


7


CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT
1.1. Cơ sở lý luận về pháp luật Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Mỗi trường hợp thu hồi đất có sự khác nhau về căn cứ để thu hồi, về trình tự,
thủ tục thu hồi, về chính sách BT khi thu hồi đất:
Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng được căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và dự án đầu tư đã
được chấp thuận, cấp phép đầu tư, quyết định đầu tư; Thu hồi đất trong trường hợp
người được trao quyền sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai (để đất hoang hóa, hủy
hoại đất, không thực hiện nghĩa vụ tài chính, ... ) phải trên cơ sở kết luận thanh tra; Thu
hồi đất đối với trường hợp không còn nhu cầu sử dụng đất (tổ chức bị giải thể, cá nhân
bị chết, tự nguyện trả lại đất) phải trên cơ sở quyết định giải thể của cơ quan có thẩm
quyền, giấy chứng tử, đơn trả lại đất, ...
Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng được thực hiện theo một trình tự, thủ tục với thời gian tương đối dài, bao
gồm các bước thông báo thu hồi đất, đo đạc diện tích, kiểm đếm tài sản, phê duyệt và
thực hiện phương án BT, cưỡng chế thu hồi đất và bàn giao đất trên thực địa; Thu hồi đất
trong trường hợp người được trao quyền sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai gắn
liền với thủ tục thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai;
Thu hồi đất đối với trường hợp không còn nhu cầu sử dụng đất có trình tự thủ tục đơn
giản hơn.
Tùy từng trường hợp cụ thể và căn cứ vào nguồn gốc sử dụng đất mà người bị
thu hồi đất được BT hoặc không được BT thiệt hại về đất, về tài sản gắn liền với đất:

Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích

8


công cộng và thu hồi đất đối với trường hợp không còn nhu cầu sử dụng đất và đất có
nguồn gốc được giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã trả không có
nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, thu hồi đất nông nghiệp giao cho hộ gia đình, cá
nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được BT, do tự nguyện trả lại đất thì được BT;
Thu hồi đất do vi phạm pháp LĐĐ thì không được BT nhưng được xem xét trả lại giá
trị đã đầu tư vào đất (tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã trả trước, chi phí san lấp,
GPMB, đầu tư xây dựng cơ bản, ...).
Như vậy, khái niệm thu hồi đất ở nước ta gắn liền với sự tồn tại của chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai. Nhìn một cách chính xác, thu hồi là việc lấy lại cái đã đưa ra,
đã cấp phát ra hoặc cái bị người khác lấy. Đối với đất đai, do quyền sở hữu đất đai
thuộc về toàn dân, do Nhà nước là đại diện. Có thể đưa ra khái niệm: Thu hồi đất là
việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất của người sử
dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân cấp xã quản lý.
Thực chất, thu hồi đất là biện pháp hành chính bắt buộc để chuyển quyền sử
dụng đất, chính vì vậy, thu hồi đất mang những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thu hồi đất xảy ra theo một yêu cầu cụ thể (thu hồi đất do nhu cầu vì
lợi ích chung) hoặc trong một hoàn cảnh cụ thể (do vi phạm pháp luật về đất đai; do
không còn nhu cầu sử dụng đất).
Thứ hai, việc thu hồi đất phải bằng một quyết định hành chính cụ thể, trong đó
phải thể hiện rõ vị trí, diện tích, loại đất bị thu hồi; tên, địa chỉ của tổ chức, cá nhân có
đất bị thu hồi. Quyết định thu hồi đất được ban hành bởi một cơ quan hành chính có
thẩm quyền theo luật định (UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện).
Thứ ba, việc thu hồi đất được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ và
được quy định riêng đối với từng trường hợp.
1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Thuật ngữ “BT” trong đời sống hàng ngày là thuật ngữ được sử dụng trong
trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải có trách
nhiệm BT cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra;
Theo Từ điển tiếng Việt: “BT” là “Đền bù những tổn hại gây ra”;

9


Theo Từ điển Luật học ghi nhận: BT thiệt hại do thu hồi đất là “quyền của
chủ thể đang được sử dụng đất bị thu hồi nhằm bù đắp thiệt hại về vật chất cho
người sử dụng đất trong trường hợp bị thu hồi đất để chuyển sang mục đích khác
hoặc vì nhu cầu của nhà nước và xã hội”1
Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm BT được đặt ra khi một chủ thể có
hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội.
Khái niệm “đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất” được sử dụng trong LĐĐ
năm 1987 và LĐĐ năm 1993. Bắt đầu từ thời điểm thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của LĐĐ năm 2001, cụm từ “BT” đã được sử dụng thay cho cụm từ “đền
bù thiệt hại” thể hiện tư tưởng chỉ đạo đổi mới công tác GPMB, đó là không chỉ trả lại
những thiệt hại “hữu hình” có thể kiểm đếm được mà còn phải tính toán bù đắp lại cả
những giá trị không thể đo đếm được như là môi trường sống của cả cộng đồng, điều
kiện học tập, các dịch vụ, tiện ích sinh hoạt, v.v.. ; kèm theo đó là một cơ chế giải quyết
những bất đồng giữa bên gây ra thiệt hại (Nhà nước) với bên bị thiệt hại (người bị thu
hồi đất) hướng tới sự khách quan, công bằng hơn thông qua cơ chế giải quyết khiếu
nại, khắc phục tình trạng các cơ quan nhà nước giành quyền áp đặt mức đền bù thiệt
hại, không chú ý đến lợi ích chính đáng của người dân. Trong LĐĐ năm 2013 ghi
nhận: “BT về đất là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
thu hồi cho người sử dụng đất”, ngoài ra, luật cũng quy định những thiệt hại về nhà ở,
công trình xây dựng, cây trồng, vật nuôi trên đất do việc thu hồi đất gây ra cũng được
xem xét BT. Bên cạnh đó, luật còn xác định về cách xác định thiệt hại: ngoài thiệt hại
về đất, nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất thì còn có những thiệt hại khác mà

người sử dụng đất cần phải được BT như: thiệt hại về nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu,
thiệt hại về cây trồng, vật nuôi, thiệt hại về môi trường học tập, về dịch vụ y tế, vui
chơi, giải trí, thiệt hại do chi phí đã đầu tư vào việc san lấp mặt bằng, thiệt hại do mất
địa thế kinh doanh, các thiệt hại về sức khỏe do việc thực hiện dự án gây ra như: khói
bụi, tiếng ồn, nước thải...

1

Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, nxb. Từ điển Bách khoa và nxb. Tư pháp

10


Theo BLDS năm 2015 tại Điều 13, khái niệm BT thiệt hại được quy định là:
cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được BT toàn bộ thiệt hại, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Về xác định
đối tượng được BT: đối tượng bị ảnh hưởng từ việc thu hồi đất không chỉ là tổ chức,
cá nhân có đất bị thu hồi mà còn bao gồm cả người đang sử dụng đất thuê, người sử
dụng đất lân cận, người có lợi ích liên quan. Trong dân sự, các bên có thể thỏa
thuận về mức BT, hình thức BT bằng tiền, hiện vật hoặc thực hiện một công việc
nhất định, khi mức BT không còn phù hợp với thực tế thì có thể yêu cầu Tòa án
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ.
Có thể thấy khi chuyển từ thuật ngữ “đền bù thiệt hại” sang thuật ngữ “BT”
khi Nhà nước thu hồi đất đã thể hiện tư tưởng chỉ đạo trong xây dựng Luật đó là
việc BT cần phải đổi mới để việc tính toán mức độ thiệt hại một cách khách quan,
tôn trọng ý kiến của người bị thiệt hại và BT một cách sòng phẳng như khi thực
hiện BT thiệt hại theo pháp luật dân sự, tuy nhiên, thực tế triển khai vẫn còn một
khoảng cách khá xa so với tư tưởng chỉ đạo này mà một trong những nguyên nhân
của nó nằm ở ngay chính sự khác biệt giữa cơ chế BT theo pháp LĐĐ với BT theo
pháp luật dân sự, cụ thể như sau:

Trong LĐĐ, việc thương thảo về mức độ thiệt hại và giá trị BT diễn ra một
chiều theo hướng áp đặt ý kiến chủ quan của Nhà nước đối với người bị thiệt hại, dễ
dẫn đến sự thiếu bình đẳng trong mối quan hệ này, trong khi đó, BT theo pháp luật
dân sự, mối quan hệ giữa bên gây ra thiệt hại và bên bị thiệt hại là quan hệ bình
đẳng, dựa trên sự đồng thuận của cả hai bên.
Trong LĐĐ, Nhà nước tham gia quan hệ BT với tư cách là bên gây ra thiệt
hại, đồng thời Nhà nước lại đóng vai trò là trung gian hòa giải thông qua hoạt động
giải quyết khiếu nại của tổ chức, cá nhân, đo đó tính khách quan trong quá trình giải
quyết khiếu nại rất dễ bị vi phạm. Điều này khác với BT trong pháp luật dân sự, khi
đó Nhà nước chỉ đóng vai trò trung gian hòa giải giữa bên gây ra thiệt hại và bên bị
thiệt hại nên các phán quyết của Nhà nước đưa ra có tính khách quan hơn.

11


Như vậy, khái niệm về BT đất đai trong LĐĐ năm 2013 là khái niệm khá
đầy đủ, phản ánh bản chất của việc BT về đất, mối quan hệ giữa Nhà nước và người
sử dụng đất. Trong phạm vi nghiên cứu của vấn đề tác giả đồng tình với khái niệm
về BT trong LĐĐ năm 2013, như sau: BT về đất là việc nhà nước trả lại giá trị quyền
sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”,
BT khi Nhà nước thu hồi đất có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, BT là trách nhiệm của Nhà nước nhằm bù đắp tổn thất về quyền và
lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra.
Trách nhiệm này được quy định trong LĐĐ;
Thứ hai, căn cứ để xác định BT là diện tích thực tế bị thu hồi; thiệt hại thực
tế về tài sản, cây cối, hoa màu trên đất và khung giá đất do Nhà nước quy định tại
thời điểm thu hồi đất; ngoài thiệt hại về đất, nhà ở và các tài sản khác gắn liền với
đất thì còn có những thiệt hại khác mà người sử dụng đất cần phải được BT như:
thiệt hại về nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu, thiệt hại về cây trồng, vật nuôi, thiệt hại
về môi trường học tập, về dịch vụ y tế, vui chơi, giải trí, thiệt hại do chi phí đã đầu

tư vào việc san lấp mặt bằng, thiệt hại do mất địa thế kinh doanh, các thiệt hại về
sức khỏe do việc thực hiện dự án gây ra như: khói bụi, tiếng ồn, nước thải...
Thứ ba, BT là hậu quả pháp lý trực tiếp do hành vi thu hồi đất của Nhà nước
gây ra. Điều này có nghĩa là chỉ phát sinh sau khi có quyết định hành chính về thu
hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đối tượng bị ảnh hưởng từ việc thu
hồi đất không chỉ là tổ chức, cá nhân có đất bị thu hồi mà còn bao gồm cả người
đang sử dụng đất thuê, người sử dụng đất lân cận, người có lợi ích liên quan.
Thứ tư, BT được thực hiện trong mối quan hệ song phương giữa một bên là
Nhà nước (chủ thể có hành vi thu hồi đất) với bên kia là người chịu thiệt hại về
quyền và lợi ích hợp pháp do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra; cụm từ “BT”
đã được sử dụng thay cho cụm từ “đền bù thiệt hại” thể hiện tư tưởng chỉ đạo đổi
mới công tác GPMB, đó là không chỉ trả lại những thiệt hại “hữu hình” có thể kiểm
đếm được mà còn phải tính toán bù đắp lại cả những giá trị không thể đo đếm được
như là môi trường sống của cả cộng đồng, điều kiện học tập, các dịch vụ, tiện ích

12


sinh hoạt, v.v.. ; kèm theo đó là một cơ chế giải quyết những bất đồng giữa bên gây
ra thiệt hại (Nhà nước) với bên bị thiệt hại (người bị thu hồi đất) hướng tới sự khách
quan, công bằng hơn thông qua cơ chế giải quyết khiếu nại, khắc phục tình trạng
các cơ quan nhà nước giành quyền áp đặt mức đền bù thiệt hại, không chú ý đến lợi
ích chính đáng của người dân.
Thứ năm, người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất muốn được BT về
đất phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định; Người sử dụng đất (thuộc
sáu đối tượng quy định tại Điều 75) nếu có đủ các điều kiện quy định như Luật định
sẽ được Nhà nước BT theo thiệt hại thực tế họ mắc phải khi gặp phải chính sách thu
hồi đất của Nhà nước. Đều đó thể hiện sự bình đẳng của nhà nước đối với người sử
dụng đất, họ được đối xử như nhau trên pháp luật.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Khác với BT là việc trả lại một các tương xứng những giá trị bị thiệt hại, thì
HT mang tính chính sách, trợ giúp thêm của Nhà nước, thể hiện trách nhiệm của
Nhà nước đối với sự hi sinh, mất mát của người bị thu hồi đất cho những lợi ích
chung của đất nước, của cộng đồng. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, do việc BT
chưa thực sự sòng phẳng nên các khoản HT chưa thực sự đúng với ý nghĩa mà nó
được định nghĩa trong LĐĐ và trong đa số trường hợp thì nó chỉ là sự bù đắp vào
khoảng thiếu hụt do việc BT thiếu sòng phẳng gây ra; bên cạnh đó một số khoản HT
thực chất là BT như là HT di chuyển, HT chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm vì
đây chính là những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra.
TĐC là việc Nhà nước bố trí đất ở, nhà ở tại nơi mới cho những người bị
Nhà nước thu hồi đất ở mà họ không còn chỗ ở nào khác (Asian Development
Bank, 1998). Việc thu hồi đất ở thông qua một quyết định hành chính là một quá
trình không tự nguyện, có tính cưỡng chế và đòi hỏi có sự “hy sinh” của người sử
dụng đất, do đó, không chỉ đơn thuần là sự đền bù về mặt vật chất (có đất ở, nhà ở)
mà còn phải đảm bảo lợi ích của người bị thu hồi đất, họ phải có được chỗ ở ổn
định, điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.

13


Như vậy, nếu việc BT thiên về mức độ tương xứng thì TĐC thiên về chính
sách tạo lập chỗ ở. Trong quy định của LĐĐ năm 2013 có sự giao thoa giữa hai
khái niệm này, theo đó các khu TĐC được xây dựng để BT bằng nhà ở, đất ở cho
người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở.
Như vậy có thể hiểu khái niệm của HT TĐC khi Nhà nước thu hồi đất như
sau: HT khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất
thông qua các khoản HT bao gồm: HT di chuyển, HT TĐC đối với trường hợp thu
hồi đất ở; HT ổn định đời sống và sản xuất, HT đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc
làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp; HT khi thu hồi đất nông nghiệp
trong khu dân cư; đất vườn, ao không được công nhận là đất ở; HT khác. Các

khoản HT này được hiểu là phần cho thêm của Nhà nước sau khi đã BT sòng phẳng
và là khoản điều tiết từ phần giá trị gia tăng từ đất đai mà không phải là do đầu tư
của người sử dụng đất mang lại.
Đặc điểm của HT TĐC như sau:
Thứ nhất, cũng giống như ở BT, khi Nhà nước thu hồi đất của người dân
ngoài việc phải BT lại phần của họ bị mất còn phải HT cho người dân để họ sớm
khắc phục tình hình, nhanh chóng ổn định đời sống. Nguyên tắc này hoàn toàn phù
hợp và sự quan tâm của Nhà nước với người dân bị mất đất. Tại khoản 2 Điều
83 Luật này cũng quy định các khoản HT khi Nhà nước thu hồi đất như: HT ổn
định đời sống và sản xuất; HT đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm
đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp
sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình,
cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; HT TĐC đối với trường hợp thu hồi đất ở
của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di
chuyển chỗ ở; và các HT khác.
Thứ hai, một trong các hình thức HT là HT về chỗ ở, TĐC. Nhằm khắc phục
tình trạng một số khu vực TĐC chất lượng còn thấp, không đồng bộ về cơ sở hạ
tầng, chưa đảm bảo tiêu chí có điều kiện phát triển bằng hoặc tố hơn nơi ở cũ.
Nhiều địa phương chưa lập khu TĐC chung cho các dự án tại địa bàn nên nhiều dự

14


án chưa có khu TĐC đã thực hiện thu hồi đất ở, thậm chí có những dự án mà người
có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà để ở nhiều năm mà vẫn chưa được bồ trí vào khu
TĐC, LĐĐ năm 2013 đã quy định về lập và thực hiện dự án TĐC, bố trí TĐC cho
người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở.
Thứ ba, tính dân chủ, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của
pháp luật. Ở cả trong nguyên tắc về BT cũng như HT khi nhà nước thu hồi đất đều
đề cập tới tính bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai minh bạch, dân

chủ, đúng pháp luật. Đây là một đòi hỏi khách quan trong quá trình thực thi các quy
định của pháp luật về BT HT TĐC khi nhà nước thu hồi đất, vừa là cơ chế để kiểm
soát hoạt động này. Bởi tất cả nội dung, phạm vi, giới hạn, trình tự, thủ tục…BT,
HT, TĐC khi nhà nước thu hồi đất đều do pháp luật quy định.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
Thu hồi đất không chỉ làm chấm dứt quan hệ pháp LĐĐ (làm chấm dứt quyền
sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất) mà còn trực tiếp quyết
định đến lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan: lợi ích của người bị thu hồi đất; lợi
ích của Nhà nước, của xã hội; lợi ích của người hưởng lợi từ việc thu hồi đất (các nhà
đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân …). Do vậy trên thực tế việc giải quyết
hậu quả của việc thu hồi đất (thực chất là xử lý hài hòa lợi ích kinh tế giữa các bên) gặp
rất khó khăn, phức tạp. Việc giải quyết tốt vấn đề BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi
đất sẽ mang lại ý nghĩa to lớn trên nhiều phương diện.
Trên phương diện chính trị, đất đai ở nước ta vốn có vai trò vô cùng quan
trọng, chính sách pháp LĐĐ có ảnh hưởng lớn đến chính trị. Trong mối quan hệ
nhân quả đó, nếu chính sách pháp luật đúng đắn phù hợp thì sẽ góp phần lớn cho sự
ổn định chính trị. Ngược lại, sẽ làm phát sinh những điểm nóng tiềm ẩn nguy cơ gây
mất ổn định về chính trị. Một trong những chính sách, pháp luật về đất đai được xã
hội đặc biệt quan tâm đó là chính sách, pháp luật về BT, HT TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất; bởi lẽ chính sách, pháp luật này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị thu hồi đất. Trong trường hợp bị thu hồi đất nói chung và thu

15


hồi đất ở nói riêng, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất trực tiếp bị
xâm hại. Họ không chỉ mất quyền sử dụng đất mà còn buộc phải di chuyển chỗ ở.
Hậu quả là cuộc sống thường nhật của họ bị đảo lộn. Với quan niệm truyền thống
của người Việt Nam về “an cư mới lạc nghiệp” thì việc bị mất đất đai, nhà cửa thực

sự là một “cú sốc” đối với người bị thu hồi đất. Do vậy, họ phản ứng rất gay gắt,
quyết liệt thông qua việc khiếu kiện nhiều người, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài nếu
không được BT, TĐC thỏa đáng. Các khiếu kiện về đất đai nói chung và khiếu kiện
về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn
định chính trị và dễ phát sinh thành các “điểm nóng”; cho nên việc giải quyết tốt
vấn đề BT, HT, TĐC là thực hiện tốt chính sách an dân để phát triển kinh tế - xã hội
góp phần vào việc duy trì, củng cố sự ổn định về chính trị.
Trên phương diện kinh tế - xã hội, vấn đề BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất có liên quan đến nhiều thành phần người dân trong xã hội, và diễn ra trên
phạm vi rộng, thời gian kéo dài chính vì vây, đây là công việc khó khăn, phức tạp.
Trên phương diện kinh tế, nhiều dự án chậm triển khai thực hiện là do chủ
đầu tư, các doanh nghiệp bị thiệt hại đáng kể về lợi ích kinh tế do máy móc, vật tư,
thiết bị bị “đắp chiếu”, người lao động không có việc làm trong khi doanh nghiệp
vẫn phải trả lương, trả chi phí duy trì các hoạt động thường xuyên và trả lãi suất vay
vốn cho Ngân hàng… Vì vậy, thực hiện tốt công tác BT, HT và TĐC khi Nhà nước
thu hồi đất là điều kiện để doanh nghiệp sớm có mặt bằng triển khai các dự án đầu
tư góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế và nâng cao tính hấp dẫn
của môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta. Hơn nữa, duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao và bền vững sẽ có điều kiện để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
góp phần vào công cuộc “xóa đói, giảm nghèo” và tạo tiền đề cho các bước phát
triển tiếp theo.
Đối với người sử dụng đất, thực hiện tốt BT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất có
ý nghĩa giúp cho họ và các thành viên khác trong gia đình nhanh chóng ổn định cuộc
sống để tập trung sản xuất góp phần cải thiện và nâng cao mức sống. Hơn nữa điều này
còn giúp củng cố niềm tin của người bị thu hồi đất vào đường lối, chủ trương, chính

16


sách; pháp luật của Đảng và Nhà nước; đồng thời loại trừ cơ hội để kẻ xấu lợi dụng,

tuyên truyền, kích động quần chúng nhân dân khiếu kiện, đối đầu với chính quyền
nhằm gây mất ổn định tình hình trật tự an toàn xã hội và làm đình trệ sản xuất.
1.3. Điều chỉnh bằng pháp luật với bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất
1.3.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với một vấn đề chính là cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành chính sách pháp lý cho vấn đề đó. Trong vấn đề BT, HT,
TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để từng
bước hoàn thiện vấn đề BT, HT, TĐC. Trong quá trình áp dụng pháp luật về BT,
HT, TĐC do đặc điểm của BT, HT, TĐC, cũng như thực tế trong quá trình thực
hiện; các khiếu nại của người có đất bị thu hồi vẫn thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng
đến kinh tế, chính trị, anh ninh và xã hội. Do đó, việc điều chỉnh pháp luật về BT,
HT TĐC có ý nghĩa quan trọng, nhằm ổn định tình hình nói trên.
1.3.2. Cơ cấu pháp luật điều chỉnh bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Các quy định về BT, HT TĐC khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng dựa
trên những cơ sở lý luận và thực tiễn chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, BT, HT TĐC khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra dựa trên cơ sở
quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ. Hiến pháp năm 1946
đã ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tài sản: “Quyền sở hữu về tài sản
của công dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều 12). Quyền này tiếp tục được khẳng
định trong Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác
trong doanh nghiệp… Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
của công dân” (Điều 58)2. Hơn nữa, Hiến pháp năm 1992 còn ghi nhận: “Tài sản
hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc
2

Hiến pháp năm 1992, Điều 58


17


×