Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Ôn thi môn triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.83 KB, 40 trang )

CHUYÊN ĐỀ: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Câu 1: Phân tích bản chất, nguyên nhân bệnh chủ quan duy ý chí
trong nhận thức và thực tiễn. Phương hướng khắc phục?
Bệnh chủ quan duy ý chí xuất phát từ khuynh hướng sai lầm, cực đoan
trong việc nhận thức mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Việc tìm hiểu nguyên
nhân, những biểu hiện của 2 căn bệnh này trên cơ sở lý luận triết học về mối
quan hệ vật chất và ý thức để tìm ra những giải pháp khắc phục và tránh những
sai lầm của nó trong thực tiễn là vấn đề hết sức cần thiết.
Bệnh chủ quan duy ý chí: nó thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của nhân
tố chủ quan quá đề cao, cường điệu tính sáng tạo của ý thức, của ý chí, xa rời
hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, điều kiện khách quan, lấy
nhiệt tình cách mạng thay thế cho sự yếu kém về trí thức khoa học. Sai lầm của
bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan. Sai lầm đó thể hiện rõ trong khi định ra chủ trương
chính sách và lựa chọn phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn theo hướng áp
đặt ý chí vào thực tế, lấy ảo tưởng chủ quan thay cho hiện thực.
Bệnh chủ quan duy ý chí có nguyên nhân từ sự yếu kém lạc hậu về tư
duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Sự giản
đơn yếu kém về lý luận thể hiện ở chổ: hiểu và vận dụng chưa đúng nguyên lý,
quy luật, phạm trù, chưa chú ý tiếp thu kế thừa những thành tựu, kỹ thuật công
nghệ mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân loại, thậm chí còn có định kiến phủ
nhận một cách cực đoan những thành tựu đó, chưa chú ý tổng kết những cái mới
từ sự vận động, phát triển của thực tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên
nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, lý luận và lý luật suông. Bệnh chủ quan
duy ý chí, bảo thủ còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của con
người chi phối.
Những nguyên nhân khách quan: do xuất phát điểm của quá thấp, nền SX
nhỏ với trình độ SX lạc hậu, do hậu quả của chiến tranh kéo dài ảnh hưởng rất
lớn đến không chỉ đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội mà còn làm cho đội ngũ
cán bộ - đảng viên không có điều kiện để học tập nên trình độ KH công nghệ, tri
thức không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, cơ chế


quan liêu bao cấp, bệnh quan liêu ảo tưởng, “kiêu ngạo cộng sản… cũng tạo
điều kiện cho sự ra đời của căn bệnh chủ quan duy ý chí.
Phương hướng khắc phục
-Mọi vấn đều phải xuất phát từ thực tế khách quan.
-Thường xuyên tổng kết lý luận, nâng cao trình độ lý luận.


Câu 2: Phân tích bản chất, nguyên nhân bệnh kinh nghiệm chủ
nghĩa, bệnh giáo điều trong nhận thức và thực tiễn. Phương hướng khắc
phục?
Những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm:
- Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt tối hóa kinh nghiệm,
coi thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý
luận.
- Kinh nghiệm là rất quý, góp phần thành công trong điều kiện, hoàn cảnh
nhất định và là cơ sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh
nghiệm một nơi, một lúc nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh
nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn cảnh thay đổi. Nguyên
nhân của bệnh kinh nghiệm là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ nguyên nhân chủ quan: dễ thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân,
ngại học lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ
thuật, coi thường giới trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.
+ nguyên nhân khách quan: sự tồn tại phổ biến nền sản xuất nhỏ, trình độ
dân trí thấp, khoa học – kỹ thuật chưa phát triển, Nho giáo phong kiến còn ảnh
hưởng nặng nề.
Những nguyên nhân cơ bản của bệnh giáo điều:
- Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi
nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, áp
dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy móc.
- Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở

câu chữ theo kiểu “tầm chương trích cú”; hiểu lý luận một cách phiến diện, hời
hợt, biến lý luận thành tín điều và áp dụng lý luận một cách máy móc; vận dụng
sai lý luận vào thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận. Nguyên nhân của
bệnh giáo điều là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ hiểu lý luận bằng kinh nghiệm, hiểu lý luận một cách đơn giản, phiến
diện, cắt xén, sơ lược…
+ xuyên tạc, bóp méo lý luận…
Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả:
Hoàn cảnh giai cấp vô sản của nước ta trong buổi đầu cách mạng vừa
giành độc lập tự do làm mảnh đất màu mỡ cho các bệnh này phát triển nhanh,
tuy nhiên chúng ta đã để chúng tồn tại quá dài. Để khắc phục triệt để bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải quán triệt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác – Lênin. Cụ thể:
- Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên
kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng phát triển cùng thực tiễn, tăng cường


học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực
tiễn;
- Phải coi trọng lý luận và công tác lý luận; nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ…;
- Phải đổi mới công tác lý luận của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt nhiệm vụ, hướng nghiên cứu
chủ yếu và phương châm lớn chỉ đạo hoạt động lý luận của Đảng;
- Hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì kinh tế thị
trường luôn vận động và biến đổi, đòi hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế
phải năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó cho
phù hợp
- Phải đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp
khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn bằng cách:

+ từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện;
+ thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, vận dụng lý luận vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta;
- Coi trọng và thường xuyên tổng kết thực tiễn, qua đó sửa đổi, phát triển
lý luận đã có, bổ sung hoàn chỉnh đường lối, chính sách, hình thành lý luận mới,
quan điểm mới để chỉ đạo sự nghiệm đổi mới xã hội.


Câu 3: Phân tích cơ sở triết học và nội dung quan điểm khách quan
trong nhận thức và thực tiễn? (mối quan hệ giữa vật chất và ý thức)
Quan điểm khách quan là một trong những nguyên tắc quan trọng của phương
pháp biện chứng Mác xít. Quan điểm khách quan là quan điểm mà khi xem xét
sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu nó một cách khách quan như cái vốn có của
nó và không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Cơ sở lý luận quan điểm khách quan: Có nhiều cơ sở để đưa ra quan điểm khách
quan như toàn bộ phép biện chứng duy vật, lý luận về nhận thức… nhưng cơ sở
quan trọng nhất, trực tiếp nhất là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức.
- Vật chất: là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một
cách năng động, sáng tạo. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
- Vật chất quyết định ý thức. Vật chất là cơ sở, nguồn sản sinh ra ý thức. Vật
chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định nội dung và xu hướng phát
triển của ý thức.
Nguyên nhân: Do ý thức là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau của 2 dạng vật
chất -> bị 2 dạng vật chất đó quyết định, trong đó:
+ Giới tự nhiên quyết định nội dung của ý thức.

+ Bộ não người quyết định ý thức của con người: khả năng sinh lý, hoạt động
của bộ não, yếu tố tâm lý có trong não.
-> Ý thức chỉ nằm trong não, không có sự tồn tại độc lập.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và có thể tác động trở lại vật chất.
Mặc dù ý thức do vật chất quyết định nhưng nó không phụ thuộc hoàn toàn
vào vật chất mà do có tính năng động, sáng tạo nên ý thức có thể tác động trở lại
vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn
của con người theo 2 hướng:
+ Tích cực: YT phản ánh đúng bản chất hiện thực khách quan có tác dụng thúc
đẩy, tạo điều kiện hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế
giới vật chất. Cụ thể là:
. YT giúp chúng ta nhận thức được quy luật.
. YT giúp chúng ta đề ra phương hướng, mục đích hành động.
. YT giúp chúng ta có phương pháp hành động khoa học, cách thức tổ chức hoạt
động khoa học.
. YT giúp chúng ta sử dụng điều kiện vật chất 1 cách hiệu quả
Yt là động lực tinh thần to lớn cho hoạt động con người.
+ Tiêu cực: YT phản ánh không đúng hiện thực khách quan sẽ kìm hãm hoạt
động con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.


. Nội dung quan điểm khách quan:
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức một
nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc khách quan.
Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất
đối với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ hiện thực khách quan, từ chính sự vật, những điều kiện, hoàn cảnh
thực tế, đặc biệt là từ điều kiện vật chất, phản ánh sự vật trung thành như bản
thân nó vốn có, tôn trọng sự thật không lấy ý chí chủ quan áp đặt cho sự vật.
Đồng thời phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, “phải lấy

thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Căn cứ vào
những điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị, để từ đó đề ra kế hoạch, mục đích,
chủ trương cho hoạt động thực tiễn của bản thân. Những quy luật không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, những hành động không phù hợp
với quy luật sẽ phải trả giá do đó phải hành động theo quy luật. VD: chặt phá
rừng quá mức thì lũ lụt gia tăng…
Thứ ba, tránh rơi vào chủ nghĩa khách quan, tức là tuyệt đối hóa điều kiện vật
chất, không chịu cố gắng, tích cực, chủ động, vượt khó vươn lên.
Việc thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách
quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát
huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình
đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo
trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để từng bước thâm nhập
sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người thực hiện sự biến đổi từ cái
“vật tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái phục vụ cho nhu cầu của con
người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật chất khách quan,
sức mạnh của quy luật … để phục vụ cho các mục tiêu, mục đích khác nhau của
con người.


Câu 4: Phân tích cơ sở triết học và nội dung quan điểm toàn diện
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn? (trình bày nguyên lý mối liên hệ phổ
biến)
Quan điểm siêu hình: mlh là
Quan điểm biện chứng:
Định nghĩa: liên hệ là PTTH dùng để chỉ sự tác động qua lại, sự quy định
chuyển hóa lẫn nhau giữa các SVHT trên thế giới.
Các SVHT trong thế giới luôn ràng buộc, phụ thuộc làm điều kiện, tiền
đề quy định lẫn nhau và luôn luôn tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau.
Cơ sở mlh giữa các SVHT là tính thống nhất vật chất của thế giới vì mọi

SVHT, mọi đối tượng đều là kết cấu vật chất cụ thể.
Tính chất mối liên hệ phổ biến:
-Khách quan: diễn ra 1 cách khách quan, tự nó.
-Phổ biến: xảy ra giữa các SV mà xảy ra giữa các yếu tố, bộp hận cấu
thành, giữa các giai đoạn, giữa các quá trình, cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
-Tính đa dạng: diễn ra với nhiều tính chất, hình thức khác nhau. Căn cứ
vào tính chất mlh thì chúng ta chia mlh thành bên trong, bên ngoài, bản chất
hiến tượng, chủ yếu, thứ yếu… trong mlh đó thì mlh bên trong, bản chất, chủ
yếu đóng vai trò quyết định.
Ý nghĩa PP luận:
Quan điểm toàn diện: (là nguyên tắc quan trọng) khi xem xét sự vật để rút
ra bản chất thì chúng ta phải đặt sv trong các mlh sv với nhau, xem xét mlh
trong sv đó, mỗi mlh ta phải xác định 1 góc độ, 1 khía cạnh, phải xem xét các
yếu tố, bộ phận cấu thành nên sv. Luôn xem xét trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, trong từng thời điểm mlh có vai trò khác nhau.
Phân loại cá mlh để nắm các mlh chính, cơ bản quy định sự vận động,
phát triển của sv để tác động theo nhu cầu của chủ thể. SV có vô vàn mlh, xác
định được càng nhiều mlh thì bản chất sv càng rõ hơn.
Khắc phục quan điểm phiến diện, loại trừ chủ nghĩa chiết trung và ngụy
biện.
Công cuộc đổi mới của đất nước ta toàn diện trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó đổi mới tư duy là khâu đột phá.Xu thế toàn cầu hóa.
Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt,…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật
càng tốt


- Phân loại để xác định những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định...;

còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…;
- Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…) bên trong cơ bản, tất nhiên, ổn định…. Để lý giải được những mối liên
hệ, quan hệ ((hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) còn lại. Qua đó xây
dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối liên hệ, quan hệ (hay
những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…); phát hiện ra quy luật (bản chất) của
nó.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt,…) chi phối sự vật.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương
tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện,
biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những
đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) để biến đổi những mối liên hệ, quan
hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) của bản thân sự vật,
đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên,
quan trọng…. của nó.
- Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt,…)của bản thân sự vật; kịp thời sử dụng các công
cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế hay hạn chế
sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng
quy luật và hợp lợi ích của chúng ta.
- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc
phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy
biện,… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
+ Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan
hệ, tính chất nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ,
nhiều tính chất của sự vật.
+ Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều

mối liên hệ của sự vật chứ không rút ra được mặt bản chất, không thấy
được mối liên hệ cơ bản của sự vật, mà coi chúng như nhau, kết hợp
chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
+ Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với
cái không cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt
được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
- Trong xã hội nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận
thức với nhận thức mà còn liên hệ nhận thức với cuộc sống; phải chú ý
đến lợi ích của các chủ thể (các cá nhân hay giai tầng) khác nhau trong xã
hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ
bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản; phải biết phát huy (hay hạn chế)


mọi tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh
tế, chính trị, văn hóa,..) từ các thành phần kinh tế khác, từ các tổ chức,
chính trị xã hội… để có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp
mà không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn điều, tức không
thấy được trọng tâm cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì
trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
Việc quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chúng
ta khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy
biện… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính
chất nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất
của sự vật. thường xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của
sự vật hay hiện tượng mà không làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của
sự vật hay hiện tượng đó.
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ của sự vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối

liên hệ cơ bản của sự vật mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô
nguyên tắc, tùy tiện. Do đó hoàn toàn bất lực khi cần phải có quyết sách đúng
đắn.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái
không cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu… hay ngược lại nhằm đạt được mục
đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
Trong đời sống xã hội, nguyên tắc toàn diện có vai trò cực kỳ quan trọng.
Nó đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà cần phải liên
hệ nhận thức với thực tiễn cuộc sống, phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các
cá nhân hay các giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích
cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản, phải biết phát huy hay hạn chế mọi
tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính
trị, văn hóa…) từ các thành phần kinh tế, từ các tổ chức chính trị - xã hội… để
có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa
bình quân, quan điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều
cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp


Câu 5: Phân tích cơ sở triết học và nội dung quan điểm lịch sử - cụ
thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn? (tóm tắt câu 4, câu 6).
Nguyên tắc lịch sử cụ thể: Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự
hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong điều kiện, môi
trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể.
Điểm xuất phát của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là sự tồn tại, vận động, phát
triển của các sự vật, hiện tượng diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể được Lênin nêu rõ và cô đọng: “xem xét mỗi vấn
đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử
như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào,
và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành
như thế nào”.

Cơ sở lý luận: Toàn bộ các nguyên lý, các quy luật, các cặp phạm trù của
phép biện chứng duy vật; trong đó cơ sở quan trọng nhất vẫn là xuất phát từ 2
nguyên lý:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chúng cùng tồn tại, cùng tác
động ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình phát triển.
- Nguyên lý về sự phát triển: Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để
khái quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi: để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện tượng,
chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển,
chuyển hóa, trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những
ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không
gian và thời gian cụ thể; gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật,
hiện tượng tồn tại.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai
đoạn cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất của nội dung nguyên tắc lịch sử - cụ
thể.
Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ trong quá trình nhận thức sự vật, hiện
tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo được
sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của
chính nó.
Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử, cụ thể là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua
lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn
theo trình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch
sử, cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt của sự hình thành sự
vật, hiện tượng.



Giá trị của nguyên tắc: phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa
dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận
thức được bản chất của nó.
Yêu cầu của nguyên tắc:
- Nhận thức được vận động có tính phổ biến là phương thức tồn tại của vật chất.
- Chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hóa thành sự
vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng thông qua phủ định
của phủ định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự
bảo tồn sự vật hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với
sự vật, hiện tượng mới.
- Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ cụ thể của nó -> tìm ra
nguyên nhân cụ thể của sự phát triển, nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật,
hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con
người.
- Muốn xem xét rút ra bản chất của sự vật phải đặt sự vật vào thời gian, môi
trường mà sự vật tồn tại. VD: chúng ra thực hiện phong trào hợp tác hóa với tư
duy bây giờ là sai nhưng vào những năm 58 – 60 đến trước đổi mới và hoàn
cảnh là đất nước có chiến tranh thì nó là đúng đắn.
- Khi xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải
chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự
ra đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực – cả khách quan lẫn chủ quan.
Khi quan sát một quan điểm, luận điểm cũng phải đặt nó trong những mối quan
hệ như vậy.
- Xem xét sự vật chú ý tính chất thời đại, lịch sử của nó.
Đòi hỏi của nguyên tắc:
- Chống những cái chung chung, trừu tượng.
- Chống hiện đại hóa lịch sử. Tránh lấy tư duy hiện tại để áp đặt quá khứ, tránh
lấy quan điểm đã qua để đánh giá hiện thực.
Vận dụng:

- Khi vận dụng các lý luận, chuẩn mực chung vào những trường hợp cụ thể phải
tính đến những hoàn cảnh đặc thù tránh rập khuôn, máy móc, giáo điều.
Khi truyền bá và vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh
luôn chú ý đến đặc điểm của các nước phương Đông, đặc biệt là của Việt Nam.
Từ năm 1930, Đảng ta đã vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể để xây dựng
thành công Chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đề ra đường lối kinh tế thị trường đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp, đồng thời thực hiện phát triển kinh tế đi liền với
phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
- Triết học Mác-Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy triết học trong lịch sử nhân lọai.


- Triết học Mác-Lênin xem xét lịch sử xuất phát từ con người và cho rằng
con người là sản phẩm của lịch sử.
b/- Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc LS-CT
1. Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành,
tồn tại và phát triển cụ thể của những sự vật cụ thể trong những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể. Nghĩa là:
- Phải biết sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều
kiện, hoàn cảnh nào, bị chi phối bởi những quy luật nào;
- Hiện giờ sự vật đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn
cảnh ra sao, do những quy luật nào chi phối;
- Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật có thể sẽ phải tồn tại như thế
nào (trên những nét cơ bản) trong tương lai ..
2. Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách
cụ thể, áp dụng cho những sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện,
hoàn cảnh, quan hệ cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn mẫu chung
chung cho bất cứ sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào.
3. Nguyên tắc LS-CT được V.I. Lênin cô đọng trong nhận định: “Xem xét

mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện
trong lịch sử như thế nào, những hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn
phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem
xét hiện nay nó đã trở thành thế nào”.
Điều này có nghĩa là nguyên tắc LS-CT đỏi hỏi phải phân tích sự vật cụ
thể trong những tình hình cụ thể để thấy được:
- Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua
những độ nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên
những chất, lượng mới nào?...
- Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những
mâu thuẫn đó đang nằm ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận
động, phát triển của sự vật?...
- Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái
cũ nào đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện?..
- Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là
những cái riêng hay cái đơn nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù / cái phổ
biến; chúng quy định nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào?
- Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào;
hiện tượng nào chỉ là giả tượng, hiện tượng nào là điển hình …
- Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những
hình thức nào; hình thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào
không phù hợp với nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi?..
- Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy
sinh ra những khả năng nào; mỗi khả năng đó, trong những điều kiện cụ thể
nào có độ tất yếu hiện thực hóa ra sao?...


4. Nguyên tắc LS-CT đòi hỏi chúng ta phải bao được các sự kiện xảy ra
trong nghiên cứu khoa học hay các biến cố xảy ra trong các tiến trình lịch sử
nhân loại.

Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học như
những cái ngẫu nhiên thuần túy của tự nhiên hay mô tả các biến cố lịch sử như
những cái vụn vặt đơn lẻ của xã hội, mà nó đòi hỏi chúng ta phải tái hiện
chúng, mô tả chúng trên cơ sở vạch ra được cái tất yếu lô gích, cái chung (quy
luật, bản chất) của chúng, chỉ ra được những trật tự nhân quả quy định chúng.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được bức tranh khoa học
về thế giới, để qua đó chúng ta nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính
phong phú của lịch sử trong sự thống nhất.
5. Nguyên tắc LS-CT đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản vận dụng:
Xuất phát từ tình hình cụ thể của CNTB ở giai đoạn tiền độc quyền, tự do
cạnh tranh mà C. Mác cho rằng, cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở tất cả
các nước TBCN tiên tiến.
Sang thế kỷ 20, CNTB đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, đế quốc chủ
nghĩa. Khi vận dụng nguyên tắc này vào xem xét tình hình thế giới lúc này có
những thay đổi lớn mà V.I. Lênin đã đi đến kết luận đúng đắn là: cách mạng
XHCN chỉ có thể thắng lợi ở vài nước, ở khâu yếu nhất của CNTB.
Đảng CS Việt Nam, Đảng CS Trung Quốc cũng đang quán triệt và vận
dụng sáng tạo nguyên tắc này vào thực tiễn cách mạng mỗi nước để xây dựng
cho quốc gia mình một con đường riêng đi lên CNXH.
Vận dụng nguyên tắc LS-CT, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con
đường CNXH. Ngày nay, để xây dựng thành công CNXH, Đảng đề ra đường
lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh,
có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển
văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng
hệ thống chính trị vững mạnh.



Câu 6: Phân tích cơ sở triết học và nội dung quan điểm phát triển
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?(Trình bày nguyên lý phát triển)
Quan điểm siêu hình: phủ nhận sự vận động phát triển, thừa nhận sự vận
động nhưng đó chỉ là tăng hoặc giảm đơn thuần về lượng, không có sự biến đổi
về chất. Con người chỉ lớn lên về thể xác. Nguyên nhân sự phát triển là do yếu
tố bên ngoài quyết định. Tóm lại, đó là sự phát triển theo vòng tuần hoàn khép
kín.
Quan điểm biện chứng: Mọi sv luôn vận động phát triển hoặc thoái hóa
nhưng khuynh hướng tất yếu là từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Định nghĩa: Phát triển là PTTH dùng để khái quát quá trình vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn.
Trong tự nhiên, xã hội, tư duy vận động từ thấp đến cao (Nêu VD chứng
minh): Thuyết tiến hóa ĐácUyn, thuyết tế bào, Định luật bảo toàn khối lượng,
hình thái kinh tế xã hội… Sự phát triển với những hình thức khác nhau trong
các lĩnh vực khác nhau của thế giới.
Sự phát triển bao hàm sự thay đổi về lượng cũng như sự thay đổi về
chất.Trong quá trình phát triển luôn có những chất mới ra đời thay thế chất cũ
và tồn tại bên cạnh chất cũ. Thế giới đa dạn, muôn màu muôn vẽ…
Tính chất của nguyên lý phát triển:
-Tính khách quan: sự phát triển của sv không phụ thuộc vào ý thức con
người, đây là quá trình diễn ra tự nhiên, tự nó, vốn có của sv, do những nguyên
nhân bên trong sv quy định. Do các mâu thuẫn mặt đối lập, sự phát triển chính
là kết quả quá trình lượng đổi, chất đổi, là kết quả quá trình phủ định của phủ
định.
-Tính phổ biến: Phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội
đến tư duy, nó bộc lộ ở tất cả mọi giai đoạn vận động của thế giới.

-Tính đa dạng: Các hình thức phát triển hết sức phong phú, phụ thuộc vào
bả chất của mọi hiện tượng.
-Tính kế thừa: sv mới ra đời luôn giữ lại 1 số tính chất, nội dung sv cũ.
-Tính không trực tuyến (phức tạp) quá trình phát triển theo đường xoáy
trôn ốc, quanh co, phức tạp, đan xen những nội dung vận động đi lên, vận động
thụt lùi là tương đối.
Ý nghĩa PP luận:
-Quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.


+Mọi sv luôn vận động phát triển, luôn nghiên cứu xem xét ssv trong
trạng thái vận động để thấy được những khuynh hướng biến đổi của sự vật, qua
đóo có những biện pháp phù hợp tạo điều kiện hỗ trợ, tác động.
+Thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát hiện cái mới, nhân tố mới;
trong các hoạt động thực tiễn, chúng ta phải có thái độ, hành động ủng hộ, tạo
điều kiện hỗ trợ cái mới.
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào
đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là
phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn
tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của
chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính
chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra
khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá
trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra
phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến
triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có

lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định
kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ
đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính
bản thân con người. Song để thực hiện được chúng, mỗi người cần nắm chắc
cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.


Câu 7: Phân tích cơ sở triết học và nội dung quan điểm thực tiễn
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn? (Vai trò thực tiễn đối với lý luận)
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau.Lý luận càng
cao, hiểu biết càng sâu rộng, thực tiễn càng đa dạng phong phú.Thực tiễn càng
đa dạng, phong phú, sinh động bao nhiêu, càng tạo điều kiện, càng kích thích lý
luận phát triển bấy nhiêu. Chính trong sự tác động qua lại biện chứng đó mà
trình độ thực tiễn ngày càng cao hơn, hiệu quả hơn đồng thời nhận thức của con
người về thế giới nhày càng sâu sắc hơn, lý luận ngày càng phát triển cao hơn
Nhấn mạnh điều đó Hồ Chí Minh viết : “ Thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của CN Mác- Lênin.Thực tiễn không có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông”.
2. Quan điểm thực tiễn
- Nhận thức,đề ra đường lối, chủ trương, chính sách…phải trên cơ sở thực
tiễn, xuất phát từ thực tiễn, từ những nhu cầu của thực tiễn.
- Theo sát sự biến đổi và phát triển của thực tiễn, tăng cường tổng kết
thực tiễn để sửa đổi, bổ sung, phát triển nhận thức và hành động cho phù hợp
với thực tiễn.
- Phảitôn trọng thực tiễn, căn cứ vào thực tiễn mà kiểm tra tính đúng đắn

của nhận thức lý luận, cũng như những chủ trương, chính sách, biện pháp.
3. Phê phán bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm trong hoạt động
lãnh đạo, quản lý
* Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận,
coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ
thể.
Bệnh giáo điều thường biểu hiện như sau:
- Bệnh sách vở, nắm lý luận, nghị quyết, chủ trương, chính sách…chỉ
dừng ở câu chữ chung chung, không nắm được thực chất khoa học của lý luận,


không cụ thể hoá nghị quyết, chủ trương, chính sách…cho phù hợp với điều
kiện lịch sử - cụ thể của ngành, địa phương, đơn vị.
- Coi những nguyên lý lý luận như những tín điều,coi chủ trương, chính
sách như là cái bất di bất dịch,không thấy được sức sống của lý luận, của chủ
trương, chính sách là ở chỗ phải luôn luôn sửa đổi, bổ sung và phát triển trên cơ
sở thực tiễn mới.
- Vận dụng lý luận, kinh nghiệm và chủ trương, chính sách một cách rập
khuôn máy móc, không tính đến điều kiện cụ thể, đến trình độ của thực tiễn.
* Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hoá kinh
nghiệm, coi thường lý luận khoa học.
Bệnh kinh nghiệm thường biểu hiện:
- Thoả mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân, ngại học lý luận, không
chịu khó nâng cao trình độ lý luận.
- Tiếp xúc với lý luận ở trình độ tư duy kinh nghiệm,từ đó giản đơn hoá,
thông tục hoá, kinh nghiệm hoá lý luận, cố gắng “đẽo gọt” lý luận cho vừa với
khuôn khổ, kích thước kinh nghiệm của mình.
- Coi thường lý luận, không tin vào lý luận và không chịu khó vận dụng
lý luận vào thực tiễn.
* Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo

điều là do sự yếu kém về lý luận, không nắm được tinh thần khoa học của
đường lối, chủ trương, chính sách.
* Biện pháp khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều:
+ Nâng cao trình độ tri thức khoa học, lý luận;trình độ hiểu biết về đường
lối, chủ trương, chính sách của cán bộ, đảng viên.
+ Vận dụng lý luận,đường lối, chủ trương, chính sách phải phù hợp với
điều kiện cụ thể của địa phương, đơn vị.
Mặt khác, phải tăng cường công tác tổ chức thực tiễn, phát triển lý luận
phải dựa vào thực tiễn, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để sửa đổi, bổ
sung, phát triển lý luận…


Từ giải quyết đúng đắn,khoa học mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên
quan điểm thực tiễn đòi hỏi trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn luôn
luôn phải vận dụng quan điểm khách quan.

1/. Phạm trù thực tiễn:
Theo tiếng Hy Lạp cổ, thực tiễn có nghĩa đen là hđ tích cực, trước khi TH
Mác ra đời, thì các nhà TH đã bàn về thực tiễn, nhưng chưa thực sự có quan
niệm khoa học. Các nhà TH duy tâm chủ quan coi hđ nhận thức, hđ tinh thần là
hđ thực tiễn. Các nhà TH duy tâm KQ, các nhà tôn giáo cho hđ sáng tạo ra vũ
trụ của những lực lượng siêu nhiên là hđ thực tiễn. Một số nhà TH duy vật trước
TH Mác, chẳng hạn như Điđrô (nhà TH duy vật Pháp tk 18) cho hđ thực nghiệm
khoa học là thực tiễn – đây là quan niệm đúng nhưng chưa đủ. Phoiơbắc (nhà
TH duy vật CĐ Đức) lại có quan niệm chưa thực sự khoa học về thực tiễn, cho
thực tiễn chỉ là những hđ buôn bán có tính chất Do thái chủ nghĩa.(T.3 tr.9).
Các nhà chủ nghĩa thực dụng Mỹ coi thực tiễn là phản ứng của con người
trước hoàn cảnh một cách hiệu quả nhất.
Theo TH Mác – Lênin, thực tiễn là một phạm trù TH chỉ toàn bộ hđ vật
chất – cảm tính mang tính mục đích, tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm

cải tạo tự nhiên và xã hội.
Từ quan niệm về thực tiễn trên của TH M-L, thì thực tiễn xét về đặc trưng
có 3 đặc trưng sau:
1). Thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ là
những hđ vật chất – cảm tính. Đó là những hđ mà con người phải sử dụng lực
lượng VC, công cụ VC tác động vào các đối tượng VC để làm biến đổi chúng
(đối tượng VC).
2). Thực tiễn là nhựng hđ mang tính lịch sử - xã hội của con người. Điều
này thể hiện ở chỗ :
- Đlà hđ của đông đảo ng trong xh với sự tham gia của nhiều người. Nó
có sự liên kết, kế thừa, trao đổi hoạt động giữa các thế hệ, các tập đoàn người
trong xh.
- Những hđ thực tiễn luôn luôn bị giới hạn bởi những đk lịch sử - xh cụ
thể.
- Những hđ thực tiễn này nó cũng trải qua những gđ lịch sử nhất định
trong quá trình phát triển của mình.
3). Thực tiễn là những hđ có mục đích của con người, nó thể hiện tính tự
giác cao, tính chủ động tích cực của con người để phân biệt với hđ bản năng, tự
phát của con vật.


Nếu cắt dọc quá trình hđ thực tiễn, thì thực tiễn sẽ gồm 1 quy trình gồm
3 khâu cơ bản: Mục đích - Phương tiện - Kết quả.
Mục đích phục thuộc vào đk khách quan, từ đk KQ làm nảy sinh nhu cầu,
thỏa mãn nhu cầu chính là lợi ích, cho nên mục đích đc hình thành từ nhu cầu
và lợi ích.
Muốn đạt mục đích phải có phương tiện, công cụ. Phương tiện lại phụ
thuộc vào đk kq, phục thuộc vào mục đích của chủ thể, từ p/tiện dẫn đến kết
quả. Tuy nhiên, nếu nhìn rộng ra thì kết quả k chỉ phụ thuộc vào p/tiện mà còn
phụ thuộc vào đk kq, vào mục đích đặt ra, đặc biệt phụ thuộc vào năng lực thực

hiện p/tiện, sử dụng p/tiện của chủ thể.
Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác
nhau, nhưng nhìn chung thì tồn tại ở 3 hình thức cơ bản:
1) Sản xuất VC – chẳng hạn sx ra của cải VC: sắt, thép, hàng tiêu dùng...
2) Những hđ cải tạo chính trị - xh, cải tạo các quan hệ chính trị - xh như
đấu tranh g/cấp, đ/tranh giải phóng dân tộc, như mít tinh, biểu tình bãi công, bãi
khóa... Thiếu hình thức hđ thực tiễn này thì con người cũng k hđ bình thường.
Bởi lẽ hình thức hđ thực tiễn này góp phần tạo ra đk môi trường xh thuận lợi
cho con người phát triển. (vd chính con người làm công cụ, phương tiện...).
3) Hoạt động thực nghiệm khoa học – đlà hình thức đặc biệt. Bởi lẽ, trong
hình thức này, con người chủ động tạo ra những đk, hoàn cảnh, môi trường nhân
tạo, không bình dân, để qua đó vận dụng những thành tựu của KHCN vào nhận
thức cải tạo thế giới phục vụ cho con người.
Những hình thức tồn tại trong giáo dục, y tế, thể thao... là hình thức k cơ
bản, nhưng xét đến cùng thì nó cũng là những hình thức liên hình thức cơ bản
với 3 hình thức trên.
Ba hình thức này có quan hệ tác động, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau,
trong đó sx vc đóng vai trò qđịnh và quan trọng nhất. Sản xuất VC là hình thức
hđ thực tiễn sớm nhất của con người, thiếu nó con người k thể tồn tại – nó là
phương thức tồn tại của xh loài người, nó đóng vai trò quyết định đối với 2 hình
thức hđ thực tiễn kia. Tuy nhiên, 2 hình thức hđ thực tiễn kia ảnh hưởng quan
trọng tới sx vc.
1/. Vai trò của thực tiễn:
a). Vai trò của thực tiễn trong mối quan hệ chủ thể - khách thể:
- Nhiệm vụ của TH phải trả lời cho câu hỏi, cái gì là cầu nối giữa chủ thể
và khách thể (giữa con ng với TGKQ).
Có quan niệm cho rằng, quan hệ giữa con ng với TGKQ = ý thức, = tinh
thần; cũng có quan niệm con người quan hện với TGKQ = chúa trời, thượng
đế... Đặc biệt, Cantơ tk 18, 19 thì quan hệ giữa con ng với TGKQ là đạo đức....



là cầu nối giữa con người với TGKQ. Tuy nhiên những quan niệm này là không
ổn.
Theo TH Mác – Lênin, cầu nối giữa CT và KT, con ng với TGKQ chính
là bằng hđ thực tiễn. Thông qua và = hđ thực tiễn, con ng tiếp cận được (quan
hệ được) với TGKQ. Vai trò của thực tiễn thể hiện ở chỗ - nó là cầu nối nối con
ng với TG, trên cơ sở đó để con người tách khỏi TGKQ, nhất là khỏi TG tự
nhiên. Tức là con người phải làm chủ giới tự nhiên, nhưng để làm chủ giới TN,
thì con ng tiếp cận với tự nhiên. Hay nói khác đi, chính thực tiễn đóng vai trò
khẳng định vị trí của con người trong quan hệ với thế giới, trước hết làm cho
con ng tách khỏi giới TN, làm chủ TN. Hay nói khác đi, thực tiễn nối con ng với
tự nhiên, để trên cơ sở đó để cho con ng tách khỏi giới TN, nhưng để con ng
càng tách khỏi giới TN, thì con ng lại càng phải gắn bó với TN, nối với TN.
b). Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
* Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức:
- Bằng và thông qua hđ thực tiễn, con người tác động vào sv hiện tượng,
vào TGKQ, bắt chúng phải bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật, đặc điểm...
Nhờ vậy, con người mới có tri thức về chúng, tức là sự hiểu biết. Nói khác đi,
mọi tri thức của con người đều có cơ sở từ hđ thực tiễn, chính thực tiễn đã cung
cấp vật liệu cho nhận thức.
- Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi con người phải giải
quyết. Chính trong quá trình đó, nhận thức của con người được phát triển, hay
nói khác đi, thực tiễn chính là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Thực tiễn
là người đặt hàng cho nhận thức, trên cơ sở đó thúc đẩy cho nhận thức phát
triển. Bởi vì thực tiễn biến đổi đặt ra nhu cầu phải giải quyết... từ đó nhận thức
phát triển.
- Thực tiễn là cơ sở rèn luyện các giác quan của con người, trên cơ sở đó
giúp con người nhận thức tốt hơn, hiệu quả hơn. (M-Ă toàn tập T.20, tr.170).
- Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo các công cụ, phương tiện, máy móc, để
nhân lên cái khả năng, mở rộng năng lực các khí quan của con người. Trên cơ

sở đó giúp con người nhận thức hiệu quả hơn.
* Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
- Nhận thức của con người xét về mặt lịch sử, ngay từ khi con người mới
xuất hiện từ vượn người đã bị quy định bởi nhu cầu thực tiễn. Bởi lẽ, để tồn tại,
con người phải sản xuất vật chất để đáp ứng nhu cầu của mình, đồng thời phải
cải tạo xã hội. Muốn vậy, con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, tức là
nhận thức.
- Những tri thức kết quả của nhận thức chỉ có vai trò, ý nghĩa, giá trị khi
được vận dụng vào thực tiễn phục vụ con người, cụ thể là vận dụng vào sản xuất
vật chất, vào cải tạo chính trị xh, vào thực nghiệm khoa học. Hay nói khác đi,


thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá vai trò, ý nghĩa, mục đích của nhận thức, nếu
những tri thức mà không phục vụ thực tiễn thì cũng không có giá trị, mất
phương hướng, phải trả giá.
* Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý:
Tri thức của con người là kết quả của q/trình nhận thức. Do vậy, tri thức
đó có thể phản ánh đúng, có thể phản ánh sai. Không thể lấy tri thức để kiểm tra
tri thức, cũng k thể lấy sự hiển nhiên, sự có lợi, hay sự tán thành của số đông để
làm tiêu chuẫn kiểm tra sự đúng sai của nhận thức.
Theo triết học Mác – Lênin, chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan
duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Bởi lẽ, chỉ có bằng và thông
qua thực tiễn, con người mới vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư
tưởng, qua đó mới phân biệt (kiểm tra) được sự đúng – sai của tri thức.
Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, nó là tiêu chuẫn khách quan duy nhất để
khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ, chúng ta
không bao giờ bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó (T.18 Lênin,
tr.168).
Hơn nữa, thực tiễn luôn có quá trình vận đợng phát triển, do vậy, với tư
cách là tiêu chuẫn của chân lý, nó cũng không đứng im. Vì vậy, nếu xem xét

thực tiễn trong không gian càng rộng trong không gian càng dài trong chỉnh thể,
thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm. Do đó, triết học Mác yêu cầu quan
điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận
và nhận thức (t.18 Lênin, tr.167).
Đồng thời, triết học Mác – Lênin cũng khẳng định con người chứng minh
bằng thực tiễn của mình, sự đúng đắn khách quan của những ý niệm, khái niệm
của tri thức của mình (t.29, tr.203 Lênin).
c). Rút ra ý nghĩa pp luận:
Từ quan điểm TH M-L về thực tiễn, vai trò thực tiễn, rút ra pp luận phải
có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động. Quan điểm này yêu cầu:
1)nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn.
2)phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẫn kiểm tra sự đúng sai của lý luận, của
chủ trương, đường lối, chính sách.
3)phải tăng cường tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý
luận, cũng như chủ trương, đường lối, chính sách.


Câu 8: Từ lý luận triết học, giải thích vì sao trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. (Trình bày mối quan hệ giữa vật chất và ý thức)
Nội dung chính: Khái niệm (vc-yt), vc quyết định yt (não người, thế giới
khách quan), sự tác động của yt (phát triển, kìm hãm), ý nghĩa (quan điểm thực
tiễn khách quan; tính năng động sáng tạo của ý thức, nhân tố của con người).
Khái niệm:
Vật chất là: thực tại khách quan, được
Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người một cách
năng động, sáng tạo (là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan)
Vật chất quyết định ý thức
YT là sự kết quả của sự tác động lẫn nhau của 2 dạng vật chất đó là thế
giới khách quan và bộ não con người.

YT chỉ có thể trở thành sức mạnh vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
bằng việc sử dụng các phương tiện vật chất cần thiết cho hoạt động (các tư
tưởng, quan điểm trở thành hiện thực khi vào thực tiễn).
-Đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần (TTXH).
Như vậy, VC quyết định YT cả 2 mặt đó là: quyết định nội dung phản ánh
của ý thức, vật chất quyết định sự hình thành, biến đổi của ý thức.
Ý thức tác động vật chất
YT do VC sinh ra và quyết định nhưng nó có tính độc lập tương đối và
đóng vai trò nhất định, nó định hướng cho hoạt động con người, nó là động lực
tinh thần cho hoạt động con người. Nó tác động trở lại CV theo 2 hướng:
-Nếu YT phản ánh đúng quy luật vận động của hiện thực khách quan thì
sẽ giúp cho chúng ta xác định đúng mục tiêu, phương hướng hành động, từ đó
cải tạo thế giới.
-Nếu ý thức phản ánh không đúng quy luật vận động thì con người xác
định không đúng mục tiêu, phương hướng, hiện pháp thực hiện, cải tạo không
đúng sự vật hiện tượng.
Xét đến cùng thì YT vẫn do VC quyết định nghĩa là tự bản thân YT
không thay đổi hiện thực khách quan mà phải thông qua hoạt động thực tiễn con
người bằng các phương tiện vật chất.
Ý nghĩa PP luận:
Do VC quyết định YT cho nên trong nhận thức và trong hoạt động thực
tiễn, chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan (Đảng ta vận dụng).


Vì YT tác động trở lại VC cho nên chúng ta phải phát huy những ý thức
tích cực, tri thức khoa học, nâng cao dân trí. Chú ý những hiện tượng tâm lý xã
hội, khắc phục, loại bỏ những ý thức tiêu cực.
Tự bản thân YT không thay đổi hiện thực khách quan mà phải thông qua
hoạt động thực tiễn của con người, cho nên cần phải phát huy vai trò chủ động,
tích cực của nhân tố con người.



Câu 9: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
tính thống nhất của thế giới. Khoa học hiện đại đã chứng minh điều đó như
thế nào? Ý nghĩa của lý luận trên.
Khuynh hướng chung của các trường phái duy vật là tìm nguồn gốc, bản
chất sự thống nhất của thế giới vật chất ngay trong bản thân nó. Trong thời cận
đại cũng nhưng cả trong thời cổ đại, việc phủ nhận lực lượng siêu nhiên không
tách rời nhau. Nếu như các nhà triết học tự nhiên thời cổ đại và phục hưng đã
luận chứng nguyên tắc thống nhất vật chất của thế giới bằng cách quy cái siêu
tự nhiên về cái tự nhiên, về cái có thể thụ cảm cảm tính được, thì các nhà duy
vật thời cận đại đã chứng minh sự thống nhất vật chất của thế giới phù hợp với
nhất nguyên luận duy vật bằng những thành tựu của khoa học tự nhiên thời đó.
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển khoa
học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất.
Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi chính cuộc sống hiện
thực của con người và nó trở thành cơ sở cho cuộc sống và hoạt động của con
người. Con người không thể bằng ý thức mà sản sinh ra các đối tượng vật chất
được. Con người chỉ có thể cải biến thế giới vật chất theo những quy luật vốn có
của nó.
Sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm duy tâm và tôn
giáo tìm ra nguồn gốc, bản chất của thế giới từ thần thánh, từ những lực lượng
siêu nhiên. Nếu như tôn giáo chia thế giới thành ba bộ phận khác nhau về bản
chất (trần gian, địa ngục và thiên đường) do đấng thiên liêng nào đó tạo ra và
chi phối, thì trái lại, KHTN và triết học duy vật đã chứng minh rằng, thế giới
xung quanh ta từ những vật vô cùng lớn đến vật vô cùng nhỏ, từ tự nhiên đến xã
hội, từ giới vô sinh đến giới hữu sinh, từ thực vật đến động vật, tuy rất khác
nhau, song đều có cùng bản chất vật chất và thống nhất ở bản chất vật chất ấy.
Tính thống nhất vật chất của thế giới không loại trừ tính đa dạng của thế giới;

nó bao hàm tính đa dạng, tính muôn hình muôn vẻ về chất của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới.
Trong thế kỷ XIX, những phát minh vĩ đại của KHTN: thuyết tế bào, định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa các loài đã có ý nghĩa
lớn lao để chứng minh luận điểm về sự thống nhất vật chất của thế giới. Chính
những lý thuyết này đã giải thích môi liên hệ lẫn nhau và sự phát triển của các
hiện tượng nhờ những nguyên nhân tự nhiên. Những lý thuyết đó đã lấp đi cái
hố sâu ngăn cách do tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm tạo ra một cách giả tạo giữa
quả đất với các thiên thể, giữa thực vật và động vật, giữa các giống loài khác
nhau, giữa giới vô sinh và hữu sinh.
Sự phát triển của khoa học hiện đại tiếp tục chứng minh nguyên lý về sự
thống nhất của vật chất của thế giới bằng những thành tựu mới.


-Vật lý học đã đi sâu vào thế giới vi mô, nghiên cứu cấu trúc phức tạp và
chuyển hóa lẫn nhau của các hạt cơ bản. Những thành tựu của khoa học vũ trụ
đã cho phép xác định sự giống nhau về thành phần hóa học của các thiên thể
khác nhau, cũng như những quy luật hoạt động và tiến hóa của chúng.
-Những thành tựu to lớn của hóa học cho phép tạo ra nhiều vật liệu tổng
hợp mới và các sản phẩm khác nhau mà trước đây chưa gặp trong tự nhiên lại
càng làm củng cố niềm tin con người vào sự thống nhất vật chất của thế giới.
-Góp phần vào việc luận chứng vấn đề này còn có những nghiên cứu về
sự sống ở trình độ phân tử, sự phát triển di truyền học, những nghiên cứu về cấu
trúc của bộ não người và nghiên cứu những phương pháp điều khiển hoạt động
tâm lý của con người, sự phát triển mạnh mẽ của điều khiển học và việc chế tạo
ra các máy tính điện tử.
Tất cả những thành tựu đó làm sâu sắc thêm nhận thức của chúng ta về
thành phần, về kết cấu của thế giới vật chất, về những đặc điểm hoạt động và
phát triển của nó trên các trình độ tổ chức khác nhau của vật chất.
Khoa học hiện đại đã đi sâu nghiên cứu cấu tạo của vật chất. Dựa vào

những dấu hiệu chung về tổ chức của các hệ thống vật chất (bao gồm các yếu tố
và kết cấu của nó), người ta chia ra các trình đọ tổ chức vật chất hay các dạng
vật chất khác nhau.
Trong giới tự nhiên vô sinh, có hai dạng vật chất cơ bản là chất và trường.
Chất là cái gián đoạn, được tạo ra từ các hạt, có khối lượng (m), có cấu trúc thứ
bậc bắt đầu từ nguyên tử và cuối cùng là các thiên thể cực kỳ lớn. Nguyên tử có
kết cấu phức tạp; nó gồm các hạt cơ bản: proton, notron tạo thành hạt nhân, còn
các electron quay quanh hạt nhân với tốc độ lớn. Ngày nay, khoa học đã biết
đến các hạt cơ bản khác: các mezon, hyperon và notrino...; chúng tồn tại cả
trong nguyên tử, cả trong trạng thái plasma (.....) tự do, chẳng hạn trong các tia
vũ trụ. Khoa học cũng đã phát hiện ra các phản hạt: poditron, phản proton ... có
điện tích trái dấu. Các hạt cơ bản (bao gồm cả proton) đều có thuộc tính sóng –
hạt, chúng vừa liên tục vừa gián đoạn (vừa là sóng, vừa là hạt), vừa có cả khối
lượng vừa có cả diện tích xác định. Trường (như trường hấp dẫn, trường điện từ,
trường hạt nhân ...) là môi trường vật chất liên tục, không có khối lượng tĩnh
(m0). Trường làm cho các hạt liên kết với nhau, tác động với nhau và nhờ đó
mới tồn tại được.Tuy nhiên, ranh giới giữa vật chất và trường cũng là tương đối;
chất và trường có thể chuyển hóa lẫn nhau. Sự phát hiện ra dạng chất và dạng
trường của vật chất và sự chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng càng chứng tỏ rằng,
hoàn toàn không có không gian không có vật chất; không có vật chất dưới dạng
này thì lại có vật chất dưới dạng khác. Không thể không có thế giới không có
vật chất nằm bên cạnh thế giới vật chất. Và cũng không thể hình dung thế giới
vật chất chỉ có quả đất, hệ mặt trời của chúng ta hay một số thiên hà, mà phải là
toàn bộ các trình độ tổ chức vật chất từ các hệ thống thiên hà: các thiên hà – các


hệ thống hành tinh – các hành tinh đến các vật thể vi mô: các phân tử - các
nguyên tử - các hạt cơ bản – chân không vật lý.
Trong giới tự nhiên hữu sinh, có các trình độ tổ chức vật chất là: sinh
quyển – sinh khu – quần thể - cơ thể đa bào – tế bào – tiền tế bào; các axit

nucleich (ADN và ARN) và chất đản bạch. Sự phát triển của sinh học hiện đại
đã tìm ra được nhiều mắt khâu trung gian chuyển hóa giữa các trình độ tổ chức
vật chất, cho phép nối liền vô cơ, hữu cơ và sự sống. Vật chất sống bắt nguồn từ
vật chất không sống. Thực vật, động vật và cơ thể con người có sự giống nhau
về thành phần vô cơ, cấu trúc và phân hóa tế bào, vè cơ chế di truyền sự sống ...


×