Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong giao dịch giữa thương nhân với người tiêu dùng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT HỢP ĐỒNG THEO MẪU
TRONG GIAO DỊCH GIỮA THƯƠNG NHÂN VỚI
NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM

NGUYỄN VĂN HẢI
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN

HÀ NỘI 10-2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ từ Giảng
viên hướng dẫn là TS. Vũ Đặng Hải Yến. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề
tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được
chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả,
cơ quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.

Xác nhận của
Giảng viên hướng dẫn

Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2018
Tác giả


TS. Vũ Đặng Hải Yến

Nguyễn Văn Hải

2


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của
bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của các thầy cô
giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vũ Đặng Hải Yến với lòng
nhiệt tình và sự quan tâm đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để
tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, đặc biệt là thầy cô giáo và các
cán bộ của Khoa Đào tạo Sau Đại học Viện Đại học Mở Hà Nội đã giảng dạy và giúp đỡ
tôi trong thời gian học tập và rèn luyện kiến thức tại trường.

Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2018
Học viên

Nguyễn Văn Hải

3


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt


Nghĩa Tiếng Việt

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ACCP

Ủy ban điều phối quốc gia về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng của ASEAN

BLDS

Bộ luật dân sự

LBVQLNTD

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

ĐKGDC

Điều kiện giao dịch chung

ĐKGDC

Điều kiện giao dịch chung

HĐTM

Hợp đồng theo mẫu


ICPEN

Mạng lưới cơ quan bảo vệ người tiêu dùng
thế giới

QLCT

Quản lý cạnh tranh

4


DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH
Bảng 1. Nhân sự triển khai hoạt động kiểm soát HĐTM tại Cục QLCT ................. 40
Bảng 2: Số lượng hồ sơ đăng ký tại Cục QLCT từ năm 2012 đến 6 tháng đầu năm 2017
.............................................................................................................................. 42
Bảng 3: Phân loại các lĩnh vực thanh tra kiểm tra .................................................. 47

5


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HỢP ĐỒNG THEO
MẪU .......................................................................................................................5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng theo mẫu ............................................5
1.1.1. Khái niệm hợp đồng theo mẫu ...............................................................5
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng theo mẫu ..........................................................6

1.2. Khái niệm kiểm soát và sự cần thiết phải kiểm soát các hợp đồng theo mẫu trong
giao dịch với người tiêu dùng ..............................................................................8
1.2.2. Sự cần thiết phải kiểm soát các hợp đồng theo mẫu trong giao dịch với người tiêu
dùng ........................................................................................................................9
1.3. Pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu ................................................. 12
1.4. Một số kinh nghiệm trên thế giới về việc bảo vệ người tiêu dùng thông qua chế
định hợp đồng theo mẫu .................................................................................... 15
1.4.1. Pháp luật một số nước.......................................................................... 15
1.4.2. Sự kế thừa kinh nghiệm quốc tế trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Việt Nam ....................................................................................................... 25
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT HỢP ĐỒNG THEO MẪU TRONG
GIAO DỊCH GIỮA THƯƠNG NHÂN VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG ................. 27
2.1. Quy định pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong giao dịch với người
tiêu dùng............................................................................................................ 27
2.1.1. Đối tượng hợp đồng theo mẫu bị kiểm soát.......................................... 27
2.1.2. Cơ quan kiểm soát ............................................................................... 28
2.1.3. Cơ chế kiểm soát ................................................................................. 28
2.1.4. Phạm vi kiểm soát................................................................................ 31
2.1.5. Quy định về chế tài xử lý trong trường hợp vi phạm ............................ 37
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu .................. 39
2.2.1. Thực trạng về nguồn lực ...................................................................... 39
2.2.2. Thực trạng công tác kiểm soát hợp đồng theo mẫu .............................. 41
2.2.3. Thực trạng công tác xử lý vi phạm ....................................................... 45

6


2.3. Một số dạng điều khoản vi phạm cụ thể ...................................................... 48
2.3.1. Hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực mua bán căn hộ chung cư .............. 48
2.3.2. Hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực phát hành thẻ ghi nợ nội địa; mở và sử

dụng dịch vụ tài khoản thanh toán (áp dụng cho khách hàng cá nhân); vay vốn cá
nhân (nhằm mục đích tiêu dùng) ................................................................... 51
2.4. Đánh giá thực trạng kiểm soát hợp đồng theo mẫu ...................................... 57
2.4.1. Đánh giá về quy định pháp luật............................................................ 57
2.4.2. Đánh giá về thực trạng triển khai nhiệm vụ kiểm soát hợp đồng theo mẫu
...................................................................................................................... 71
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT HỢP ĐỒNG
THEO MẪU ......................................................................................................... 74
3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về kiểm soát HĐTM ................................... 74
3.1.1. Điều chỉnh cơ chế/mô hình kiểm soát trong tương lai .......................... 74
3.1.2. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
và các văn bản hướng dẫn thi hành ................................................................ 76
3.1.3. Sửa đổi, bổ sung chế tài xử lý vi phạm hành chính............................... 78
3.1.4. Về thẩm quyền của cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ............ 79
3.2 Nâng cao năng lực, hiệu quả thực thi pháp luật ............................................ 80
3.2 1. Tăng cường năng lực của cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng..... 80
3.2.2. Tăng cường nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng84
3.2.3. Tăng cường hợp tác quốc tế ................................................................. 84
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 88

7


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo vệ người tiêu dùng là một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm
của toàn xã hội. Không chỉ tại Việt Nam, hầu hết các nước trên thế giới đều rất coi
trọng công tác này bởi lẽ bảo vệ người tiêu dùng chính là bảo vệ sự phát triển bền
vững của xã hội. Do đó, nhiều quốc gia đã sớm ban hành các đạo luật có nội dung,

mục đích bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Việt Nam phải đối mặt
với những thách thức trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong đó, nổi lên là
hình thức tổ chức, cá nhân sử dụng các hợp đồng theo mẫu mang ý chí đơn phương, áp
đặt quyền lợi của mình lên người tiêu dùng. Đứng trước những bất cập của Pháp lệnh
Bảo vệ người tiêu dùng 1999 trong tình hình mới, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 đã
thông qua Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Luật số 59/2010/QH12) vào ngày
17 tháng 11 năm 2010 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.
Sự ra đời của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đánh dấu bước ngoặt
quan trọng trong hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam, theo đó
một trong những công cụ được kỳ vọng mang lại hiệu quả thiết thực chính là việc
kiểm soát hợp đồng theo mẫu, của các thương nhân.
Từ khi có hiệu lực đến nay, chế định kiểm soát hợp đồng theo mẫu, bước đầu
đã phát huy vai trò tích cực trong việc phát triển môi trường kinh doanh lành mạnh
giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng thông qua việc loại bỏ các điều kiện xâm phạm
quyền lợi người tiêu dùng trong 11 (mười một) nhóm hàng hoá, dịch vụ với phạm vi
áp dụng rộng lớn từ hai tỉnh trở lên hoặc trên phạm vi cả nước; qua đó tác động lên ý
thức tuân thủ pháp luật và tôn trọng quyền lợi người tiêu dùng của cộng đồng doanh
nghiệp cũng như khuyến khích người tiêu dùng lên tiếng yêu cầu vì lợi ích chính đáng
của mình.
Tuy nhiên, việc kiểm soát đang phải đối mặt với những khó khăn chính như
sau:
Thứ nhất, việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký chủ yếu tập trung vào cấp
Trung ương là Cục Quản lý cạnh tranh, chưa hiệu quả tại các Sở Công thương nên
chưa tạo được sự đồng bộ trên cả nước;


Thứ hai, một số hoạt động quan trọng nhưng chưa được triển khai hoặc triển
khai chưa thường xuyên như kiểm soát hợp đồng theo mẫu, trong các lĩnh vực chưa
thuộc phạm vi phải đăng ký hoặc việc thanh kiểm tra xử lý vi phạm hành chính;

Thứ ba, cơ chế kiểm soát chưa phù hợp với tình hình xã hội hiện tại.
Thứ tư, chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe, chưa hướng tới việc khôi
phục quyền lợi bị xâm phạm của người tiêu dùng;
Trong khi đó, trong những vấn đề kinh tế trọng tâm của đất nước giai đoạn tới
có mục tiêu đô thị hóa, sự tập trung phát triển lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, bất động
sản. Đây là những lĩnh vực hiện nay đã được đưa vào Danh sách hàng hoá, dịch vụ
thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung theo Quyết định
02/2012/QĐ-TTg ngày 13 tháng 01 năm 2012 về việc ban hành Danh mục hàng hoá,
dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung và Quyết
định số 35/2015/QĐ-TTg ngày 20 tháng 08 năm 2015 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết
định 02/2012/QĐ-TTg. Dự báo trong thời gian tới, những lĩnh vực này phát triển sẽ
kéo theo sự phức tạp, đa dạng hơn nữa của các loại hợp đồng giao kết với người tiêu
dùng cũng như các vấn đề tranh chấp có thể phát sinh.
Bên cạnh đó, sự hội nhập của Việt Nam trong phong trào bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong khu vực và quốc tế thông qua việc tham gia vào các tổ chức bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng thế giới như ACCP, ICPEN cũng đang đặt ra những yêu
cầu cao hơn trong hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam.
Vì những lý do nêu trên, việc lựa chọn đề tài “Pháp luật về kiểm soát hợp đồng
theo mẫu trong giao dịch giữa thương nhân với người tiêu dùng ở Việt Nam” làm
đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ sẽ góp phần giúp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trước đòi hỏi của tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kiểm soát hợp đồng theo mẫu, được khá nhiều học giả nhiên cứu.
Tại Việt Nam, vấn đề kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
được nghiên cứu và đưa vào giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của
Trường đại học Luật Hà Nội.
Ngoài ra, có một số học giả quan tâm nghiên cứu như PGS.TS. Nguyễn Như
Phát, “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”;

2



ThS. NCS Đỗ Giang Nam, “Bình luận về các quy định liên quan đến hợp đồng
theo mẫu và điều kiện giao dịch chung trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”...
Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
trong giao dịch giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng dưới cái nhìn
phân tích, đánh giá chi tiết, tổng hợp về thực tiễn pháp luật và thực tiễn áp dụng tại các
cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp giải
quyết vấn đề thì vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu thỏa đáng.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng quy định và thực tiễn áp dụng
quy định pháp luật Việt Nam về kiểm soát hợp đồng.
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế trong pháp luật
một số quốc gia thu thập được tài liệu (bao gồm Canada (Quebec), Pháp, Châu Âu,
Đài Loan, Malaysia); quy định về pháp luật theo Luật BVQLNTD và các văn bản
hướng dẫn thi hành và thực trạng áp dụng pháp luật tại các cơ quan bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng Việt Nam trong thời gian từ năm 2012 đến 2017.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu chính của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn trong việc kiểm soát hợp đồng theo mẫu theo pháp luật Việt Nam, trên cơ sở
đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả thực thi
pháp luật về kiểm soát HĐTM trong dịch giữa thương nhân với người tiêu dùng.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung trả lời những câu hỏi sau về vấn đề kiểm soát hợp đồng theo
mẫu:
Thứ nhất, tại sao phải đặt ra vấn đề kiểm soát hợp đồng theo mẫu?
Thứ hai, việc kiểm soát có phù hợp với thực tiễn Việt Nam không và có cần
hoàn thiện thêm không?
Thứ ba, thực tế triển khai có hiệu quả và mang lại lợi ích cho xã hội không, có
khó khăn, vướng mắc cần khắc phục không?

Thứ tư, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực, hiệu quả thực thi
pháp luật ra sao?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

3


Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, luận văn được thực hiện theo các phương
pháp truyền thống như: phương pháp nghiên cứu khoa học duy vật, biện chứng,
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, luận giải, đánh giá, khảo cứu thực tiẽn v.v...
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học như sau:
Thứ nhất, luận văn là công trình nghiên cứu khoa học góp phần làm rõ những
vấn đề lý luận và thực tiễn của việc kiểm soát hợp đồng theo mẫu, theo Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ hai, luận văn là công trình nghiên cứu đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật và nâng cao năng lực, hiệu quả thực thi pháp luật về việc kiểm soát hợp
đồng theo mẫu, trong giao dịch giữa thương nhân với người tiêu dùng.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được các cơ quan quản lý nhà
nước, các cơ quan nghiên cứu, tổ chức xã hội có chức năng, nhiệm vụ liên quan tới
công tác kiểm soát hợp đồng theo mẫu, tham khảo và sử dụng; là tài liệu tham khảo
cho sinh viên tại các đại học giảng dạy về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
8. Bố cục của luận văn
Dựa trên mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, luận văn được cấu trúc
bao gồm 3 chương với nội dung như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm soát hợp đồng theo mẫu.
Chương 2: Thực trạng kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong giao dịch giữa
thương nhân với người tiêu dùng;
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát hợp đồng theo mẫu.


4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HỢP ĐỒNG THEO MẪU
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng theo mẫu
1.1.1. Khái niệm hợp đồng theo mẫu
Trong nền kinh tế hiện đại, việc áp dụng HĐTM đã trở thành một hiện tượng
hết sức phổ biến.
Khi ký kết các hợp đồng với các nhà cung cấp hàng hóa hay sản phẩm đại trà,
người tiêu dùng dường như không nhìn thấy tinh thần “tự do khế ước” của hợp đồng.
Bên cạnh đó, họ thường phải chấp nhận những quy tắc bán hàng do chính nhà cung
cấp sản phẩm, dịch vụ đặt ra và về nguyên tắc những quy tắc này không phải là đối
tượng của việc đàm phán. Do ở thế yếu, người tiêu dùng phải chấp nhận và đôi khi
không biết đến chúng mà cũng chẳng biết đến khả năng cần phải kiểm soát chúng. Chỉ
đến khi có tranh chấp xảy ra hay có một sự kiện nào đó, người ta mới vỡ lẽ ra rằng,
đây là một hiện tượng mang tính pháp lý có liên quan đến hợp đồng.
Các HĐTM được các luật gia phương tây mô tả là đứa con của cuộc cách mạng
công nghiệp ở thế kỷ 19. Việc xuất hiện khả năng sản xuất và cung cấp các sản phẩm
và dịch vụ mang tính hàng loạt và liên tục cho vô số các khách hàng đã đặt ra vấn đề
“tiêu chuẩn hóa” các điều khoản của các hợp đồng mua bán. Trong bối cảnh đó, các
doanh nghiệp, trước tiên là bảo hiểm, giao thông, tín dụng rồi sau đó là các doanh
nghiệp sản xuất, dịch vụ, đều thiết lập cho mình những quy tắc bán hàng thống nhất,
áp dụng chung trong các giao dịch với khách hàng của mình1.
Với pháp luật Việt Nam, vấn đề này được đề cập lần đầu tiên trong BLDS
1995, dưới khái niệm ban đầu là HĐTM. Đến nay, HĐTM, ĐKGDC được điều chỉnh
chủ yếu trong BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 (thay thế BLDS 2005) và Luật
BVQLNTD 20102.
Khái niệm về HĐTM lần đầu tiên được định nghĩa trong BLDS 1995, sau đó
được định nghĩa trong Luật BVQLNTD 2010 và BLDS 2005. Điều 406 BLDS 1995,

Điều 407 BLDS 2005 và Điều 405 BLDS 2015 lần lượt đưa ra định nghĩa tương tự

1

Nguyễn Như Phát (2010), “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Trang
thông tin Cục QLCT tại địa chỉ: ngày truy cập
12/3/2016
2
Bên cạnh đó, một số pháp luật chuyên ngành cũng điều chỉnh vấn đề về điều khoản mẫu như trong Luật Kinh
doanh bảo hiểm.

5


nhau: “HĐTM là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên
kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi
như chấp nhận toàn bộ nội dung HĐTM mà bên đề nghị đã đưa ra”.
Luật BVQLNTD 2010 định nghĩa: “HĐTM là hợp đồng do tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng” (khoản 3
Điều 3).
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng theo mẫu
Từ những định nghĩa cụ thể nêu trên, có thể khái quát đặc điểm của HĐTM,
như sau3:
Thứ nhất , đây là những quy định, quy tắc, điều kiện do thương nhân đơn
phương ban hành. Đây có thể coi là đặc điểm nổi bật nhất của HĐTM. Những quy tắc,
quy định này được ban hành một cách đơn phương mà không có bất kỳ sự thỏa thuận
nào giữa thương nhân và người tiêu dùng. Vì vậy, HĐTM, thường thể hiện ý chí độc
đoán và áp đặt của thương nhân, thường vì mục tiêu dành lấy phần thuận lợi và an toàn
pháp lý cho mình và đẩy quả bóng bất lợi cho phía người tiêu dùng mà nội dung của
nó lại có thể vi phạm pháp luật hoặc không lành mạnh, thiếu đạo đức. Trong khi, các

quy tắc, điều kiện đó dù thể hiện trong hợp đồng (miệng hay văn bản) hay không
nhưng trở thành nội dung mặc nhiên của hợp đồng khi người tiêu dùng tham gia quan
hệ tiêu dùng.
Hai là, HĐTM, được áp dụng chủ yếu cho người tiêu dùng. Mục đích của
thương nhân khi ban hành các HĐTM, là để tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong quá
trình giao dịch với người tiêu dùng. Do vậy, đối tượng áp dụng chủ yếu của HĐTM, là
người tiêu dùng. Thương nhân khi ban hành các HĐTM, không hướng đến các đối
tượng khác như các nhà cung cấp nguyên liệu, phụ kiện, các khách hàng lớn mà chủ
yếu là để áp dụng cho đối tượng là người tiêu dùng nhỏ lẻ. Điều này xuất phát từ thực
tiễn kinh doanh của thương nhân khi số lượng người tiêu dùng của họ là quá lớn không
cho phép sử dụng các hình thức giao kết hợp đồng truyền thống dựa trên nguyên tắc tự
do, tự nguyện. Về phương diện này, HĐTM, sẽ là công cụ quan trọng để cải tiến và
hợp lý hóa phương thức bán hàng hiện đại.

3

Nguyễn Như Phát (2010), “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Trang
thông tin Cục QLCT tại địa chỉ: ngày truy cập
12/3/2016.

6


Ba là, HĐTM, áp dụng cho nhiều người tiêu dùng và sử dụng nhiều lần. Các
quy tắc, quy định mà thương nhân ban hành không phải hướng đến một người tiêu
dùng nào cụ thể hay một trường hợp nào cụ thể mà nó như một “luật” riêng mà thương
nhân áp dụng cho nhiều người tiêu dùng và sử dụng một cách lâu dài. Phương thức
bán hàng hóa truyền thống dựa trên cơ sở hợp đồng được giao kết với từng đối tượng
theo cách thức khác nhau và các quyền, nghĩa vụ cũng có thể có sự khác nhau trên cơ
sở, thỏa thuận giữa thương nhân và người tiêu dùng. Tuy nhiên, khi sử dụng HĐTM,

thì dường như không có bất kỳ sự phân biệt nào giữa các người tiêu dùng với nhau,
hay nói cách khác là các quy tắc, quy định mặc nhiên áp dụng cho tất cả người tiêu
dùng khi xác lập giao dịch với thương nhân.
HĐTM, được thiết lập dưới nhiều hình thức đa dạng, bao gồm cả hình thức
“HĐTM” và “ĐKGDC” như được đề cập trong BLDS và Luật BVQLNTD. Sự khác
biệt giữa ĐKGDC và HĐTM ở chỗ, các ĐKGDC, thông thường không nằm ngay
trong bản hợp đồng, nó có thể được quy định trong các văn bản riêng miễn là được bên
cung cấp dịch vụ công bố công khai.
Mặc dù có sự khác biệt giữa khái niệm HĐTM và ĐKGDC theo quy định của
pháp luật Việt Nam nhưng cả hai khái niệm này đều cùng chỉ đến một hiện tượng khi
mà các HĐTM, ĐKGDC do một bên đơn phương soạn thảo hoặc công bố và được sử
dụng trên thực tế với đối tác mà không cần có sự thỏa thuận, mặc cả về nội dung của
HĐTM, ĐKGDC đó.Bên còn lại không có khả năng đàm phán thay đổi nội dung mà
chỉ có khả năng chấp thuận hoặc từ chối điều khoản (take it or leave it)4.
Bình luận số 2 của Điều 2.1.19 của Bộ nguyên tắc UNIDROIT về Hợp đồng
Thương mại quốc tế đã miêu tả một cách chính xác đặc trưng đó như sau:
“Yếu tố quyết định không phải là hình thức trong đó các điều khoản này được
trình bày (ví dụ: các điều khoản này được chứa đựng trong văn bản riêng hay trong
chính hợp đồng; các điều khoản này được ban hành dưới dạng bản in sẵn hay chỉ
được lưu trữ online), cũng không phải người soạn thảo các HĐTM, ĐKGDC (chính là
một trong các bên, hay hiệp hội thương mại hay nghề nghiệp...), hay số lượng (bao
gồm toàn bộ các điều khoản liên quan đến tất cả các khía cạnh liên quan của hợp
đồng hay chỉ một hay hai điều khoản, chẳng hạn điều khoản miễn trừ trách nhiệm

4

F.Kessler (1943), “Contracts of Adhesion--some Thoughts about Freedom of Contract”, Colum.L.Rev., tr.629.

7



hoặc điều khoản trọng tài). Yếu tố quyết định là việc thực tế các điều khoản này đã
được soạn sẵn để sử dụng chung, nhiều lần lặp đi lặp lại và trong trường hợp đó, được
sử dụng thực sự bởi một bên không dựa trên sự thương lượng với phía bên kia”5.
1.2. Khái niệm kiểm soát và sự cần thiết phải kiểm soát các hợp đồng theo mẫu
trong giao dịch với người tiêu dùng
1.2.1. Khái niệm và cơ chế kiểm soát
Theo nghĩa chung, kiểm soát được hiểu là xem xét một hành vi có làm theo
đúng quy tắc, kỷ luật hay pháp luật không6 hoặc xem xét để phát hiện, ngăn chặn
những gì trái quy định7, bao gồm các hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động;
phát hiện sai lệch vi phạm và áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm tối thiểu hóa sai
lệch vi phạm đảm bảo thực hiện mục tiêu8.
Bên cạnh sự kiểm soát trong nội bộ doanh nghiệp, nhà nước còn xây dựng
những biện pháp kiểm soát thông qua cơ chế hành chính. Việc kiểm soát HĐTM,
ĐKGDC của các tổ chức, cá nhân kinh doanh được quy định trong Luật BVQLNTD là
một trong những cơ chế như thế. Qua đó, nhà nước can thiệp vào nội dung HĐTM,
ĐKGDC trước khi xác lập giao dịch cũng như trong quá trình áp dụng với người tiêu
dùng.
Quá trình kiểm soát này được cấu thành bởi các yếu tố sau:
- Chủ thể kiểm soát: cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng bao
gồm Cục QLCT và Sở Công thương;
- Đối tượng kiểm soát: tổ chức, cá nhân kinh doanh sử dụng HĐTM, trong giao
dịch với người tiêu dùng;
- Mục tiêu: bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng khi tham gia giao
dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh; giảm thiểu tranh chấp phát sinh từ việc giao
kết/tham gia HĐTM; bảo đảm trật tự chung của toàn xã hội và môi trường kinh doanh
lành mạnh, bền vững;

5


Xem nguyên bản tiếng Anh tại < truy cập ngày 15/12/2015.
6
Từ điển tiếng Việt (2013), Nxb Từ điển Bách khoa, tr.903.
7
Xem từ điển tiếng Việt (2015), Nxb Đà Nẵng, tr.685.
8
Lê Hương (2014), “Quản lý hành chính nhà nước”, Thư viện chia sẻ tài liệu tại địa chỉ: ngày truy cập
30/2/2016

8


- Cơ chế kiểm soát: (i) tiền kiểm (pháp luật yêu cầu đăng ký HĐTM, đối với
một số hàng hoá, dịch vụ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trước khi áp dụng
với người tiêu dùng); (ii) hậu kiểm (đối với những HĐTM, không thuộc phạm vi phải
đăng ký, cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh loại bỏ
điều khoản vi phạm trong các HĐTM, trong quá trình áp dụng với người tiêu dùng);
(iii) vừa tiền kiểm vừa hậu kiểm (cơ quan có thẩm quyền xét duyệt hồ sơ đăng ký,
đồng thời và kiểm tra việc áp dụng HĐTM, đã được chấp nhận trên thực tế).
1.2.2. Sự cần thiết phải kiểm soát các hợp đồng theo mẫu trong giao dịch với người
tiêu dùng
Việc sử dụng cùng một HĐTM, cho nhiều giao dịch khác nhau đóng vai trò
quan trọng trong việc giảm chi phí và thời gian đàm phán, qua đó tăng hiệu quả kinh tế
của việc giao kết hợp đồng9. Chính vì lý do thiết thực này, HĐTM, đã trở thành một
phần không thể thiếu trong đời sống hiện đại, đặc biệt là trong kỷ nguyên số với sự
phát triển của thương mại điện tử hiện nay.
Tuy nhiên, các HĐTM, cũng tạo ra những thách thức mới đối với lý thuyết
truyền thống về hợp đồng vốn được xây dựng dựa trên ý niệm: hợp đồng là kết quả
của đàm phán10. Việc các HĐTM, do một bên “áp đặt” cho bên còn lại, có thể dẫn đến
tình trạng làm giảm khả năng của bên kia trong việc đạt tới một thỏa thuận công bằng.

Quá trình chuyển đổi mô hình kinh doanh ở Việt Nam đi liền với quá trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là việc thiết lập khung pháp luật dân sự làm nền tảng
cho các giao dịch. Để đáp ứng mục tiêu trên, BLDS năm 1995 và sau đó là BLDS năm
2005 được xây dựng dựa trên nguyên tắc nền tảng của luật hợp đồng cổ điển: nguyên
tắc tự do hợp đồng. Nội hàm cơ bản của nguyên tắc tự do hợp đồng là quyền tự do của
các bên trong việc xác lập hợp đồng, lựa chọn đối tác và các điều khoản của hợp đồng.
Chức năng của pháp luật hợp đồng khi đó là thiết lập các cơ chế hữu hiệu để đảm bảo
quá trình giao kết hợp đồng và hỗ trợ thực thi các cam kết thỏa thuận đạt được dựa
trên sự tự do ý chí của các bên. Nhà nước, thông thường không can thiệp trực tiếp vào
nội dung của hợp đồng, bởi vì một khi hợp đồng là kết quả của quá trình tự do thương
lượng và thỏa thuận giữa các bên có địa vị pháp lý bình đẳng, các điều khoản của hợp
9

Gillette, Clayton P.(2009), “Standard Form Contracts”,. NYU Law and Economics Research Paper No.09-18
tại địa chỉ ngày truy cập 15/12/2015.
10
Thomas Wilhelmsson (2011), “Standard Form Conditions”, Arthur S. Hartkamp, Towards a European Civil
Code, Kluwer Law; tr.571-586.

9


đồng được kỳ vọng là kết quả công bằng cho các bên11. Nguyên tắc này tiếp tục được
thừa nhận là nguyên tắc cơ bản của luật hợp đồng trong BLDS 2015.
Tuy nhiên, khi HĐTM, được sử dụng, các bên không thực sự có cơ hội thương
lượng và thỏa thuận. Trên thực tế không có hoặc có rất ít cơ hội cho bên là đối tượng
áp dụng HĐTM, ĐKGDC được tham gia quyết định nội dung của hợp đồng. Về cơ
bản, có hai mô hình chủ yếu được áp dụng để lý giải nguyên nhân tại sao cần phải kiểm
soát tính công bằng trong hợp đồng mẫu, bao gồm học thuyết về chi phí giao dịch và học
thuyết về lạm dụng vị thế12.

Học thuyết về chi phí giao dịch: Học thuyết này nhấn mạnh đến bản chất của
hợp đồng mẫu khi có sự bất cân xứng về chi phí giao dịch (transaction costs) giữa bên
ban hành HĐTM, và bên còn lại. Vì HĐTM có thể được sử dụng lặp đi lặp lại cho
nhiều giao dịch khác nhau, bên ban hành HĐTM có thể phân tán chi phí đầu tư cho
việc soạn thảo hợp đồng. Trong khi đó, do chỉ tham gia giao dịch một lần, bên còn lại
sẽ không có động cơ để trả chi phí tương ứng với phía bên kia nhằm thu thập những
thông tin cần thiết cho quá trình thương lượng hợp đồng. Vì nguyên nhân đó, luôn tồn
tại sự bất cân xứng về thông tin giữa bên ban hành HĐTM và bên đối tác 13. Do đó,
việc sử dụng HĐTM thường dẫn đến hệ quả là tước đoạt khả năng của một bên trong
việc thương thảo nhằm đạt đến một điều khoản công bằng.
Bên cạnh đó, vì thiếu thông tin và động cơ để đàm phán từng nội dung của
HĐT, phía bên kia mà tiêu biểu là người tiêu dùng sẽ dần dần hình thành tâm lý bỏ
mặc, không quan tâm đọc, tìm hiểu nội dung của điều khoản đó nữa. Hậu quả kéo theo
của hiện tượng này là, nếu người tiêu dùng không có thói quen đọc HĐTM, bên cung
cấp HĐTM cũng không có động lực cạnh tranh để thiết kế HĐTM tốt hơn, hấp dẫn
hơn đối với người tiêu dùng. Các doanh nghiệp khác, ban đầu cung cấp các HĐTM
tương đối tốt, chứng kiến hiện tượng đó, sẽ dần dần loại bỏ điều khoản công bằng,
thay vào đó là điều khoản bất công cho người tiêu dùng. Tình trạng này kéo dài sẽ mở
rộng ra toàn bộ thị trường, dẫn đến sự “thất bại của thị trường” theo một hiện tượng

11

Atiyah (1979), P.S. The Rise and Fall of Freedom of Contract (Oxford: Oxford University Press).
Martin Ebers (2008), “Unfair Contract Terms Directive (93/13)”, H. Schulte-Nửlke et al., EC Consumer Law
Compendium, tr.337; Xem thêm P. Nebbia (2007), “Unfair Contract Terms in European Law”, A Study in
Comparative and EC Law, Vol. 15.
13
Schọfer, Hans-Bernd, and Patrick C. Leyens (2010), “Judicial control of standard terms and European private
law, Economic Analysis of the DCFR - The Work of the Economic Impact Group within the CoPECL Network
of Excellence, Munich”, Sellier European Law Publishers, tr. 97-119, 103.

12

10


mà George Arthur Akerlof - kinh tế gia đoạt giải Nobel năm 2001 - gọi là “market for
lemons”14, trong đó chất lượng HĐTM ngày càng giảm đi theo hướng bất lợi cho
người tiêu dùng15. Chính điều đó là lý do tại sao cần phải có sự kiểm soát từ phía nhà
nước để đảm bảo tính công bằng trong nội dung các HĐTM, ĐKGDC.
Học thuyết về lạm dụng vị thế: Học thuyết này dựa trên khái niệm về sự chênh
lệch về vị thế thương lượng giữa các bên (inequality of bargaining power). Theo đó,
trái với học thuyết về chi phí giao dịch, nguyên nhân sâu xa đằng sau việc hợp đồng
mẫu mà nhấn mạnh đến nhu cầu bảo vệ một nhóm người xác định cụ thể - người tiêu
dùng là bên thường được coi là bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng với doanh
nghiệp16. Do có lợi thế hơn về mặt vị thế kinh tế, xã hội và tâm lý, doanh nghiệp
thường có khả năng đơn phương áp đặt các điều khoản do mình soạn thảo gây bất lợi
cho người tiêu dùng. Các đạo luật về kiểm soát tính công bằng của hợp đồng được
thiết kế dựa trên một nguyên tắc mới của luật hợp đồng hiện đại - nguyên tắc bảo vệ
bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng17.
Bên cạnh đó, việc sử dụng các HĐTM cũng đẩy người tiêu dùng đến trước
những rủi ro đồng thời cũng là thách thức cho nhiệm vụ quản lý nhà nước như sau:
Thứ nhất, việc thiếu khả năng thương lượng và thỏa thuận có thể dẫn đến việc
một bên không nhận thức được sự tồn tại hay nội dung của HĐTM do một bên đơn
phương đưa ra. Do đó, vấn đề đầu tiên đặt ra là pháp luật cần can thiệp để quy định
những điều kiện nhất định để HĐTM do một bên đơn phương soạn thảo có thể trở
thành một phần của hợp đồng và ràng buộc bên còn lại (the incorporation issue)?
Thứ hai, vấn đề quan trọng hơn là việc sử dụng các HĐTM, có nguy cơ tạo ra
hợp đồng bất lợi và thậm chí bất công cho bên còn lại, vậy làm thế nào để đảm bảo
tính công bằng trong các trường hợp đó (the issue of control of unfair terms)?


14

George Akerlof (1970), “The Market of Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism”, 84 QJ
Econ., tr.488
15
M. Schillig (2008), “Inequality of Bargaining Power Veus Market for Lemons: Legal Paradigm Change and
the Court of Justice’s Jurisprudence on Directive 93/13 on Unfair Contract Terms”, Eur.Law Rev., tr. 336-358.
16
Martijn Hesselink, Marco Loos (2012), “Unfair Terms in B2C Contracts”, CSECL Working Paper No.7.
17
Ewoud Hondius (2004), “The Protection of the Weaker Party in Harmonized European Contract Law: A
Synthesis”, Journal of Consumer Policy 27, tr.245-251.

11


Thứ ba, các HĐTM sẽ được giải thích như thế nào khi bên còn lại không có khả
năng tác động vào quá trình soạn thảo hợp đồng (the interpretaion issue)?18
Trước những vấn đề đã nêu, các nhà soạn thảo Luật BVQLNTD Việt Nam nhận
định rằng sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ tư này sẽ góp phần ổn định trật tự
xã hội, bảo vệ lợi ích chung của xã hội và trong một chừng mực nhất định tạo ra thế
cân bằng trong giao lưu dân sự19.
1.3. Pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu
Quan hệ tiêu dùng là một loại quan hệ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng mua
bán, theo đó, người tiêu dùng mua và/hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của
người cung cấp mà không vì mục đích kinh doanh (bán lại). Như vậy, quan hệ tiêu
dùng không phải là quan hệ thương mại, được điều chỉnh bởi Luật Thương mại mà chỉ
có thể là quan hệ dân sự được điều chỉnh chung bởi Bộ luật dân sự.
Là văn bản pháp luật gốc trong đời sống pháp lý dân sự, Bộ luật dân sự yêu cầu
phải thiết lập các quan hệ pháp luật dân sự theo các nguyên tắc tự do thỏa thuận,

nguyên tắc bình đẳng, thiện chi và trung thực, tự chịu trách nhiệm, tôn trọng đạo đức
tốt đẹp, tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự, tôn trọng lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, nguyên tắc tuân thủ pháp luật và nguyên
tắc hòa giải.
Tuy nhiên, tính chất xã hội của quan hệ tiêu dùng là họ luôn buộc phải tham gia
vào mối quan hệ với đặc tính truyền kiếp là “thông tin bất cân xứng”. Do đó, người
tiêu dùng khó có thể có cơ hội được tự do, bình đẳng. Bên cạnh sự bất cân xứng về
thông tin, người tiêu dùng còn có thể phải rơi vào tình trạng mất khả năng mặc cả khi
họ buộc phải sử dụng hàng hoá, dịch vụ của nhà cung cấp độc quyền.
Thực tế cho thấy, những kẻ có thế và lực mạnh hơn thường hành xử theo xu
hướng lạm dụng quyền lực trong quan hệ với kẻ yếu. Thêm vào đó, nếu như cứ có
300% lợi nhuận thì các nhà “tư bản” sẵn sàng treo cổ mình lên và vì vậy, họ cũng sẵn
sàng “khuyến mại” cho khách hàng và người tiêu dùng những cạm bẫy pháp lý và kỹ
thuật và thậm chí còn cả những thứ độc hại. Vì lẽ đó, mọi hệ thống pháp luật nhân đạo
đều phải ưu tiên bảo vệ kẻ yếu và như thế, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng sẽ tựa hồ
18

Trong cuốn Towards a European Civil Code, Thomas Wilhemsson cũng khẳng định đây là ba vấn đề quan
trọng nhất mà các quy định của BLDS Châu Âu trong tương lai cần phải điều chỉnh. Xem thêm Thomas
Wilhelmsson, Standard Form Conditions; sđd, tr. 571-586.
19
Bộ Công thương (2010), Tờ trình số 28/TTr-CP ngày 8/4/2010 về Dự án Luật Bảo vệ người tiêu dùng, tr.6

12


như một công cụ hỗ trợ từ bên ngoài quan hệ dân sự để khắc phục những lỗ hổng về
khả năng tự do và bình đẳng của người tiêu dùng trong quan hệ với nhà cung cấp để
quan hệ dân sự có thể trở lại với đúng nguyên tắc của nó20.
Trên tinh thần đó, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng là loại pháp luật mang tính

can thiệp vào quyền tự do (do không nhận thức được quy luật) của các nhà cung cấp
sản phẩm, hàng hoá dịch vụ và như thế, không có sự tự do và bình đẳng trong quan hệ
pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng.
Cũng cần lưu ý rằng, các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật cạnh tranh,
pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm, pháp luật về chất lượng sản phẩm và rộng ra
là cả pháp luật dân sự, hình sự đều có thêm mục đích là bảo vệ người tiêu dùng. Tuy
nhiên, nếu như những pháp luật này bảo vệ người tiêu dùng theo phương pháp can
thiệp vào hành vi của nhà sản xuất, kinh doanh, cung cấp sản phẩm hàng hoá dịch vụ
thông qua những hạn chế hoặc cấm đoán hành vi thì pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
(với tính cách là một chế định pháp luật độc lập) lại xuất hiện ở phía người tiêu dùng.
Theo đó, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng sẽ tạo cho người tiêu dùng những khả năng
và cơ hội thuận lợi hơn trong cơ chế điều chỉnh pháp luật quan hệ mua bán (theo luật dân
sự) mà một chủ thể pháp luật dân sự thông thường sẽ không có được.
Nếu như trong xã hội không xuất hiện quan hệ tiêu dùng như đã trình bày trên
đây thì mọi quan hệ dân sự thông thường đều chỉ cần đến sự điều chỉnh của pháp luật
dân sự truyền thống. Như thế, mọi vấn đề đều được diễn ra như theo những nguyên tắc
truyền thống trong việc xem xét, đánh giá và xử lý các hành vi pháp lý.
Tuy nhiên, xuất phát từ những phân tích trên đây, sản xuất hàng hoá dẫn đến
những người cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ chuyên nghiệp và quan hệ tiêu
dùng nhất định phải xuất hiện trong xã hội hiện đại. Vì vậy, do bản thân quan hệ tiêu
dùng luôn tiềm ẩn những ngoại lệ của nguyên tắc dân sự truyền thống nên việc thiết kế
cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng phải tính đến việc thực thi những ngoại lệ trong
quan hệ pháp luật dân sự về nội dung và hình thức. Hơn thế nữa, do chính pháp luật đã
chứa trong mình sự bất công bằng (do phải dùng cùng một thước đo để áp dụng cho
mọi hiện tượng cụ thể khác nhau trên thực tế) nên việc áp dụng những ngoại lệ của cơ

20

Nguyễn Như Phát (2010), “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Trang
thông tin Cục QLCT tại địa chỉ: ngày truy cập

12/3/2016.

13


chế áp dụng pháp luật dân sự đối với người tiêu dùng là xuất phát từ nhu cầu nội tại
của chính hiện tượng pháp luật để thiết lập sự công bằng pháp lý trên thực tế. Điều này
cũng từng bước thể hiện trong quan hệ pháp luật lao động.
Từ những điều trên đây cho thấy, việc áp dụng những hiện tượng điều chỉnh
pháp luật mang tính đặc thù và ngoại lệ trong cơ chế điều chỉnh pháp luật bảo vệ người
tiêu dùng là nhu cầu khách quan mà không chỉ là nhân đạo và điều này không làm “đổ
vỡ nền tảng của pháp luật dân sự” - như đã có sự lo lắng. Điều này khẳng định được
bởi lẽ, (i) thứ nhất là không có nguyên tắc nào mà không có ngoại lệ mà ngoại lệ này
đã được luận chứng như trên và (ii) thứ hai là khi áp dụng những ngoại lệ pháp lý (về
nội dung và hình thức trong cơ chế dân sự) thì những ngoại lệ này một mặt chỉ áp
dụng trong quan hệ tiêu dùng và đối với người tiêu dùng và mặt khác, những vấn đề
khác thuộc về pháp luật nội dung và hình thức trong lĩnh vực dân sự và những lĩnh vực
khác (như đất đai, tài chính...) mà không được phát triển để trở thành “ngoại lệ” thì giữ
nguyên giá trị điều chỉnh quan hệ tiêu dùng.
Từ đây, có thể rút ra hệ quả là pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hiểu
theo nghĩa tổng quát là một hệ thống pháp luật có liên quan đến nhau mà đạo luật riêng
rẽ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chỉ có giá trị tiên phong21.
Qua tìm hiểu về các quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hệ thống
pháp luật, có thể thấy cấu trúc về chế định kiểm soát HĐTM bao gồm những nhóm
quy định chính sau:
(i) Định nghĩa về HĐTM;
(ii) Đối tượng bị kiểm soát;
(iii) Cơ quan kiểm soát;
(iv) Cơ chế kiểm soát;
(v) Phạm vi kiểm soát;

(vi) Quy định về chế tài xử lý trong trường hợp vi phạm.
Các quy định pháp luật cụ thể theo cấu trúc này sẽ được phân tích tại Mục 2.1
Chương 2.

21

Nguyễn Như Phát (2010), “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Trang
thông tin Cục QLCT tại địa chỉ: ngày truy cập
12/3/2016.

14


1.4. Một số kinh nghiệm trên thế giới về việc bảo vệ người tiêu dùng thông qua
chế định hợp đồng theo mẫu
1.4.1. Pháp luật một số nước
Trong phạm vi tài liệu tiếp cận được, tác giả đã nghiên cứu và rút ra kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới về việc bảo vệ người tiêu dùng thông qua chế
định HĐTM như sau:
1.4.1.1. Canada (Quebec)
Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Quebec cũng như bản hướng dẫn thực thi Luật
đã quy định một cách chi tiết các vấn đề liên quan đến hợp đồng tiêu dùng. Quan điểm
của nhà làm Luật Quebec là bảo vệ người tiêu dùng thông qua chế định hợp đồng. Do
đó, các chế định trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Quebec đều liên quan đến chế
định hợp đồng. Hay nói cách khác, có thể xem Luật Bảo vệ người tiêu dùng Quebec
như một đạo luật bảo vệ người tiêu dùng thông qua quan hệ hợp đồng giữa người tiêu
dùng và thương nhân.
Chương 1 của Luật về những quy định chung trong đó đưa ra các quy định
chung liên quan đến việc bảo vệ người tiêu dùng thông qua Hợp đồng hàng hoá, dịch
vụ. Ngay tại Điều 8, Luật khẳng định: “Người tiêu dùng có thể đề nghị tuyên bố vô

hiệu một hợp đồng hoặc đề nghị giảm nghĩa vụ của mình nếu trong hợp đồng thể hiện
rõ sự không cân xứng giữa phần nghĩa vụ tương ứng của các bên mà phần lớn thuộc
về người tiêu dùng hoặc nếu nghĩa vụ của người tiêu dùng là quá nhiều, không hợp
lý”. Điều này có nghĩa là một hợp đồng có thể bị tuyên là vô hiệu nếu nó chứa đựng
những điều khoản gây bất lợi cho người tiêu dùng về phần nghĩa vụ mà người tiêu
dùng phải thực hiện. Tuy nhiên, Luật không coi trong trường hợp này hợp đồng sẽ bị
vô hiệu đương nhiên mà chỉ bị tuyên là vô hiệu khi có yêu cầu của người tiêu dùng.
Đây là một quy định bảo vệ người tiêu dùng một cách rõ ràng trong trường hợp họ
thấy những quy định trong hợp đồng là vô lý.
Tại Điều 10, Điều 11 cũng quy định về những điều khoản bị cấm, theo đó: “Bất
kỳ quy định nào mà nhờ đó một thương nhân được giải phóng khỏi hậu quả do việc
làm của chính thương nhân hoặc đại diện của thương nhân đó gây ra đều bị cấm” và
“bất kỳ quy định nào mà nhờ đó một thương nhân duy trì quyền quyết định đơn
phương: (i) mà người tiêu dùng không có khả năng để hoàn thành một hoặc một vài
trong số các nghĩa vụ của mình, hoặc (ii) mà trên thực tế đã xảy ra trường hợp trên

15


đều bị cấm”. Như vậy, kể cả khi điều khoản bất lợi trong hợp đồng chưa gây thiệt hại
cho người tiêu dùng cũng như người tiêu dùng không đề nghị hủy bỏ hoặc tuyên vô
hiệu hợp đồng nhưng nếu hợp đồng chứa những nội dung bị cấm (giải phóng nghĩa vụ
của thương nhân) thì đều bị cấm.
Về ngôn ngữ hợp đồng, Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Quebec quy định cụ
thể về ngôn ngữ hợp đồng trong từng loại hợp đồng nhất định đồng thời đưa ra nguyên
tắc về giải thích từ ngữ trong trường hợp ngôn ngữ của hợp đồng mập mờ, khó hiểu.
Tại Điều 17 của Luật quy định “Trong trường hợp có những điều khoản bị nghi ngờ
hoặc tối nghĩa/mơ hồ, hợp đồng sẽ được giải thích theo hướng có lợi cho người tiêu
dùng”. Bộ luật Dân sự của Việt Nam tại khoản 8, Điều 409 cũng quy định: “trong
trường hợp bên mạnh thế đưa vào nội dung bất lợi cho bên yếu thế thì khi giải thích

hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế”. Mới nghe thì dường như Bộ luật
Dân sự Việt Nam cũng có cách tiếp cận như Luật bảo vệ người tiêu dùng của Quebec,
tuy nhiên điều đó không hoàn toàn đúng. Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Quebec quy
định giải thích hợp đồng theo hướng có lợi cho người tiêu dùng khi có điều khoản bị
nghi ngờ hoặc tối nghĩa, còn theo quy định của Bộ luật Dân sự thì bên được giải thích
theo hướng có lợi là bên yếu thế trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào nội dung bất
lợi. Như vậy, rõ ràng cách tiếp cận của Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Quebec tiếp
cận một cách trực tiếp nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng.
Bên cạnh những quy định bảo vệ người tiêu dùng như trên, trong phần chung
của Luật còn quy định một loạt các vấn đề khác liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng
như: hợp đồng không có đề nghị giao kết, lựa chọn địa chỉ thường trú, đề nghị thanh
toán... Các quy định này cũng lấy tiêu chí bảo vệ người tiêu dùng lên trên hết. Trong
nhiều trường hợp nếu không ó quy định trong hợp đồng thì Luật giải quyết theo hướng
có lợi cho người tiêu dùng nhất, ví dụ tại Điều 21 về địa điểm giao kết hợp đồng, Luật
quy định: “Hợp đồng không có đề nghị giao kết được cho rằng hợp đồng được giao
kết tại địa chỉ của người tiêu dùng”.
Trong Chương II của Luật quy định những vấn đề liên quan đến hợp đồng mà
Luật yêu cầu phải lập thành văn bản:
- Về ngôn ngữ hợp đồng, Điều 26 quy định: “Hợp đồng và những văn bản kèm
theo nó phải được lập bằng tiếng Pháp, ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận thống
nhất lựa chọn một ngôn ngữ khác để sử dụng soạn thảo Hợp đồng. Nếu Hợp đồng

16


được soạn thảo bằng tiếng Pháp và một ngôn ngữ khác, trong trường hợp có sự khác
biệt giữa hai ngôn ngữ, phải lựa chọn theo hướng giải thích có lợi cho người tiêu
dùng”. Như vậy về mặt ngôn ngữ của hợp đồng Luật cũng đề cao việc bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng một cách tối đa.
- Về ký kết hợp đồng, Điều 27 quy định: “Theo quy định tại Điều 29, thương

nhân phải ký kết đầy đủ vào hợp đồng văn bản, đưa Hợp đồng cho người tiêu dùng và
cho họ một khoản thời gian cần thiết để đọc và hiểu được các điều khoản cũng như
mục tiêu của hợp đồng trước và khi đặt bút ký”. Đây có thể coi là một quy định hết sức
quan trọng, trong nhiều trường hợp thương nhân khi ký hợp đồng với người tiêu dùng
không đưa lại một bản hợp đồng cho người tiêu dùng. Do vậy, khi xảy ra tranh chấp
liên quan đến hợp đồng thì người tiêu dùng không có đầy đủ chứng cứ cho việc khiếu
nại của mình. Mặt khác, người tiêu dùng nhiều khi lâm vào thế bị động trong giao kết
hợp đồng với thương nhân, họ không có đủ thời gian và cơ hội để có thể xem lại hợp
đồng một cách kỹ càng. Quy định trách nhiệm của thương nhân trong việc tạo điều
kiện cho người tiêu dùng được đọc và hiểu hợp đồng trong một khoảng thời gian hợp
lý đã khắc phục được tình trạng trên. Việc giao hợp đồng cho người tiêu dùng không
chỉ là một nghĩa vụ của thương nhân mà nó còn là căn cứ để xác định sự ràng buộc về
mặt pháp lý của người tiêu dùng theo hợp đồng, bởi vì theo quy định tại Điều 33 của
Luật thì: “Người tiêu dùng chỉ bắt buộc phải hoàn thành nghĩa vụ của mình kể từ thời
điểm người tiêu dùng nắm trong tay một bản hợp đồng”.
Chương III Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Quebec quy định các điều khoản
liên quan đến các dạng hợp đồng nhất định như: bảo hành, hợp đồng do thương nhân
bán hàng lưu động ký kết, hợp đồng tín dụng, hợp đồng cho thuê hàng hóa dài hạn,
hợp đồng về ô tô và mô tô...
Bản hướng dẫn Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Quebec (sau đây gọi là
“Hướng dẫn”) đã chi tiết hóa các quy định trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng một
cách tối đa.
- Hướng dẫn quy định các vấn đề mang tính kỹ thuật như: loại giấy dùng để in
hợp đồng (Hợp đồng phải được trình bày trên loại giấy số 7 (Number 7 Bond paper)
với trọng lượng là 11,8g/1000 tờ 432mm x 559 hoặc loại giấy có chất lượng cao hơn);
cỡ chữ thể hiện trong hợp đồng (ít nhất là 10)...

17



- Hướng dẫn cũng bắt một số nội dung phải đưa vào hợp đồng tùy vào từng loại
hợp đồng cụ thể, ví dụ trong hợp đồng có những điều khoản bất lợi cho người tiêu
dùng được phép sử dụng theo quy định của Luật thì phải có dòng chữ “Điều khoản này
theo quy định của Luật Bảo vệ người tiêu dùng”. Trong một số loại hợp đồng, Hướng
dẫn còn bắt buộc thương nhân phải đưa vào nội dung: “Đây là quyền lợi của người
tiêu dùng theo quy định tại Điều... của Luật Bảo vệ người tiêu dùng, nếu cần, hãy liên
hệ với Văn phòng bảo vệ người tiêu dùng...”.
Nhìn chung, có thể khẳng định Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Quebec là một
trong những đạo luật thể hiện cách tiếp cận bảo vệ người tiêu dùng thông qua chế định
hợp đồng một cách rõ ràng nhất và toàn diện nhất.
1.4.1.2. Pháp
Cộng hòa Pháp là một trong những mảnh đất nơi mà vấn đề quyền con người
(nói chính xác hơn là quyền cá nhân) được quan tâm nhiều khi đến mức cao hơn cả
chủ quyền quốc gia22. Đó là một trong những hệ quả của cuộc cách mạng tư sản và gắn
với nó là nhu cầu giải phóng con người, tôn trọng các giá trị tự nhiên của con người.
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng có thể nói là một khía cạnh tiêu biểu của xu
hướng này, được cả xã hội nhìn nhận từ lâu như một trong những nhu cầu tự nhiên của
quá trình lập pháp.
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở cộng hòa Pháp đang ngày càng chiếm vị
trí quan trọng trong hệ thống pháp luật và hơn thế, nó đã và đang được “chính trị hóa”
ở mức độ khác nhau bởi lẽ các chính trị gia tồn tại trên lá phiếu của cử tri mà tất cả các
cử tri đều là người tiêu dùng. Các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng,
vì thế, cũng rất được “ưu ái”, thể hiện sự đa dạng từ các thiết chế quyền lực nhà nước
đến các tổ chức xã hội dân sự.
Trong pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Pháp, các quy định về điều khoản
lạm dụng người tiêu dùng (Clause abusive) là một trong những chế định cơ bản.
Trong thực tế đời sống, nhiều nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp sử dụng các hợp
đồng mẫu để giao kết với người tiêu dùng (ví dụ: điện, nước, điện thoại cố định và di
động...); người tiêu dùng không được đàm phán các nội dung của hợp đồng mà chỉ có
sự chọn lựa: giao kết hay không giao kết hợp đồng. Vấn đề đặt ra là nếu trong các hợp

22

Có lẽ chỉ có EU mới thừa nhận việc công dân của các nước thành viên được quyền kiện cả quốc gia của mình
ra trước Tòa án Châu Âu, đặc biệt trong lĩnh vực nhân quyền.

18


×