Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Hoc phan - NCKH- Giang vien-KD-Ban cuoi_guiHV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.24 KB, 61 trang )

HỌC PHẦN

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(Dành cho lớp NVSP- Giảng viên- 2 tín chỉ)

1. Mục tiêu
Giúp người học nắm được đối tượng và ý nghĩa của phương pháp nghiên cứu khoa
học. Nắm được các phương pháp nghiên cứu khoa học, logic tiến trình nghiên cứu khoa học;
biết làm một đề tài nghiên cứu khoa học, biết công bố và đánh giá các công trình khoa học.
2. Nội dung
Học phần này bao gồm các nội dung:
- Khoa học và sự phát triển của khoa học
- Phương pháp nghiên cứu khoa học;
- Logic tiến trình nghiên cứu khoa học;
- Đề cương nghiên cứu khoa học;
- Công bố công trình khoa học.

1


Hà Nội, Tháng 11 năm 2014

2


MỤC LỤC
I. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LÀ GÌ?
1.1. Khoa học và sự phát triển của khoa học
1.1.1 Khái niệm về khoa học
1.1.2 Sự phát triển của khoa học
1.1.3 Phân loại khoa học


1.2 Nghiên cứu khoa học
1.2.1 Khái niệm Nghiên cứu khoa học
1.2.2 Các đặc điểm của nghiên cứu khoa học
1.2.3 Phân loại nghiên cứu khoa học
1.2.4 Sản phẩm của NCKH và đề tài khoa học
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2.1 Khái niệm về phương pháp nghiên cứu khoa học
2.1.1 Phương pháp nghiên cứu khoa học là gì?
2.1.2 Các đặc trưng của phương pháp nghiên cứu khoa học
2.1.3 Phân loại các phương pháp nghiên cứu khoa học
2.2 Các phương pháp nghiên cứu khoa học
2.2.1 Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
2.2.2 Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
2.2.3 Các phương pháp nghiên cứu toán học trong nghiên cứu khoa học
2.3 Những điều cần chú ý khi vận dụng phương pháp NCKH
2.4 Chọn mẫu nghiên cứu
2.4.1 Các phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
2.4.2 Các phương pháp chọn mẫu không ngẫu nhiên
III. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3.1.Chọn đề tài nghiên cứu khoa học
3.1.1. Khái niệm đề tài nghiên cứu khoa học
3.1.2 Những căn cứ để xác định đề tài nghiên cứu khoa học
3.1.3 Các loại đề tài nghiên cứu khoa học
3.2. Xây dựng đề cương nghiên cứu
3.3. Xử lí phân tích tài liệu thu được
3.3.1 Sàng lọc tài liệu
3.3.2 Sắp xếp, phân tích tài liệu
3.4. Viết một công trình NCKH
3.4.1 Xây dựng bản thảo
3.4.2 Viết sạch công trình

IV. THỰC HÀNH XÂY DỰNG ĐỀ CƯƠNG NCKH (đề tài nghiên cứu)

3


I. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LÀ GÌ?
1.1. Khoa học và sự phát triển của khoa học
1.1.1 Khái niệm về khoa học
Thuật ngữ “Khoa học” là một khái niệm phức tạp ở nhiều mức độ khác nhau của quá
trình tích cực nhận thức hiện thực khách quan và tư duy trừu tượng. Khoa học là quá trình
nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới, … về tự nhiên và xã
hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ,
không còn phù hợp.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về khoa học:
“Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về qui luật của vật chất và sự vận động của
vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy” [9]. Hệ thống tri thức này hình thành
trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.
“ Khoa học là hệ thống những tri thức được hệ thống hóa, khái quát hóa từ thực tiễn
kiểm nghiệm. Khoa học phản ánh dưới dạng logic, trừu tượng và khái quát những thuộc tính,
những cấu trúc, những mối liên hệ bản chất, những quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy. Đồng
thời, khoa học còn bao gồm hệ thống tri thức về những biện pháp tác động có kế hoạch đến
thế giới xung quanh, đến sự nhận thức và làm biến đổi thế giới đó phục vụ cho lợi ích của
con người.” [20].
Hệ thống tri thức ở đây là hệ thống tri thức khoa học, khác với tri thức kinh nghiệm.
Phân biệt 2 hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học (KH).
Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích lũy một cách ngẫu nhiên qua hoạt
động sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với
thiên nhiên. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa đi sâu vào bản chất sự vật, chưa thấy được
hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ bên trong giữa sự vật và con người. Vì vậy, tri
thức kinh nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng những tri thức kinh

nghiệm làm cơ sở cho sự hình thành các tri thức khoa học.
Tri thức khoa học là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống và được khái
quát nhờ hoạt động NCKH. Các họat động này có mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp
khoa học. Nó không phải là sự kế tục giản đơn các tri thức kinh nghiệm mà là sự khái quát
hóa các quá trình ngẫu nhiên, rời rạc thành hệ thống các tri thức phản ánh bản chất về sự vật,
hiện tượng.
Các tiêu chí nhận biết một khoa học (bộ môn khoa học):
- Có đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu là bản chất sự vật hoặc hiện tượng
được đặt trong phạm vi quan tâm của môn khoa học
- Có hệ thống lý thuyết: Lý thuyết là hệ thống tri thức khoa học bao gồm những khái
niệm, phạm trù, quy luật, định luật, định lý, quy tắc… Hệ thống lý thuyết của một bộ môn
4


khoa học thường bao gồm hai bộ phận: bộ phận kế thừa từ các khoa học khác và bộ phận
mang nét đặc trưng riêng cho bộ môn khoa học đó.
- Có hệ thống phương pháp luận: Phương pháp luận của bộ môn khoa học bao gồm
hai bộ phận là PPL riêng và PPL thâm nhập từ các bộ môn khoa học khác.
- Có mục đích ứng dụng: Do khoảng cách giữa khoa học và đời sống ngày càng rút
ngắn mà người ta dành nhiều mối quan tâm tới mục đích ứng dụng. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp, người nghiên cứu chưa biết được mục đích ứng dụng (chẳng hạn nghiên cứu
thuần túy). Vì vậy, không nên vận dụng một cách máy móc tiêu chí này [12].
- Có lịch sử nghiên cứu: Lịch sử nghiên cứu của một bộ môn khoa học có thể bắt
nguồn từ một bộ môn khoa học khác. Trong những giai đoạn tiếp theo, sự hoàn thiện về lý
thuyết và phương pháp luận, những bộ môn khoa học độc lập ra đời, tách khỏi bộ môn khoa
học cũ . Ví dụ như Tâm lí học bắt nguồn từ Triết học. Tuy nhiên, không phải mọi bộ môn
khoa học đều có lịch sử phát triển như vậy, nên không áp dụng máy móc tiêu chí này.
1.1.2 Sự phát triển của khoa học
Quá trình phát triển của khoa học có hai xu hướng ngược chiều nhau nhưng không loại
trừ mà thống nhất với nhau:

- Xu hướng thứ nhất là sự tích hợp những tri thức khoa học thành hệ thống chung
- Xu hướng thứ hai là sự phân chia các tri thức KH thành những ngành KH khác nhau
Trong giai đoạn phát triển của lịch sử, tùy theo những yêu cầu phát triển của xã hội mà
xu hướng này hay xu hướng khác nổi lên chiếm ưu thế
(i) Thời cổ đại: Xã hội loài người con sơ khai, lao động sản xuất còn đơn giản, những tri thức
mà con người tích lũy được chủ yếu là kinh nghiệm. Thời kỳ này, triết học là khoa học duy
nhất tích hợp những tri thức khoa học khác nhau như: hình học, cơ học, thiên văn học…
(ii) Thời trung cổ: kéo dài hàng nghìn năm, là thời kỳ thống trị của quan hệ sản xuất phong
kiến và cùng với nó là sự thống trị của giáo hội và nhà thời (chủ nghĩa duy tâm thống trị xã
hội). Thời kỳ này khoa học bị giáo hội bóp nghẹt nên chậm phát triển, vai trò của khoa học
đối với xã hội rất hạn chế và nó trở thành tôi tớ của thần học.
(iii) Thời kỳ tư bản chủ nghĩa (thế kỷ XV – XVIII – thời kỳ Phục Hưng): là thời kỳ tan rã
của quan hệ sản xuất phong kiến và cũng là thời kỳ mà giai cấp tư sản từng bước xác lập vị trí
của mình trên vũ đại lịch sử. Sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy sự phát
triển của khoa học, khoa học từng bước thoát ly khỏi thần học, sự phân lập các tri thức khoa
học càng rõ ràng, nhiều ngành khoa học xuất hiện, phương pháp NCKH chủ yếu được sử
dụng trong thời kỳ này là phương pháp tư duy siêu hình – cơ sở của triết học để giải thích các
hiện tượng xã hội.
5


(iv) Thời kỳ Cách mạng KH – kỹ thuật lần thứ nhất (từ giữa thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX
– còn gọi là thời kỳ phát triển tư bản công nghiệp): đây là thời kỳ có nhiều phát minh khoa
học lớn (định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa …) và xuất hiện nhiều
phương tiện NCKH. Sự phát triển của khoa học đã phá vỡ tư duy siêu hình và thay vào đó là
tư duy biện chứng; KH có sự thâm nhập lẫn nhau để hình thành những môn khoa học mới
như: Toán – Lý; Hóa – Sinh; Sinh – Địa, Hóa – Lý, Toán kinh tế, Xã hội học chính trị…
(v) Thời kỳ Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại (từ đầu thế kỷ XX đến nay)
Ở thời kỳ này, khoa học và kỹ thuật phát triện theo hai hướng sau:
a) Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao nhận thức của con người trong nghiên cứu các cấu

trúc khác nhau của vật chất. Khoa học đi sâu vào tìm hiểu thể giới vi mô, hoàn thiện các lý
thuyết về nguyên tử, về điện, sóng, từ trường… và nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ.
b) Chuyển kết quả NCKH vào sản xuất một cách nhanh chóng, đồng thời ứng dụng
chúng một cách có hiệu quả trong đời sống xã hội
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
trở thành tiền đế, điểm xuất phát cho nhiều ngành sản xuất vật chất mới. Song cũng chính sự
phát triển nhanh chóng của khoa học lại nảy sinh những vấn đề mới như: ô nhiễm môi trường,
khai thác cạn kiệt tài nguyên… Vì vậy, cần có sự quan tâm đầy đủ đến mối quan hệ giữa khai
thác và tái tạo tự nhiên, bảo vệ môi trường, làm cho khoa học gắn bó hài hóa với môi trường
sinh sống của con người.
Tóm lại: Khoa học là hệ thống những tri thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư
duy,về những biện pháp tác động đến thế giới xung quanh, đến nhận thức và làm biến đổi thế
giới đó phục vụ cho lợi ích con người.
1.1.3 Phân loại khoa học
Phân loại khoa học là sự phân chia các bộ môn khoa học thành những nhóm bộ môn
khoa học theo cùng một tiêu chí nào đó để nhận dạng cấu trúc của hệ thống tri thức. Có nhiều
cách phân loại khoa học. Mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu chí có ý nghĩa ứng dụng nhất
định nào đó.
a) Cách phân loại của Aristốt (384 – 322 trước công nguyên – thời Hy lạp cổ đại) theo mục
đích ứng dụng của KH, có 3 loại:
- Khoa học lý thuyết, gồm: siêu hình học, vật lý học, toán học… với mục đích tìm hiểu
khám phá tự nhiên.
- KH sáng tạo gồm: tu từ học, thư pháp, biện chứng pháp… với mục đích sáng tạo tác phẩm
- Khoa học thực hành gồm: đạo đức học, kinh tế học, chính trị học, sử học.. . với mục
đích hướng dẫn đời sống
b) Cách phân loại của K Marx theo đối tượng nghiên cứu, có 02 loại:
6


- Khoa học tự nhiên: có đối tượng là các dạng vật chất và các hình thức vận động của

các dạng vật chất đó được thể hiện trong giới tự nhiên cùng những mối liên hệ và quy luật
giữa chúng như cơ học, toán học, sinh vật học…
- KHXH hay khoa học về con người: có đối tượng là những sinh hoạt của con người
cùng những quy luật, những động lực phát triển của XH như sử học, kinh tế học, triết học,
đạo đức học…
c) Cách phân loại của B.M Keedrôv (1964) cũng theo đối tượng nghiên cứu dựa trên ý tưởng
của F. Engels. Khoa học được sắp xếp tương ứng với sự phát triển biện chứng của khách thế.
Ông đã trình bày hệ thống tri thức khoa học bằng một tam giác với 3 đỉnh là KHTN, KHXH
và Triết học.
- Khoa học triết học: Biện chứng pháp, logich học..
- KH Toán học: Logich toán học và toán học thực hành (bao gồm cả điều khiển học)
- Khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật: Cơ học, Thiên văn học và vũ trụ học; Vât lý
học, hóa học, địa lý học, sinh học, ….
- KH xã hội gồm: lịch sử, khảo cổ học, nhân chủng học, thống kê kinh tế xã hội…
- Khoa học về hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc, gồm: Kinh tế chính trị học;
Khoa học về nhà nước pháp quyền, Ngôn ngữ học, Tâm lý học và Khoa học sư phạm; …
d) Theo UNESCO dựa vào đối tượng nghiên cứu khoa học có 5 loại:
- Nhóm các khoa học tự nhiên và khoa học chính xác
- Nhóm các khoa học kỹ thuật và công nghệ
- Nhóm các khoa học nông nghiệp
- Nhóm các KH xã hội và nhân văn
e) Phân loại theo cơ cấu hệ thống tri thức hoặc chương trình đào tạo có:
- Khoa học cơ bản
- Khoa học cơ sở của chuyên ngành
- Khoa học chuyên ngành (chuyên môn)
Ngoài các cách phân loại trên, còn có những cách phân loại theo nguồn gốc hình thành
khoa học, theo mức độ khái quát của KH … Tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học thì
rang giới cứng nhắc trong phân loại KH luôn bị phá vỡ. Do đó mọi cách phân loại cần được
xem xét như hệ thống mở, phải luôn được bổ sung và phát triển.
1.2 Nghiên cứu khoa học

1.2.1 Khái niệm Nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học thực chất là một quá trình nhận thức hiện thực khách quan và phản
ánh những sự kiện, những quy luật của nó, tương tự như việc học tập, nghiên cứu giảng dạy
hoặc báo cáo công tác mà chúng ta vẫn thường làm. Tuy nhiên, NCKH có những đặc điểm
7


riêng, do đó đặt ra những yêu cầu chặt chẽ đối với người nghiên cứu. NCKH chủ yếu là nhằm
phát hiện, sáng tạo những hiểu biết mới mà trước đó chưa ai biết, đó là những phát minh,
sáng chế, khám phá… Cái mới ở đây phải bao hàm tính phổ biến, tính lô gích chặt chẽ, phải
được trình bày đầy đủ, tỉ mỉ trong những điều kiện, hoàn cảnh đã tạo ra nó một cách tất yếu,
nghĩa là, nếu người khác hội đủ những điều kiện y như vậy thì chắc chắn cũng tạo được cái
mới ấy. Nói cách khác, cái mới phải có tính quy luật, phải có ý nghĩa một chân lí mới. Tóm
lại, NCKH là phát hiện những hiện tượng, sự việc mới, có tính chân lí hoặc khám phá những
quy luật, nguyên lí mới.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là NCKH bao giờ cũng phải nhằm những vấn đề
khó khăn phức tạp, những vấn đề lớn. Nó có thể là một cuộc điều tra tình hình thực tế, mô tả
và phân tích một đồ dùng dạy học mới, một bài soạn giảng cải tiến, một kinh nghiệm mới về
giáo dục đạo đức…Có rất nhiều người đã bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình từ những
vấn đề như vậy. Tính chất NCKH thể hiện ở đây qua phương pháp điều tra, cách mô tả và
phân tích tỉ mỉ, đầy đủ, chính xác, mà bất cứ người nào khác quan sát, kiểm tra cũng sẽ thấy
đúng như vậy.
NCKH là một hoạt động đặc biệt. Bởi vì đây là hoạt động tìm kiếm những điều chưa
biết và người nghiên cứu không thể hình dung được hoặc hình dung không thật chính xác kết
quả dự kiến. Điều này hoàn toàn khác với các hoạt động khác trong đời sống xã hội. Chính vì
vậy trong NCKH, người nghiên cứu phải đưa ra một hoặc một vài nhận định sơ bộ về kết quả
nghiên cứu cuối cùng, được gọi là giả thuyết nghiên cứu hoặc giả thuyết khoa học.
1.2.2 Các đặc điểm của NCKH
- Tính khách quan, chính xác trong nghiên cứu là thể hiện sự trung thành với hiện thực
khách quan trong khi phát hiện được cái mới. Yêu cầu đó trước hết đòi hỏi chúng ta phải lựa

chọn những đề tài nêu được những vấn đề thiết thực được đặt ra từ thực tiễn hay lí luận chứ
không phải chúng ta “bịa” ra.
Yêu cầu khách quan, chính xác đòi hỏi phải lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, kĩ
thuật nghiên cứu một cách phù hợp để ghi nhận đúng đắn, đầy đủ nhất các sự kiện, hiện
tượng và tài liệu. Vì hiện thực khách quan vốn có vô số liên hệ và quan hệ nên yêu cầu này
cũng đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm toàn diện khi thu thập tư liệu cũng như khi sàng lọc,
phân tích, lí giải tư liệu và đưa ra những kết luận cuối cùng.
- Quan điểm vận động và phát triển thể hiện ở việc phát hiện càng đầy đủ càng tốt tính quá
trình, sự biến đổi và phát triển của đối tượng được nghiên cứu bởi hiện thực không ngừng vận
động và phát triển. Trong sự vận động, sự vật và hiện tượng bộc lộ rõ hơn đặc điểm và quy luật
của nó. Quan điểm này cũng cần được quán triệt khi lựa chọn đề tài nghiên cứu, chọn đối tượng
nghiên cứu, khi phân tích, xử lí tài liệu cũng như khi trình bầy kết quả nghiên cứu.
8


- Xu hướng đi sâu thể hiện ở sự cố gắng tìm ra bản chất của sự kiện , tìm ra những quy
luật chi phối các sự kiện đó chứ không dừng lại ở bề mặt của sự kiện. Vì vậy, một công trình
NCKH dù chỉ đòi hỏi ở mức phát hiện tình hình, cũng cần sử dụng những phương pháp, biện
pháp, kĩ thuật, những khái niệm, phạm trù khoa học để mô tả, ghi nhận hiện tượng, để đo đạc,
đánh giá, phân tích sự kiện với mức đầy đủ, tỉ mỉ, chính xác, sâu sắc cao nhất. Yêu cầu đi sâu
thường đòi hỏi chúng ta thu hẹp phạm vi đề tài bởi sẽ có khả năng phân tích nhiều mặt.
1.2.3 Phân loại nghiên cứu khoa học [9,20]
Có nhiều cách phân loại khác nhau. Ở đây chúng tôi đề cập đến 2 cách phân loại: Phân
loại theo chức năng và phân loại theo tính chất của sản phẩm (tính ứng dụng).
a) Phân loại theo chức năng nghiên cứu:
(i) Nghiên cứu mô tả: là những NC nhằm đưa ra một hệ thống tri thức về nhận dạng sự
vật/hiện tượng, giúp con người phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa sự vật/hiện
tượng này với sự vật/hiện tượng khác. Có mô tả định tính (tức các đặc trưng về chất của sự
vật/hiện tượng) và mô tả định lượng (tức các đặc trưng về lượng của sự vật/hiện tượng)
(ii) Nghiên cứu giải thích: là những NC nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự hình

thành và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật/hiện tượng. Nội dung của giải thích
có thể bao gồm giải thích nguồn gốc, động thái, cấu trúc, tương tác, hậu quả, quy luật chung
chi phối quá trình vận động của sự vật.
(iii) Nghiên cứu dự báo: là những nghiên cứu nhằm nhận dạng trạng thái của sự vật
trong tương lai. Mọi dự báo đều phải chấp nhận những sai lệch kể cả trong NC tự nhiên và
NC xã hội. Sự sai lệch trong dự báo có thể do nhiều nguyên nhân: sai lệch khách quan trong
kết quả so sánh, sai lệch do những luận cứ bị biến dạng trong sự tác động của sự vật khác…
(iv) Nghiên cứu sáng tạo: là loại hình NC nhằm làm rõ một sự vật mới chưa từng tồn
tại. Khoa học không bao giờ dừng lại ở mô tả, dự báo, giải thích mà luôn hướng đến sự sáng
tạo các giải pháp cải tạo thế giới
b) Phân loại theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu
(i) Nghiên cứu cơ bản (fundamental/basic research): là những nghiên cứu nhằm phát
hiện thuộc tính, cấu trúc, động thái của sự vật, tương tác trong nội bộ sự vật và mối liên hệ
giữa sự vật này với sự vật khác. Sản phẩm của NC cơ bản có thể là những khám phá, phát
hiện, phát minh, dẫn đến việc hình thành một hệ thống lý thuyết có giá trị tổng quát, ảnh
hưởng đến một hay nhiều lĩnh vực khoa học.
(ii) Nghiên cứu ứng dụng (applied research): là sự vận dụng quy luật được phát hiện
từ nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật, tạo ra những nguyên lý mới về các giải pháp và
áp dụng chúng vào sản xuất và đời sống. Đó có thể là những giải pháp về công nghệ, về vật
9


liệu, về tổ chức và quản lý. Cần lưu ý là kết quả của NC ứng dụng thì chưa ứng dụng được.
Để có thể đưa kết quả NC ứng dụng vào sử dụng cần NC khác gọi là NC triển khai.
(iii) Nghiên cứu triển khai (developmental research): còn gọi là triển khai thực nghiệm
là sự vận dụng các quy luật (từ NC cơ bản) và các nguyên lý (từ NC ứng dụng) để đưa ra
những hình mẫu với những tham số khả thi về kĩ thuật. HĐ triển khai bao gồm triển khai trong
phòng và triển khai bán đại trà. Ví dụ như NC triển khai được áp dụng khi chế tạo một sản
phẩm mới hoặc một mẫu CN mới. Hay như áp dụng một PP giảng dạy mới ở các lớp thí điểm.
c) Phân loại theo hình thức thu thập dữ liệu


(i) Nghiên cứu định lượng:
Nghiên cứu định lượng (NCĐL) là một loại hình thức nghiên cứu sử dụng các phương
pháp thu thập dữ liệu bằng số và giải quyết quan hệ trong lý thuyết và nghiên cứu theo quan
điểm diễn dịch. Nghiên cứu định lượng chú trọng vào việc lượng hóa sự biến thiên của đối
tượng nghiên cứu. NCDL dựa vào việc đo lường số lượng. Nó được áp dụng đối với các hiện
tượng có thể diễn tả bằng số lượng (Kothari, 2004). NCĐL thường gắn vào việc kiểm định (lý
thuyết) dựa vào quy trình suy diễn (Thọ, 2011).
Như vậy NCĐL là nghiên cứu sử dụng các phương pháp khác nhau (chủ yếu là thống
kê) để lượng hóa, đo lường, phản ánh và diễn giải các mối quan hệ giữa các nhân tố (các
biến) với nhau hoặc để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu có được từ lý thuyết. Ví dụ, đo
mức độ hài lòng của khách hang đối với chất lượng dịch vụ, đo mức độ thích thú đối với
phương pháp giảng dạy mới... Hay kiểm định giả thuyết cho rằng tăng lương thì chất lượng
lao động cao hơn, hay giảng dạy theo phương pháp tích cực thì HS thích học hơn...
(ii) Nghiên cứu định tính
Những nghiên cứu về chất lượng của các mối quan hệ, các hoạt động, các tình huống hoặc
các tài liệu được gọi là nghiên cứu định tính. Là loại hình nghiên cứu thu thập dữ liệu bằng
chữ nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm của nhóm người từ quan điểm của nhà nhân
học. Nó khác với nghiên cứu định lượng ở sự nhấn mạnh hơn đến việc mô tả chi tiết, đầy
đủ tất cả những gì diễn ra trong một hoạt động hay tình huống cụ thể nào đó.
NCĐT là các nghiên cứu trong đó dữ liệu cần thu thập ở dạng định tính (không thể đo
lường bằng số lượng). Dữ liệu định tính là các dữ liệu trả lời cho các câu hỏi: thế nào? cái gì?
tại sao?...

Tuy nhiên, trên thực tế, rất nhiều nghiên cứu khoa học là sự kết hợp cả nghiên
cứu định lượng và nghiên cứu định tính.
1.2.4 Sản phẩm của NCKH và đề tài khoa học

10



Kết quả nghiên cứu khoa học cần phải viết ra dưới dạng các tài liệu khoa học khác
nhau để công bố trên các ấn phẩm. Các tài liệu khoa học đó có thể có nhiều ý nghĩa: để báo
cáo theo yêu cầu, để trao đổi, chia sẻ thông tin khoa học, để đón nhận những ý kiến bình luận,
bổ sung của đồng nghiệp, để đi tìm địa chỉ áp dụng, khẳng định quyền tác giả đối với công
trình. Tài liệu khoa học công bố có nhiều loại:
(i) Bài báo khoa học:
Là ấn phẩm mà nội dung có chứa thông tin mới (dựa trên kết quả quan sát, điều tra
hoặc thực nghiệm khoa học) có giá trị lí luận và thực tiễn được đăng trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành với những mục đích khác nhau: công bố một ý tưởng khoa học, công bố từng
kết quả riêng biệt của một công trình nghiên cứu dài hạn, công bố kết quả toàn bộ công trình
nghiên cứu….
Bố cục nội dung bài báo có thể khác nhau tùy theo cách sắp xếp của mỗi tác giả, song
một bài báo cần nêu được những khối nội dung hoàn chỉnh, bao gồm: đặt vấn đề (mở đầu), lịch
sử vấn đề, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu, kết quả thu thập va xử lý thông tin, phân
tích kết quả và kết luận, khuyến nghị. Một bài báo không nên quá dài chỉ khoảng 2000 từ.
(ii) Báo cáo khoa học
Là một báo cáo được trình bày tại hội nghị, hội thảo khoa học chuyên ngành, có giá trị
khoa học, có ý nghĩa lí luận và thực tiễn – là kết quả nghiên cứu của tác giả hoặc đồng tác
giả. Báo cáo cần nêu những nội dung ngắn gọn, súc tích, đi thẳng vào chủ đề với đầy đủ các
tài liệu lý thuyết và thực tế, có luận cứ thuyết phục và có kết luận xác đáng
Báo cáo khoa học phải viết thành văn bản hoàn chỉnh theo chủ đề và mục đích của hội
thảo. Báo cáo không nên quá dài, phù hợp với khuôn khổ của hội nghị, hội thảo.
(iii) Kỷ yếu khoa học
Là ấn phẩm mà nội dung của nó phản ánh tóm tắt kết quả nghiên cứu của các công
trình được phân chia theo chủ đề Ví dụ: Kỉ yếu về Đào tạo nghiệp vụ sư phạm ở các trường
ĐHSP; Hay kỷ yếu về Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên ở Việt Nam..
(iv) Chuyên khảo khoa học
Là một công trình khoa học bàn luận về một chủ đề lớn có tầm quan trọng, có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn đối với một chuyên ngành khoa học.; là công trình tổng kết toàn bộ các

kết quả nghiên cứu công phu, lâu dài, thể hiện sự am hiểu rộng rãi và sâu sắc về lĩnh vực
chuyên ngành của tác giả hoặc tập thể tác giả.
(v) Giáo trình, sách giáo khoa
Là tài liệu chọn lọc, tổng kết và hệ thống hóa các tri thức khoa học thuộc một lĩnh vực
khoa học nhất định được trình bày theo chương trình đào tạo, chương trình giáo dục do Nhà
nước qui định. Sau khi thẩm định xác nhận giá trị khoa học và có tính giáo dục thì được dùng
làm tài liệu giảng dạy và học tập trong các trường học nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục.
11


(vi)Một số sản phẩm đặc biệt của NCKH: đó là những phát hiện, phát minh, sáng chế
- Phát minh là sự phát hiện ra những quy luật, những tính chất hoặc những hiện tượng của thế
giới vật chất tồn tại khách quan mà trước đó chưa ai biết và nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận
thức của con người. Ví dụ như định luật vạn vật hấp dẫn của Newton. Phát minh là khám phá
về quy luật khách quan, chưa có ý nghĩa áp dụng trực tiếp vào sản xuất và đời sống vì thế
chưa có giá trị thương mại.
- Phát hiện là sự phát hiện ra những vật thể, những quy luật xã hội đang tồn tại một cách
khách quan như Marx phát hiện ra quy luật thặng dư, Colombo phát hiện ra châu Mỹ
- Sáng chế là loại thành tựu trong lĩnh vực KH & CN – là một giải pháp kỹ thuật mang tính
mới về nguyên lý kĩ thuật, tính sáng tạo và áp dụng được. Do đó nó có ý nghĩa thương mại và
cấp bằng sáng chế
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2.1 Khái niệm về phương pháp nghiên cứu khoa học
2.1.1 Phương pháp nghiên cứu khoa học là gì?
Thuật ngữ “Phương pháp luận nghiên cứu” là để chỉ những nguyên lí triết học chỉ
đạo toàn bộ hoạt động nhận thức, hoạt động sáng tạo tinh thần hoặc cải tạo thực tiễn nói
chung, trong đó bao gồm cả hoạt động NCKH, như: phương pháp luận duy vật biện chứng,
phương pháp luận duy tâm, phương pháp luận chủ quan siêu hình… PPL là lý thuyết về
phương pháp nhận thức khoa học thế giới tổng thể, đóng vai trò chủ đạo, dẫn đường và có ý
nghĩa thành bại trong NCKH.

Thuật ngữ “Phương pháp tiếp cận” là để nói về các phương hướng lớn có tính chất
chiến lược chỉ đạo cách thức tiếp cận và thu thập tài liệu, sự kiện khoa học nhằm đạt được
bản chất, quy luật, cơ chế của đối tượng nghiên cứu, do đó nó cũng chỉ đạo việc sử dụng các
phương pháp nghiên cứu, như: “Tiếp cận phát sinh”, “Tiếp cận so sánh bệnh lí”, “Tiếp cận sư
phạm hóa”, “Tiếp cận cắt ngang/bổ dọc”. “Tiếp cận năng lực”, “Tiếp cận hoạt động”…
Thuật ngữ “ Phương pháp nghiên cứu” được dùng để chỉ những cách thức chung
trong khi tiếp cận các đối tượng, ghi nhận, thu thập sự kiện và tài liệu nghiên cứu. Dưới góc
độ thông tin: Phương pháp NCKH là cách thức, con đường, phương tiện thu thập, xử lý thông
tin khoa học (số liệu, sự kiện) nhằm làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu để giải quyết nhiệm vụ
nghiên cứu và cuối cùng đạt được mục đích nghiên cứu.
Nói cách khác: Phương pháp NCKH là những phương thức thiết lập và xử lý thông tin
khoa học nhằm mục đích thiết lập những mối liên hệ phụ thuộc có tính quy luật và xây dựng
lý luận khoa học mới.
Dưới góc độ hoạt động: Phương pháp NCKH là hoạt động có đối tượng, chủ thể
(người nghiên cứu) sử dụng những thủ thuật, biện pháp, thao tác tác động, khám phá đối
12


tượng nghiên cứu nhằm biến đổi đối tượng theo mục tiêu mà chủ thể tự giác đặt ra để thảo
mãn nhu cầu nghiên cứu của bản thân.
Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề nghiên cứu. Vì vậy, khi
tiến hành nghiên cứu, người nghiên cứu cần tìm tòi, chọn và sử dụng các phương pháp nghiên
cứu phù hợp với đặc điểm đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu.
2.1.2 Các đặc trưng của phương pháp nghiên cứu khoa học
a) Phương pháp NCKH có mặt chủ quan và khách quan thể hiện sự tương tác biện chứng
giữa chủ thể và khách thể trong hoạt động NCKH
Mặt chủ quan gắn liền với chủ thể nghiên cứu. Đó chính là đặc điểm, trình độ, năng
lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, khả năng thực hành… của chủ thể, thể hiện
trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng chúng để khám phá
chính đối tượng và kết quả đạt được sẽ phù hợp với khả năng chủ quan ấy.

Mặt khách quan gắn liền với đối tượng NC, phản ánh đặc điểm của đối tượng và quy
luật khách quan chi phối đối tượng mà chủ thể nghiên cứu phải ý thức được.
Nhờ có quy luật khách quan mà người NC lựa chọn cách này, cách khác trong hoạt
động nghiên cứu, tức là phát hiện ra phương pháp.
Sự tương tác hợp quy luật giữa mặt chủ quan (thuộc về chủ thể) và mặt khách quan
(thuộc về đối tượng) trong hoạt động NCKH tạo ra phương pháp NCKH hiệu nghiệm. Trong
NCKH, cái chủ quan phải tuân thủ cái khách quan, Vì vậy, chủ thể phải hiểu biết chân thực
về đối tượng để trên cơ sở đó tìm ra được những thao tác đúng đắn với đối tượng và hành
động chủ quan theo đúng quy luật đó.
b) Phương pháp NCKH có tính mục đích, gắn liền với nội dung; chịu sự chi phối của mục
đích và nội dung; bản thân PP có chức năng phương tiện để thực hiện mục đích và nội dung
Mục đích nào, phương pháp ấy; Mục đích chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn phương
pháp nghiên cứu. Muốn cho PPNC được hiệu nghiệm, hoạt động thành công cần đảm bảo
được hai điều: xác định mục đích và tìm được PP thích hợp với mục đích.
Nội dung nào, phương pháp ấy. Sự thống nhất của nội dung và PP thể hiện ở logic phát
triển của bản thân đối tượng NC.
c) Phương pháp NCKH có một cấu trúc đặc biệt (cấu trúc đa cấp) đó là hệ thống các thao
tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu.
Hoạt động (có mục đích chung là M) bao gồm nhiều hành động A 1…. An (có mục đích
riêng – chính là các mục tiêu: M A1… MAn) mà mỗi hành động lại bao gồm nhiều thao tác:
t1…. tn ( thao tác không có mục đích). Để đạt được mục đích chung, người NC cần phải thực
hiện một loạt các hành động với những hệ thống logic chặt chẽ được sắp xếp theo một trình
tự xác định và có kế hoạch rõ ràng. Người NC phải biết tổ chức hợp lý cấu trúc bên trong của
13


phương pháp và triển khai quy trình đó một cách tinh thông. Đây là mặt kỹ thuật của phương
pháp NC.
d) PPNC luôn cầu có công cụ, các phương tiện hỗ trợ
Phương pháp và phương tiện là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng lại gắ bó chặt

chẽ với nhau. Tùy theo các yêu cầu của phương pháp NC mà chọn các phương tiện phù hợp,
đôi khi phải tạo ra các công cụ đặc biệt để nghiên cứu đối tượng. Phương tiện kĩ thuật hiện
đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các phương pháp NC và đảm bảo cho quá trình
nghiên cứu đạt được độ chính xác và tin cậy cao.
2.1.3 Phân loại các phương pháp nghiên cứu khoa học
Các phương pháp NCKH rất phong phú và đa dạng. Vì thế, có nhiều cách phân loại
phương pháp NCKH dựa trên những dấu hiệu sau:
a) Phân loại dựa theo lý thuyết thông tin về quy trình nghiên cứu một đề tài khoa học: Có 3
nhóm:
- Nhóm PP thu thập thông tin
- Nhóm PP xử lí thông tin
- Nhóm PP trình bày thông tin
b) Phân loại theo tính chất và trình độ nhận thức: có 2 nhóm
- Nhóm PP nghiên cứu lý thuyết
- Nhóm PP nghiên cứu thực tiễn
- Nhóm PP toán học
c) Phân loại theo logic của NCKH: có 8 nhóm
- Nhóm PP nghiên cứu lý thuyết
- Nhóm PP lập kế hoạch NC
- Nhóm PP tổ chức NC
- Nhóm PP thu thập thông tin
- Nhóm PP xử lý số liệu
- Nhóm PP lý giải thích các số liệu
- Nhóm PP kiểm tra trong thực tiễn
- Nhóm PP liên hệ giả thuyết với các phương thức NC
d) Phân loại theo các giai đoạn tiến hành nghiên cứu một đề tài KH
- Giai đoạn chuẩn bị gồm các PP: PPNC lý thuyết (NC tài liệu, sách báo); PP tìm hiểu bước
đầu về đối tượng (Các PP quan sát, trò chuyện, điều tra bằng bảng hỏi).
- Giai đoạn xây dựng PPNC, gồm:
+ PP tổ chức NC : PP bổ dọc (là PP tổ chức NC trong suốt thời gian dài, liên tục trên

cùng một đối tượng, cho phép chuẩn đoán chính xác hơn về sự phát triển của đối tượng; PP
14


cắt ngang – so sánh (là PP NC một cách song song và đồng thời trên nhiều đối tượng khác
nhau để so sánh, đối chiếu và kết luận); PP phức hợp (là PP tổ chức NC với sự tham gia của
các nhà khoa học hoặc chuyên gia thuộc nhiều ngành KH khác nhau;
+ Các PP cơ bản đề thu thập tài liệu thực tế được lựa chọn;
+ Các PP, phương tiện thực nghiệm cần thiết
- Giai đoạn thu thập thông tin – tài liệu: là giai đoạn cơ bản gồm các PP tìm kiếm, thu thập
các sự kiện KH (bao gồm các PP: NC lịch sử, quan sát khách quan, thực nghiệm, NC các sản
phẩm hoạt động lý luận và thực tiễn, PP mô hình hóa, điều tra và chuẩn đoán…)
- Giai đoạn phân tích, xử lý tài liệu: là giai đoạn lý giải và trình bày kết quả nghiên cứu (phân
tích cả số lượng, chất lượng). Có các PPNC:
+ Các PP xử lí tài liệu: PP thống kê số lượng (định lượng) và phân tích chất lượng
(định tính), đó là các PP thống kê toán học, phân loại, kỹ thuật vi xử lý…
+ Các PP lý giải các số liệu: giúp cắt nghĩa những tài liệu thu thập được, nó cung cấp
PP khái quát hóa, giải thích sự kiện và mối quan hệ giữa chúng (bao gồm các PP: mô hình
hóa, sơ đồ, đồ thị …). Có thể chia làm 2 loại PP lý giải: PP phát sinh – là PP lý giải theo quan
điểm các mối liên hệ phát sinh; PP cấu trúc – là PP lý giải bằng cách phân tích các mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, cái toàn bộ.
- Giai đoạn kiểm tra kết quả nghiên cứu trong thực tiễn: bao gồm các PP kiểm tra kết quả
nghiên cứu qua việc ứng dụng có hiệu quả hay không vào thực tiễn và chỉ dẫn ứng dụng.
2.2 Các phương pháp nghiên cứu khoa học
2.2.1 Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Các phương pháp nghiên cứu khoa học (PPNC) thực tiễn là các phương pháp (PP) trực
tiếp tác động vào đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và các quy luật vận
động của các đối tượng ấy. Có các PP cụ thể sau [8,21].
(i) Phương pháp quan sát khoa học:
Quan sát KH là PP tri giác đối tượng một cách có hệ thống để thu thập thông tin về đối

tượng. Quan sát KH là sử dụng một cách có chủ đích, có kế hoạch, theo những quy cách nhất
định các giác quan cùng với ngôn ngữ viết (và có khi cả các phương tiện kĩ thuật) để ghi
nhận, thu thập những biểu hiện của các đối tượng nghiên cứu làm tư liệu phục vụ cho việc
NCKH.
Có nhiều loại quan sát trong NCKH: quan sát toàn diện, quan sát từng mặt (quan sát
có chọn lọc); quan sát ngẫu nhiên, quan sát có bố trí, quan sát lâm sàng (có tính chất tương tự
như một cuộc thực nghiệm thăm dò); quan sát phát hiện, quan sát kiểm định…Tuy nhiên, có
hai loại hình quan sát chính: QS trực tiếp và QS gián tiếp.
15


- Quan sát trực tiếp là QS trực diện đối tượng đang diễn biến trong thực tiễn bằng mắt
thường hay bằng các phương tiện kỹ thuật như máy quan trắc, kính thiên văn, kính hiển vi...
để thu thập thông tin trực tiếp. QS trực tiếp sẽ giúp nhà nghiên cứu có được những thông tin
chính xác về những hoạt động, sự việc... có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Vai trò tham gia
của nhà nghiên cứu có thể ở các mức độ khác nhau: hoàn toàn như là người tham gia, vừa
như là người tham gia - vừa là người quan sát, hoàn toàn là người quan sát.
Khi người nghiên cứu tham gia hoàn toàn vào các hoạt động, các sự kiện của nhóm, sẽ
không ai trong nhóm biết được vai trò của họ với tư cách là nhà NC. Họ tương tác với các
thành viên trong nhóm một cách hoàn toàn tự nhiên với tất cả mục tiêu, ý định NC của mình.
Tuy nhiên, sự quan sát không công khai này bị hoài nghi từ góc độ đạo đức trong NCKH.
Vai trò của nhà nghiên cứu vừa là người quan sát, vừa là người tham gia: Họ tham gia đầy
đủ vào các hoạt động của đối tượng NC có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, nhưng đồng thời
họ cũng cho mọi người biết rõ họ là nhà nghiên cứu.
Vai trò của nhà nghiên cứu chỉ với tư cách là người quan sát: Nhà nghiên cứu quan sát các
hoạt động, sự việc liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Họ không tham gia vào bất cứ hoạt động
nào. Tuy nhiên, họ quan sát chính xác cái gì đối tượng tham gia nghiên cứu có thể biết hoặc
không thể biết.
- Quan sát gián tiếp: là quan sát diễn biến hiệu quả của các tác động tương tác giữa đối
tượng QS tới các đối tượng khác, mà bản thân đối tượng không thể quan sát trực tiếp được

như: NC các nguyên tử, hóa học lượng tử...
- Tác dụng của phương pháp quan sát. Quan sát vốn là một PPNC của nhiều khoa học,
theo nghĩa rộng nhất, nó là một phương pháp để con người tích lũy kinh nghiệm. Nếu được
tiến hành khéo léo, kín đáo, tỉ mỉ, nếu người quan sát có nhiều kinh nghiệm về đối tượng
quan sát, có nhiều kinh nghiệm trong việc quan sát và ghi nhận sự kiện, nếu như quá trình
quan sát được hỗ trợ tốt bằng các phương tiện kĩ thuật, thì phương pháp quan sát sẽ giúp ta
thu thập nhiều tài liệu sinh động từ thực tế về đối tượng nghiên cứu. Nhờ đó, sau khi xử lí và
phân tích tài liệu, ta có thể rút ra nhiều kết luận sâu sắc về bản chất, quy luật của hiện tượng
nghiên cứu.
- Tuy nhiên, phương pháp này có những khó khăn đối với những người chưa có kinh
nghiệm và bản thân nó có những hạn chế cơ bản khiến cho các khoa học, trong quá trình phát
triển của mình, đã phải dùng những phương pháp khác hoàn thiện hơn. Khó khăn chính trong
phương pháp này là: giá trị khách quan, toàn diện của kết quả quan sát phụ thuộc rất nhiều
vào chủ quan người quan sát.
Còn có những hạn chế khác như: khối lượng tri giác không lớn, tài liệu ghi nhận không
thật cụ thể; mất nhiều thời gian và nhiều khi rất bị động; chỉ cho ta thu nhận những biểu hiên
trực tiếp của hiện tượng (người quan sát tinh ý, có kinh nghiệm, khéo léo sẽ thu thập được
16


nhiều hiện tượng phong phú và trung thực. Nếu quan sát nhiều lần sẽ cho phép ta khẳng định
những giả thuyết về tính quy luật của hiện tượng, nhưng tất cả những điều đó chưa cho phép
kết luận chắc chắn trong đó có những yếu tố nào, cái gì là bản chất, cái gì là tất yếu.
- Những yêu cầu khoa học khi sử dụng phương pháp quan sát KH. Đó là: người quan sát
cần có mục đích quan sát rõ ràng; cần phải được trang bị đầy đủ về lí luận và thực tiễn có liên
quan đến vấn đề, hiện tượng mà ta sẽ quan sát; cần nắm được một cách sơ bộ về đối tượng
được quan sát để lập kế hoạch, chuẩn bị phương tiện cho phù hợp; nên có một nhóm hai – ba
người trở lên cùng quan sát một số đối tượng nhất định; khối lượng tài liệu quan sát phải đủ
nhiều, đủ đa dạng và chi tiết ( được thể hiện ở biên bản quan sát).
- Qui trình tiến hành quan sát KH:

+ Xác định đối tượng QS trên cơ sở mục đích của ĐT, đồng thời xác định cả các
phương diện cụ thể của đối tượng cần quan sát.
+ Lập KH quan sát: thời gian, địa điểm, số lượng đối tượng, người QS, phương tiện
QS, các thông số kỹ thuật cần đo đạc được...
+ Lựa chọn hình thức QS: QS trực tiếp, QS gián tiếp, QS bằng mắt thường hay bằng
các phương tiện kỹ thuật, QS một lần hay nhiều lần...
+ Tiến hành QS: QS phải tiến hành thận trọng, phải theo dõi từng diễn biến dù là nhỏ
nhất kể cả ảnh hưởng của những tác động khác nhau từ bên ngoài tới đối tượng
+ Ghi chép: Phải ghi chép mọi diễn biến của đối tượng, có nhiều cách ghi chép (Theo
mẫu phiếu in sẵn, ghi biên bản toàn bộ nội dung QS; Ghi nhật kí theo thời gian quy định
trong một ngày, một tuần, một tháng...; Ghi vắn tắt theo “Dấu vết nóng bỏng”; Ghi âm, chụp
ảnh, quay phim toàn bộ sự kiện...
- Xử lí tài liệu: Các tài liệu do các cá nhân quan sát được là các “tư liệu thô”, chưa phải là tài
liệu KH. Các tài liệu này cần phải được xử lý thận trọng bằng cách phân loại, hệ thống hóa,
bằng thống kê toán học, bằng máy tính mới đáng tin cậy (NVIVO)
- Kiểm tra kết quả QS: để kiểm tra các kết quả QS khách quan, người ta thường sử dụng một
loạt các biện pháp hỗ trợ khác như trao đổi trực tiếp với nhân chứng, lặp lại QS nhiều lần, sử
dụng người có trình độ cao để QS lại...
(ii) Phương pháp điều tra
Điều tra là PP khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng nhằm phát hiện các
quy luật phân bố, trình độ phát triển, những đặc điểm về mặt định tính và định lượng của các
đối tượng cần nghiên cứu.
Các tài liệu điều tra được sẽ là những thông tin quan trọng về đối tượng cần cho các
quá trình nghiên cứu và là căn cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp khoa học hay giải
pháp thực tiễn
Có hai loại điều tra: điều tra cơ bản và điều tra xã hội học
17


- Điều tra cơ bản: là khảo sát sự có mặt của các đối tượng trên một diện rộng, để nghiên cứu

các quy luật phân bổ cũng như các đặc điểm về mặt định tính và định lượng. Ví dụ: điều tra
địa hình, địa chất, điều tra dân số, trình độ VH, điều tra chỉ số thông minh (IQ) của trẻ em,
điều tra khả năng tiêu thụ hàng hóa....
- Điều tra xã hội học: là điều tra quan điểm, thái độ của quần chúng về mặt sự kiện chính trị,
xã hội, hiện tượng văn hóa, thị hiếu,... Thí dụ: điều tra nguyện vọng nghề nghiệp của thanh
niên, điều tra hay trưng cầu dân ý về bản hiến pháp mới...
Điều tra là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng, một hoạt động có mục
đích, có kế hoạch, được tiến hành một cách thận trọng.
Điều tra cơ bản được sử dụng trong cả khoa học tự nhiên và KHXH. Các bước điều tra
thường được tiến hành như sau:
- Xây dựng một kế hoạch điều tra bao gồm: mục đích, đối tượng, địa bàn, nhân lực, kinh
phí...
- Xây dựng các mẫu phiếu điều tra với các thông số, các chỉ tiêu cần làm sáng tỏ (sẽ phân tích
sâu ở phần sau)
- Chọn mẫu điều tra đại diện cho số đông, chú ý tới tất cả những đặc trưng của đối tượng(sẽ
phân tích sâu ở phần sau)
- Xử lý tài liệu thu thập được từ điều tra có thể bằng PP thủ công hay bằng một số phần mềm
(trong KHXH có các phần mềm SPSS, ConQuest, Excel...)
Có nhiều PP điều tra: có thể bằng bảng hỏi, bằng phỏng vấn, hội thảo...
* Phương pháp phỏng vấn.
Đó là việc thận trọng đưa ra những câu hỏi phù hợp, có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Mục đích của phỏng vấn con người là để tìm thấy những gì đang diễn ra trong suy nghĩ và
tình cảm của họ về một điều/cái gì đó. Có 3 loại phỏng vấn: Phỏng vấn có cấu trúc, phỏng
vấn bán cấu trúc và phỏng vấn không chính thức. Tuy nhiên, trong thực tế cả ba loại này
thường đan xen vào nhau.
- Phỏng vấn cấu trúc và bán cấu trúc: đó là việc thu thập thông tin dựa trên những bảng hỏi
được soạn thảo sẵn từ trước. Chúng bao gồm hàng loạt các câu hỏi tìm kiếm thông tin để sau đó
dùng cho việc so sánh. Ví dụ, khi muốn nghiên cứu những đặc trưng của giáo viên dạy trường
chuyên và trường bình thường khác nhau như thế nào, người nghiên cứu tiến hành thu thập
thông tin bằng phỏng vấn cấu trúc với một nhóm giáo viên dạy trường chuyên và trường không

chuyên về trình độ đào tạo, trình độ tay nghề, các kinh nghiệm, các hoạt động của họ sau giờ
lên lớp,…Tốt nhất là nên tiến hành phỏng vấn cấu trúc và bán cấu trúc vào cuối giai đoạn
nghiên cứu, vì nó giúp cho việc kiểm tra một giả thuyết cụ thể nào đó mà nhà nghiên cứu đã có.
- Phỏng vấn không chính thức. Đây là loại hình phỏng vấn được dùng khá phổ biến trong
nghiên cứu định tính. Nó giống như những cuộc đàm thoại, cùng theo đuổi những quan tâm
18


của cả người nghiên cứu và người trả lời. Chúng không có bất kì một trật tự các câu hỏi hay
một loại hình câu hỏi cụ thể nào cả. Mục tiêu chính của phỏng vấn không chính thức là tìm
hiểu những suy nghĩ và quan điểm của một cá nhân khi so sánh với những người khác.
Loại hình phỏng vấn này tạo ra tình huống tự nhiên nhất cho việc thu thập số liệu. Tuy
nhiên, nó đòi hỏi người nghiên cứu phải có kĩ năng phỏng vấn: nên đặt ra những câu hỏi dễ,
đơn giản, không đi sâu vào cá nhân trước. Và, điều quan trọng là phải tạo được bầu không khí
tin tưởng, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau giữa người phỏng vấn và người được phỏng vấn.
- Các loại hình câu hỏi dành cho phỏng vấn: Có 6 loại hình câu hỏi, đó là
Câu hỏi về các thông tin cá nhân: bao gồm những câu hỏi về trình độ đào tạo, nghề
nghiệp, tuổi, thu nhập... của người được phỏng vấn.
Câu hỏi về kiến thức: Hỏi về các thông tin thực tế mà người được phỏng vấn biết.
Câu hỏi về kinh nghiệm/hành vi: Nhà nghiên cứu quan tâm đến những gì mà người được
phỏng vấn đã làm hoặc đang làm.
Câu hỏi về quan điểm, giá trị: Nhà nghiên cứu đưa ra các câu hỏi nhằm tìm hiểu xem mọi
người suy nghĩ gì về một chủ đề hay một vấn đề nào đó. Để trả lời được những câu hỏi này,
đòi hỏi người trả lời phải nói lên quan điểm, niềm tin, thái độ hay giá trị của mình.
Câu hỏi về cảm xúc: Nhà nghiên cứu đưa ra các câu hỏi nhằm tìm hiểu xem mọi người có
cảm nhận gì về một vấn đề nào đó. Nó liên quan trực tiếp đến cảm xúc của người trả lời.
Câu hỏi về cảm giác: Đó là các câu hỏi liên quan đến những gì người được hỏi nghe, nhìn,
ngửi thấy...
- Một số yêu cầu đối với người phỏng vấn:
Tôn trọng văn hóa của những người được phỏng vấn;

Tôn trọng từng cá nhân người được phỏng vấn;
Giữ cho bầu không khí phỏng vấn càng tự nhiên càng tốt;
Hỏi cùng một câu hỏi theo những cách khác nhau trong quá trình phỏng vấn;
Yêu cầu người được phỏng vấn nhắc lại ý/câu trả lời mà mình nghe chưa được rõ hoặc
chưa thật hiểu;
Học cách chờ đợi: Người nghiên cứu phải biết cách giữ im lặng khi đặt câu hỏi mà người
được phỏng vấn chưa thể trả lời ngay được.
* Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Người NC cần có công cụ tốt trước khi đi thu thập số liệu và công cụ đó phải giúp họ
thu được thông tin để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu đặt ra. Vì thế, đây sẽ là bước rất quan
trọng bởi vì nếu không có công cụ tốt thì việc thu thập và phân tích số liệu sẽ trở thành vô
ích. Bảng hỏi được thiết kế tốt sẽ khuyến khích người trả lời cung cấp những thông tin đầy đủ
và chính xác.
19


Có 4 bước trong việc thiết kế bảng hỏi, là:
Lập bảng chi tiết hỏi cụ thể
Viết câu hỏi
Chỉnh sửa để in ấn
Thử bảng hỏi
Lập bảng chi tiết hỏi cụ thể bao gồm việc:
 Xác định các mục tiêu mà bảng hỏi hướng đến


Cụ thể hóa các mục tiêu



Xác định đối tượng điều tra




Xác định các phương pháp thu thập thông tin



Thiết lập mối liên hệ giữa câu hỏi nghiên cứu, các thông tin cần thiết, nguồn cung cấp

thông tin và phương pháp thu thập số liệu;
 Quyết định xem làm thế nào để đo từng biến


Lập bảng chi tiết hỏi cụ thể

a) Xác định mục đích của bảng hỏi:
 Mục đích chính hay câu hỏi nghiên cứu là gì? Có một vài câu hỏi chính như: Bảng hỏi
để tìm kiếm điều gì? Những loại thông tin nào cần?
 Các câu hỏi nghiên cứu cụ thể là gì?
 Những giả thuyết nào? (vẽ sơ đồ)
b) Lập bảng liên kết giữa thông tin cần, nguồn thông tin và phương pháp thu thập số liệu:
Bảng này giúp cho chúng ta định hướng xem có thể có bao nhiêu câu hỏi cần thiết phải đặt ra.
Thông tin cần thiết/biến cần đo

Nguồn thông tin

PP thu thập số liệu

c) Xác định đối tượng điều tra, theo đó cần xác định xem:
 Ai sẽ là người thích hợp cung cấp những thông tin cần thiết?

 Các đặc điểm của nhóm đối tượng trả lời phiếu.
d) Xác định phương pháp thu thập thông tin, theo đó phải làm rõ: Liệu có đúng là phải dùng
bảng hỏi hay không? (đôi khi thông tin mà chúng ta cần có thể đã có sẵn trong các điều tra
khác, vì vậy cần phải quyết định xem nên dựa vào những nguồn thông tin đã có nào).
Làm thế nào để đo từng biến?
Cần phải xem xét xem biến đo là biến đơn hay biến ẩn?
 Biến đó đo một tiêu chí hay nhiều tiêu chí?
 Đo tiêu chí đó như thế nào?
20


Biến đơn: là biến đo một tiêu chí, có thể quan sát, đo đạc trực tiếp. Ví dụ, giới, trình độ giáo
dục của cha mẹ là biến đơn.
Biến ẩn: Khả năng/năng lực được đo đạc gián tiếp thông các các biến có liên quan có thể
quan sát được. Vì thế cần có sự đo đạc gián tiếp. Các chỉ số là các biến quan sát được.
Cần lập bảng chỉ rõ làm thế nào để đo từng chỉ số của mỗi biến ẩn.
Các chỉ số

Đo đạc

Cuối cùng, chúng ta cần lập bảng chi tiết, bao gồm: tất cả các biến, các chỉ số, các phương
pháp đo đạc và các thông tin cần thiết để trả lời câu hỏi nghiên cứu.
Ví dụ Bảng chi tiết:
Các biến

Chỉ số

Đo đạc

Giới

Thu nhập của gia đình
Kết quả học tập của HS
Thái độ của học sinh

Xây dựng các tiêu chí, trước hết phải xác định những vấn đề cần quan tâm đối với mỗi tiêu
chí. Cụ thể là:
 Thông tin nào ta cần phải có?
 Thông tin là các sự việc/sự kiện hay không phải là sự việc/sự kiện?
 Hỏi như thế nào?
 Loại hình trả lời nào ta muốn? /Ta muốn người hỏi trả lời như thế nào? (cấu trúc câu hỏi)
 Ta sẽ mã hóa từng tiêu chí như thế nào?
 Có thể đưa cả mã hóa vào bảng hỏi được không?
e) Các loại hình câu hỏi:
Có hai cách phân loại câu hỏi, là: phân loại theo cấu trúc phương án trả lời đưa ra và phân
loại theo loại hình thông tin.
Đối với cách phân loại theo cấu trúc phương án trả lời đưa ra, có hai loại câu hỏi là: câu
hỏi đóng ( dạng câu hỏi có đưa ra các phương án trả lời sẵn để người được hỏi lựa chọn, hoặc
câu hỏi dưới dạng Có/Không…) và câu hỏi mở (dạng câu hỏi để cho người trả lời được tự do
đưa ra ý kiến của mình). Trong một bảng hỏi có thể bao gồm cả câu hỏi đóng và câu hỏi mở.
21


Ví dụ về câu hỏi mở:
 Hãy cho biết lí do vì sao em bỏ học?
 Hãy nêu những nguyên nhân gây cản trở việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy của
anh/chị?
Trong nghiên cứu, câu hỏi mở có những lợi thế sau đây:
 Người được hỏi có thể diễn đạt chính xác những quan điểm hay cảm nghĩ của mình;
 Không hạn chế các phương án trả lời;
 Rất hữu ích trong việc kiểm tra giả thuyết về những ý tưởng hay nhận thức.

Tuy nhiên, câu hỏi mở cũng có những bất lợi như:
 Khó trả lời và tốn nhiều thời gian để trả lời;
 Khó phân tích và tốn nhiều thời gian để phân tích.
Nhóm câu hỏi đóng gồm có các loại hình sau đây:
 Bảng kiểm
 Câu hỏi hai lựa chọn
 Câu hỏi nhiều lựa chọn
 Thang xếp loại
Bảng kiểm thường được sử dụng để kiểm tra xem có hay không có một cái gì đó? Ví dụ:
“Anh/Chị đã sử dụng những loại tài liệu tham khảo nào sau đây?”(liệt kê các tài liệu tham
khảo); Hay, “Em đã tham gia những hoạt động nào sau đây?” (liệt kê các hoạt động).
Thế nào là một bảng kiểm tốt? Một bảng kiểm tốt cần phải:
 Chứa đựng tất cả các lựa chọn phù hợp;
 Sẽ tốt hơn khi cung cấp lựa chọn “cái khác” để người được hỏi có thể bổ sung thêm ở
phía cuối bảng kiểm.
Câu hỏi hai lựa chọn thường được sử dụng để đo sự khác nhau hoàn toàn (đối lập) của các
biến. Trong câu hỏi hai lựa chọn, người trả lời được yêu cầu lựa chọn một trong hai phương
án đối lập nhau như:
- Có/không;
- Đồng ý/không đồng ý;
- Ủng hộ/phản đối;
- Xấu/tốt;
- Thích/không thích; ….
Câu hỏi nhiều lựa chọn là dạng câu hỏi đưa ra tất cả các phương án trả lời có thể có để
người được hỏi lựa chọn.
Thang đo thứ bậc là một dạng câu hỏi được cấu trúc theo đó:
 Cấu trúc này cho chúng ta thấy người được hỏi xếp thứ bậc như thế nào?
22



 Nó sẽ tốt khi chúng ta có số lượng hạn chế các biến muốn xếp loại;
VD: Hãy sắp xếp những thứ cần thay đổi trong nhà trường được nêu ra ở đây theo thứ tự ưu
tiên ?
Những ưu thế của câu hỏi đóng:
 So với câu hỏi mở, loại hình này dễ trả lời và trả lời nhanh hơn;
 Có thể hỏi nhiều câu hỏi trong một khoảng thời gian nhất đinh;
 Có thể hỏi nhiều người;
 Giá thành thấp hơn;
 So sánh nhóm dễ hơn;
 Thời gian dành cho tập huấn cán bộ điều tra ít hơn.
Những bất lợi của câu hỏi đóng:
 Có thể thiếu các phương án trả lời khác;
 Có thể có yếu tố chủ quan của nhà nghiên cứu khi bắt người được hỏi chỉ được lựa
chọn các phương án sẵn có đưa ra;
 Có thể có những người trả lời chọn bừa cho xong;
 Khó thiết kế.
Phân loại theo loại hình thông tin cung cấp, có các dạng câu hỏi sau:
 Câu hỏi về sự việc/sự kiện;
 Câu hỏi không hỏi về sự việc/sự kiện (Thái độ, niềm tin, nhận thức).
Thông thường, phần lớn các bảng hỏi đều kết hợp cả hai loại câu hỏi về sự kiện/sự việc và
câu hỏi liên quan đến thái độ, nhận thức, niềm tin.
Câu hỏi về sự việc/sự kiện:
 Có thể kiểm tra, xác minh;
 Biến đơn;
 Dễ thiết kế.
Câu hỏi không về sự việc, sự kiện:
 Khó xác minh, kiểm tra;
 Biến ẩn;
 Khó thiết kế.
Những điều lưu ý khi thiết kế câu hỏi về sự việc, sự kiện:

 Liệu người được hỏi có đủ thông tin để trả lời câu hỏi hay không? (Kiến thức, trí nhớ).
 Liệu người được hỏi có muốn trả lời hay không? (các vấn đề nhạy cảm).
Dùng câu chữ khi đặt câu hỏi:
 Sử dụng các từ ngữ đơn giản, trực tiếp
23


(“hệ thống thư mục thư viện rất khó cho độc giả“
Ngược với: “Tôi không bao giờ tìm thấy ngay sách tôi cần (trực tiếp hơn);
 Tránh dùng những nhóm từ viết tắt (UNESCO), chữ viết tắt (PHHS), biệt ngữ (từ khó
hiểu);
 Tránh dùng những từ tối nghĩa hoặc có nhiều nghĩa
(Bạn đã bao giờ đánh giá họat động giảng dạy của đồng nghiệp hay chưa?);
 Tránh dùng câu hỏi mang tính chỉ dẫn
(Có đúng là bạn chưa dạy giờ nào ở học kì này không?);
 Tránh dùng những câu hỏi có nhiều ý
(Bạn có mua tạp chí/báo hàng tuần và hàng tháng không?);
 Tránh những giả định ngấm ngầm
(Lần cuối cùng anh/chị mượn băng hình khi nào? Anh/ chị ruột của bạn nghỉ học sớm có
ảnh hưởng đến quyết định bỏ học của bạn không?);
 Đừng bắt trí nhớ của người trả lời làm việc quá nhiều;
 Tránh dùng các mệnh đề hay câu nói đã quen thuộc;
 Những câu hỏi về thái độ sẽ tốt nếu người được hỏi nhận thấy là câu hỏi bắt mình phải
suy nghĩ.
Việc lựa chọn loại hình câu hỏi cần lưu ý đến:
 Số lượng người được hỏi;
 Số lượng và loại hình thông tin cần thu thập;
 Những đặc trưng của người được hỏi (Trình độ, tuổi, văn hóa, tín ngưỡng);
 Số lượng thời gian cần cho việc xử lí và phân tích số liệu;
 Hiểu biết của bạn về các vấn đề hỏi (bạn có thể dự đoán các phương án trả lời có thể ở

mức độ nào);
 Phương pháp phân tích số liệu.
h) Cấu trúc bảng hỏi bao gồm:
Phần Chỉ dẫn, với:
 Chỉ dẫn chung;


Chỉ dẫn từng phần;

 Chỉ dẫn ở từng câu hỏi.
Trong phần chỉ dẫn chung cần:
 Nêu các lí do tiến hành điều tra;
 Nói rõ việc giữ bí mật (dấu tên) cho người trả lời;
 Nêu lí do chọn đối tượng để hỏi;
24


 Nêu rõ địa chỉ hồi âm phiếu trả lời(nếu điều tra qua đường bưu điện);
 Nêu rõ địa chỉ, số điện thoại...của người cần liên lạc;
 Nêu rõ để người trả lời biết kết quả sẽ được sử dụng như thế nào;
 Có lời cảm ơn.
Trong phần chỉ dẫn ở câu hỏi, cần nêu rõ yêu cầu:
 Về cách thức trả lời (như thế nào?);


Cần đảm bảo chắc chắn rằng giữa chỉ dẫn và câu hỏi là phù hợp.

Một số lưu ý khi xây dựng bảng hỏi:
- Nên bắt đầu với câu hỏi dễ và ít nhạy cảm;
- Không nên bắt đầu bằng câu hỏi mở;

- Nên sắp xếp các câu hỏi từ chung nhất đến cụ thể;
- Nên nhóm các câu hỏi theo từng chủ đề hay tiểu mục;
- Nên làm bảng hỏi càng ngắn càng tốt.
(iii) Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Trong nghiên cứu KH, khi dùng khái niệm “phương pháp” để nói đến tổng kết kinh
nghiệm thì nó có hàm nghĩa rất rộng, và có nghĩa như một đường lối chung để tiếp cận các
hiện tượng thực tế nhằm đạt tới bản chất, quy luật của chúng. Như vậy, khi vận dụng đường
lối này, ngoài phương pháp đặc trưng của nó là khai thác kinh nghiệm, còn có thể dùng các
phương pháp và biện pháp nghiên cứu khác nữa để phục vụ cho nó, như: nghiên cứu tài liệu,
quan sát khách quan, trò chuyện, nghiên cứu sản phẩm hoạt động, thực nghiệm kiểm chứng...
Hướng nghiên cứu này được sử dụng cho loại đề tài tổng kết những kinh nghiệm thành
công về lĩnh vực nào đó. Như vậy, thực chất của tổng kết kinh nghiệm là sử dụng phương
pháp khai thác kinh nghiệm để xác định điều kiện, nguyên nhân thành công, vạch rõ quy luật,
bước đi, cơ chế hình thành...của các kinh nghiệm tiên tiến điển hình về những mặt khác nhau
của hoạt động thực tiễn.
Kết quả thu được có thể sử dụng để xây dựng lí luận về chính ngành đó hoặc khoa học
khác có liên quan. Nó cũng có thể được dùng làm giả thuyết cho những thực nghiệm.
“Kinh nghiệm” là một khái niệm rộng và phức tạp nếu hiểu theo góc độ triết học. Ở đây,
khi nói đến “Tổng kết kinh nghiệm”, chúng ta chủ yếu đề cập đến theo nghĩa hẹp, tức là
phương pháp khai thác kinh nghiệm.
Trong giai đoạn triển khai nghiên cứu với tư cách là một phương pháp nghiên cứu khoa
học, “tổng kết kinh nghiệm” có nghĩa là ghi nhận, thu thập những hiện tượng, những việc
làm, những sự kiện đã đem lại kết quả khiêm tốn hoặc to lớn, trong việc giải quyết những khó

25


×