Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

cơ sở hình thành tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.34 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTTKT & TMĐT

BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI:
NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LIÊN HỆ VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN
HIỆN NAY

NHÓM 1
HỌC PHẦN

: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LỚP HỌC PHẦN

: 1970HCMI0111

THẦY HƯỚNG DẪN : PHẠM NGỌC PHƯƠNG
NHÓM TRƯỞNG

: PHẠM THỊ ANH

Hà Nội, ngày 5 tháng 11 năm 2019


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................3
PHẦN I: NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


.................................................................................................................................. 4
1.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh...............................4
1.2.Vai trò của đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự tồn tại và phát triển
của xã hội..............................................................................................................4
1.2.1.Vai trò giáo dục đạo đức lối sống cho mỗi cá nhân...................................4
1.2.2.Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để đội ngũ cán bộ, đảng viên tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức..................................................................................5
1.2.3.Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở những chuẩn mực đạo đức cơ
bản của con người Việt Nam hiện tại và tương lai.............................................6
1.2.4.Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng những nguyên tắc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người Việt Nam hiện đại.........................7
1.3. Nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tường Hồ Chí Minh.....................8
1.4.Phân tích những chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.................11
1.4.1. Trung với nước, hiều với dân.................................................................11
1.4.2. Yêu thương con người, sống có nghĩa có tình.......................................12
1.4.3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư..................................................13
1.4.4. Tinh thần quốc tế trong sáng..................................................................15
PHẦN II. LIÊN HỆ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN THEO
NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH..............16
2.1.Một số nét khái quát về đạo đức và lối sống của sinh viên hiện nay.............16
2.2.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đạo đức, lối sống của sinh
viên...................................................................................................................... 18

1


LỜI MỞ ĐẦU

Là một người dân Việt Nam thì không ai là không biết đến Hồ Chí Minh-Vị
lãnh tụ vĩ đại đã trở thành một huyền thoại của sử sách dân tộc Việt Nam.

Người không chỉ là một lãnh tụ vĩ đại mà còn là một tấm gương sáng ngời cho
dân tộc ta noi theo trong nhiều lĩnh vực và một trong số đó chính là tư tưởng, đạo
đức của người.
Người là một tấm gương sáng trong cả tư tưởng đạo đức lẫn việc thực hành
đạo đức trong đời sống của mình. Tư tưởng đạo đức của người đã đạt tới sự liên kết,
thống nhất một cách chặt chẽ giữa nói và làm, giữa công và tư, giữa đạo đức cách
mạng và đạo đức đời thường. Cho dù Người đã đi xa nhưng những gì mà người đã
đóng góp cho nền tư tưởng, lý luân, đạo đức việt nam nói riêng và thế giới nói
chung sẽ còn trường tồn mãi mãi mới thời gian và được mọi thế hệ duy trì học tập
và phát huy từ nay cho đến mãi về sau.
Đạo đức là một nhân tố không thể thiếu trong hệ thống các động lực phát triển
của xã hội. Giới trẻ nói chung và sinh viên chúng ta nói riêng được sinh ra và lớn
lên trong thời kì xã hội đổi mới và biến động không ngừng về cả vật chất lẫn tinh
thần. Điều này vừa có tác động tích cực lẫn tiêu cực tới chúng ta. Chính vì vậy,
chúng ta tích cực học tập và rèn luyện theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh để có thể
trở thành một con người có ích cho gia đình xã hội và chính bản thân mình.

2


LỜI CẢM ƠN
Những chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là một đề tài khó
mà chúng ta không bao giờ có thể hiểu hết được. Tuy nhiên dưới sự nỗ lực học tập
và nghiên cứu của cả nhóm, chúng em cuối cùng cũng hoàn thành bài thảo luận đề
tài “Những chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn. Liên hệ với việc
xây dựng đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay”.

Xin chân thành cảm ơn tất cả các thành viên nhóm 1 đã nỗ lực học tập không
ngừng nghỉ để hoàn thành bài thảo luận này. Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy
Phạm Ngọc Phương đã hướng dẫn, chỉ bảo và dạy cho chúng em các kiến thức một

cách tận tình để chúng em có thể hoàn thành bài thảo luận một cách tốt nhất...

Mặc dù cả nhóm đã nỗ lực không ngừng để đạt kết quả cao nhất nhưng không
thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Chúng em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy cô và các bạn để có
thể khiến cho bài thảo luận của nhóm trở nên hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!
Nhóm 1

3


PHẦN I: NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC THEO TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Đạo đức được hiểu “Là hệ thống các
quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân
tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những
tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà
Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách
và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và
toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm

chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn
luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
1.2.Vai trò của đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự tồn tại và phát
triển của xã hội
1.2.1.Vai trò giáo dục đạo đức lối sống cho mỗi cá nhân
Giáo dục đạo đức, lối sống góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị đạo đức
mà các thế hệ trước đã tạo dựng; đồng thời góp phần tích cực trong việc giáo dục
hình thành những giá trị đạo đức, lối sống mới, khắc phục những quan điểm lạc
hậu, sự lệch chuẩn các giá trị đạo đức truyền thống, những thói hư tật xấu hay
những hiện tượng phi đạo đức. Trên cơ sở đó giúp con nguời nhận ra giá trị của các
giá trị đạo đức, nhận thấy giá trị và ý nghĩa cuộc sống mang tính nhân bản, nhân ái,
nhân văn sâu sắc, góp phần nhân đạo hóa con người và đời sống xã hội. Trong chiến

4


luợc phát triển con người, Đảng và Nhà nước ta đề cao vai trò giáo dục đạo đức, lối
sống cho cho học sinh, sinh viên - những chủ nhân tương lai của đất nước.
Giáo dục đạo đức, lối sống có vai trò rất lớn trong việc hình thành ý thức, tình
cảm cũng như các hành vi đạo đức của con người nói chung, của học sinh, sinh viên
nói riêng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, trước nhiều biến động phức tạp của đạo
đức xã hội; trước những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận
thanh thiếu niên thì công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên càng
trở nên quan trọng.
1.2.2.Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để đội ngũ cán bộ, đảng viên tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức
Hiện nay, trong xã hội đang tồn tại tình trạng một bộ phận dân cư xem nhẹ các
giá trị đạo đức, chạy theo tiền tài, địa vị, bất chấp đạo lý, coi thường pháp luật và
tình nghĩa con người. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng này là trong một
thời gian dài, đứng trước những khó khăn về kinh tế - xã hội, chúng ta đã tập trung

nhiều cho phát triển kinh tế, trong khi đó nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của
đạo đức trong đời sống xã hội. Một xã hội Việt Nam phát triển trong tương lai chắc
chắn không thể để tình trạng đó tiếp tục diễn ra. Với ý nghĩa là nền tảng tư tưởng
cho việc xây dựng nền đạo đức mới, thực hành theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
thực sự là giải pháp quan trọng nhất, giúp xác lập lại vị trí, vai trò của đạo đức - yếu
tố gốc rễ, nền tảng tinh thần của mỗi con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là gốc của mỗi người, trước hết là
các cán bộ, đảng viên, khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của
con người, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Đạo đức cách mạng giúp người cách mạng đứng vững trong mọi hoàn cảnh, dù
khó khăn hay thuận lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: có đạo đức cách mạng thì khi
gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước..., khi gặp thuận
5


lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Đó là đạo đức cách mạng, là đạo
đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Trong di chúc, Người căn dặn: “mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
1.2.3.Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở những chuẩn mực đạo đức cơ
bản của con người Việt Nam hiện tại và tương lai
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước
hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người vừa có đức,

vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Riêng về khía cạnh đạo đức, đó trước hết là
những người có tinh thần yêu nước, thương dân, đặt lợi ích của đất nước, của dân
tộc lên trên hết. Đó là những người luôn luôn gắn bó với nhân dân, yêu thương,
kính trọng nhân dân và do đó được nhân dân yêu mến, quý trọng, được dân tin, dân
phục, dân yêu. Đó phải là những con người có ý thức trách nhiệm với công việc, có
tinh thần lao động siêng năng, cần cù, lao động với năng suất và chất lượng cao, tạo
ra nhiều của cải cho xã hội. Đó đồng thời phải là những con người có tinh thần tiết
kiệm, biết tiết kiệm sức người, sức của, tiết kiệm thời gian cho đất nước và nhân
dân.
Sự phát triển đất nước hiện nay đòi hỏi những con người trong xã hội, trước hết
là cán bộ nắm giữ các cương vị trong hệ thống chính trị, phải là những người không
để các căn bệnh tiêu cực, như quan liêu, tham nhũng... xâm nhập, khống chế, đồng
thời dám đấu tranh chống các căn bệnh, tiêu cực đó. Đó là những chuẩn mực đạo
đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng chỉ ra và quan trọng hơn là nêu gương
thực hành trong thực tiễn đời sống. Sinh thời, Người đã làm cuộc cách mạng về đạo
đức khi sử dụng những khái niệm trong Nho giáo truyền thống nhưng với những nội
hàm mới.

6


Trước hết là phẩm chất “Trung với nước”, “Hiếu với dân”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ, người cách mạng phải đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết và trước
hết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng hết sức coi trọng phẩm chất: cần, kiệm, liêm,

chính, chí công, vô tư. Người chỉ ra rằng cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của “đời
sống mới”, nền tảng của thi đua ái quốc; là chuẩn mực đạo đức cần phải có của con
người, là tiêu chí xác định “chất người” của mỗi người, bởi “Thiếu một đức, thì

không thành người”. Cần, kiệm, liêm, chính gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung cho
nhau trong một chỉnh thể thống nhất, không thể thiếu một yếu tố nào. Thực hiện
được cần, kiệm, liêm, chính, thì sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư, biết đặt lợi ích
chung lên trên lợi ích riêng, lo lắng trước mọi người, hưởng thụ sau mọi người.
Người nhắc nhở: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc”, “khi
làm bất kỳ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến
toàn dân đã. Ta có câu nói: “Có khó nhọc thì mình nên đi trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau”; làm việc gì mình cũng nghĩ đến lợi ích chung trước và lợi ích
riêng sau”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn quan tâm, chú trọng đến các chuẩn mực đạo đức
khác là tình thương yêu con người và tinh thần quốc tế trong sáng trên lập trường
của giai cấp công nhân. Đó không dừng lại ở lòng trắc ẩn, mà còn được nâng lên ở
tầm cao, gắn tình yêu thương với khát vọng giải phóng con người không phân biệt
màu da, chủng tộc, giai cấp, tôn giáo khỏi những áp bức, bất công. Tình yêu thương
con người ở Người vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia, dân tộc, đến với nhân loại
tiến bộ và thu hút sự ngưỡng mộ, cảm phục của nhân loại tiến bộ.
1.2.4.Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng những nguyên tắc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người Việt Nam hiện đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho chúng ta những nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi con người, Người đã nêu gương
thực hành những nguyên tắc đó trong quá trình chỉ đạo xây dựng nền văn hóa mới,
nền đạo đức mới của Việt Nam. Đó là các nguyên tắc “nói đi đôi với làm, phải nêu
gương đạo đức; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời”.

7


Người từng sớm khẳng định từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX rằng: “Nói
chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm
gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Người cũng

thẳng thắn nhắc nhở các cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta
cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước”. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên
một nền tảng rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức mới trở thành
hành vi đạo đức hằng ngày của toàn xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng.
Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Để xây dựng một nền
đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây phải đi đôi với
chống, chống nhằm mục đích xây; phải bằng nhiều biện pháp kết hợp cả giáo dục,
phê phán và trừng trị bằng pháp luật; phải kết hợp giữa quét sạch chủ nghĩa cá nhân
và nâng cao đạo đức cách mạng...
Đồng thời, Người cũng nhắc nhở hết sức sâu sắc: “Đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển
và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo
đức không phải là cái nhất thành bất biến, không phải là điểm đến, chỉ cần phấn đấu
vươn tới một lần là xong xuôi, mà là quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời. Một
nền đạo đức mới chỉ có thể xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của
mỗi người.
1.3. Nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tường Hồ Chí Minh
1- Nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình,Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương
sáng về đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người làm mà
không nói, phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người mới thấy được bản
chất sâu xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
8


Trong cuốn đường kách mệnh, khi nói về tư cách người cách mệnh Hồ Chí

Minh viết: "Nói thì phải làm" "Có lòng bày vẽ cho người" hay trong tác phẩm nâng
cao đạo đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng
cần thực hiện "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau" .
Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc biệt
trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Những tấm gương về đạo đức phải được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp,
có tấm gương chung và riêng, lớn nhỏ, xa gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây
dựng trên một nền rộng lớn, vững chắc, những phẩm chất chuẩn mực đạo đức đã trở
thành hành vi đạo đức hàng ngày phổ biến trong toàn xã hội mà những tấm gương
đạo đức của những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy
cho quá trình đó.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho
các thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh hùng, chiến
sỹ thi đua nhứng tấm gương của những người tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp,
những tấm gương "Người tốt việc tốt" rất gần gũi trong đời thường có ở mọi lúc
mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã
nói: "Người tốt, việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương
nào, lứa tuổi nào cũng có" .
2- Xây đi đôi với chống
Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi đạo
đức luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa
phải chống cái phi đạo đức.
Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ Chí
Minh căn dặn toàn Đảng: "Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao
đạo đức cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và
kỷ luật”.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia đình, nhà trường, xã hội nhất là
9



trong những tập thể gắn với hoạt động mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm "Sung sướng vẻ
vang nhất trong đời này" tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không
thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người còn quan
trọng hơn nhiều đó cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh nói về niềm vui của việc
trau dồi đạo đức phải trở thành phổ biến trong xã hội.
Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại cái
xấu, cái sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.Để xây và chống có kết quả
để tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Muốn xây dựng đạo đức mới, chung
quy lại phải chống cho được chủ nghĩa cá nhân.
3- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Theo Hồ Chí Minh, Người đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường
xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày đấy cũng là công việc
phải kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Theo
Người: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong".
Nếu thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có công với cách
mạng, nhưng đến khi an nhàn lại xa vào chủ nghĩa cán nhân trở thành con người
ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Cũng chính vì lẽ đó mà tu dưỡng đạo đức
phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh, có như vậy mới
phân biệt được đạo đức mới khác với đạo đức cũ.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn
đề là không tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để
phát huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu dưỡng rèn luyện phải
được thực hiện trong hoạt động thực tiễn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức luôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết
sức sâu sắc, là động lực, là sức mạnh thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt
77 năm qua và đang tiếp tục toả sáng trên con đường xây dựng đất nước Việt nam

trong giai đoạn mới. Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy, việc vận dụng tư tưởng,
10


đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết, là công việc quan trọng để
mỗi chúng ta góp sức mình vào việc xây dựng đất nước.
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần gắn việc học tập với giải quyết
những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong các cơ quan, đơn vị, nhằm phê phán những
biểu hiện tiêu cực đang diễn ra giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, giác
ngộ trước những lỗi lầm sai phạm, tự giác thực hành sửa chữa, đồng thời phát hiện
những nhân tố mới, những điển hình người tốt, việc tốt, những tấm gương sáng tiêu
biểu để nhân rộng, tạo nên một phong trào sống chiến đấu, lao động và học tập theo
đạo đức Hồ Chí Minh mang đầy đủ ý nghĩa thực tiễn và có sức thuyết phục.
1.4.Phân tích những chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1.4.1. Trung với nước, hiều với dân
Về phẩm chất đạo đức thì trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức cơ
bản nhất, quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái nhiệm đã có trong tư tuởng đạo đức truyền thống
Việt Nam và phương Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào nội dung
mới. Trước kia trung là trung quân, là trung thành với vua; trung thành với vua cũng
có nghĩa là trung thành với nước vì vua với nước là một, vua là nước, nước là nước
của vua. Còn hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình, là con cái phải hiếu thảo
với cha mẹ.
Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa
giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc mà còn vượt qua những hạn
chế của truyền thống đó.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung chủ yếu của Trung với nước là trung
thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân
lại là chủ nhân đất nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “bao nhiêu quyền hạn đều
của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở

nơi dân”, Đảng và Chính phủ là “đày tớ nhân dân” chứ không phải “quan nhân dân
để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”; thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so
với trước. Có thể nói rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy. Cụ thể hơn,
Trung với nước là:
11


-

Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích
của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.

-

Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.

-

Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Còn Hiếu với dân, có nghĩa là không chỉ hiếu thảo với cha mẹ mình, mà còn

phải hiếu thảo với cha mẹ của người khác, hiếu thảo với nhân dân, gắn bó với nhân
dân; bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, bao nhiêu lợi ich đều là vì dân, bao nhiêu
lực lượng đều là ở dân. Theo Hồ Chí Minh lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu
rõ dân tâm, lại phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao
dân trí để nhân dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người làm chủ đất nước,
quyền thì hưởng, còn trách nhiệm thì phải làm tròn. Có được cái đức ấy thì người
cách mạng, người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ
tạo được sức mạnh to lớn cho cách mạng.
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ

quốc, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng
chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh
cách mạng trước mắt mà còn lâu dài về sau.
1.4.2. Yêu thương con người, sống có nghĩa có tình
Đây là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Phẩm chất đó là sự kế
thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghiã nhân đạo cộng sản,
tinh thần nhân văn của nhân loại, cùng với sự thể nghiệm của Hồ Chí Minh qua
hoạt động cách mạng thực tiễn. Nói về tình yêu thương con người theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, cần phân tích ở những luận điểm sau:
-

Tình yêu thương là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người
cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột, không phân biệt màu da,
dân tộc,…Tình yêu thương đó đã được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng một ham
muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Nếu không có tình yêu thương con
12


người như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
-

Xuất phát điểm từ tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh vừa sâu xa, vừa
rất cụ thể và gần gũi. Tình yêu ấy còn được thể hiện trong các mối quan hệ bạn
bè, đồng chí với mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày. Nó đòi hỏi
mọi nguời phải luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với
người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải biết nâng người khác
lên, chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người.


-

Tình yêu thương con người theo Hồ Chí Minh còn thể hiện đối với những
người có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, kể cả đối
với những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả đối với những kẻ thù đã bị
thương, bị bắt hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu đó đã đánh thức những gì
tốt đẹp mà Hồ Chí Minh tin rằng trong mỗi người đều có.

-

Nhưng điểm nổi bật nhất trong tình thương yêu con người của Hồ Chí Minh
đó là thương yêu nhân dân. Người quan tâm tới mọi đối tượng từ các cụ già, bộ
đội, phụ nữ, thanh niên, đến các cháu thiếu niên nhi đồng,..
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp

hơn. Tuy nhiên, những tình yêu thương đó phải được dựa trên nguyên tắc tự phê
bình và phê bình một cách chân thành và nghiêm túc. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ
dĩ hòa vi quý, bao che sao lầm, khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ “yêu
nên tốt, ghét nên xấu”, bè cánh của bộ phận thoái hóa, biến chất có thể đưa đến
những tổn thất cho Đảng, cho cách mạng.
1.4.3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí
Minh là mối quan hệ “với tự mình”. Đây là nét đặc trưng của đạo đức cách mạng
theo quan điểm của Người, một phẩm chất đạo đức trung tâm, gắn liền với hoạt
động hàng ngày của mỗi người.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là những khái niệm đạo đức truyền
thống được Hồ Chí Minh cải biến, đưa vào những nội dung và yêu cầu mới. Các
13



phạm trù đạo đức đó đã được Hồ Chí Minh giải thích rất rõ rất cụ thể và dễ hiểu với
mọi người.
- Cần là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao
động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của
mỗi chúng ta”
-

Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của

nước, của bản thân mình, từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí,
không bừa bãi, không phô trương, hình thức…”
-

Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không xâm phạm

một đồng xu, một hạt thóc của Nhà nước của nhân dân”. Phải “trong sạch, không
tham lam”. “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ
hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Người đã chỉ ra
những hành vi trái với chữ liêm như: cậy quyền thế, dìm người giỏi, sợ khó nhọc,
không dám đánh…
-

Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn.
Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, luôn tự kiểm điểm

để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh nọt người trên, không xem khinh người dưới; luôn

giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà; không dối trá lừa lọc.
Đối với việc: để công việc lên trên việc nhà. Đã phụ trách công việc gì thì quyết
làm cho kì được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn nguy hiểm, việc thiện
dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh.
- Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc, phải lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, khi làm bất cứ việc gì cũng phải nghĩ đến mình
trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau. Đối lập với chí công vô tư là “dĩ công vô
tư”, đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống lại.
14


Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Có khi,
Người coi cần, kiệm như hai chân của con người phải đi đôi với nhau: Cần mà
không kiệm thì chẳng khác nào “gió vào nhà trống”, “nước đổ vào chiếc thùng
không đáy”, “làm chừng nào, xào chừng đấy”, rốt cuộc “không lại hoàn không. Còn
kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng, không có tăng thêm, không
có phát triển. Có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức chủ yếu của một
con người, nhất là đối với cán bộ Đảng viên. Nó có quan hệ mật thiết với nhau như
bốn mùa của trời, như bốn phương của đất, thiếu một mùa thì không thành trời,
thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một đức thì không thành người..
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm con người
ta vững vàng trước mọi thử thách “giàu sang không thể quyến rũ; nghèo khó không
thể chuyển lay; uy vũ không thể khuất phục”. Nhưng đây lại la vấn đề phức tạp, nói
dễ làm khó. Bởi vì nó đụng chạm đến nhiều mặt lợi ích cá nhân, tập trung nhất vào
chức, quyền, danh, lợi mà nếu không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân thì bất cứ ai
cũng có thể sa vào những hành vi vô đạo đức.
1.4.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Đây là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn,
vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc.
Đó là tinh thần “tứ hải giai huynh đệ” mà Người đã tiếp thu được của Nho giáo

và đã cải biến bằng mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em”
Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với các dân tộc bị áp bức, với
nhân dân lao động các nước, với những người tiến bộ, yêu chuộng hòa bình công lí
trên thế giới nhằm mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng là tinh thần “giúp bạn là tự
giúp mình”, nó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa Sô vanh hay chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi. Và sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản chính là
chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Tinh thần quốc tế
trong sáng là một phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ
15


rộng lớn, vượt qua khuôn khổ của quốc gia dân tộc. Không phải bất cứ ai, bất cứ lúc
nào cũng nhận thấy tinh thần đó, nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện
của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ. Nếu coi nhẹ tinh
thần quốc tế sẽ dẫn đến đổ vỡ quốc gia dân tộc, liên bang, phá vỡ tình đoàn kết
quốc tế, thậm chí đưa đến tình trạng đối địch, đối đầu.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế trong sáng là sự mở
rộng quan hệ đạo đức giữa người với nguời và với toàn nhân loại vì Người không
chỉ là “người Việt Nam nhất” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định mà
còn là “nhà văn hóa lớn của thế giới”, “chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản
quốc tế”.

PHẦN II. LIÊN HỆ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG CỦA
SINH VIÊN THEO NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1.

Một số nét khái quát về đạo đức và lối sống của sinh viên hiện

nay.

Giới trẻ, trong đó có sinh viên – đối tượng sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi
mới với những biến đổi vô cùng nhanh chóng, cả về đời sống vật chất lẫn đời sống
tinh thần xã hội, đang là đối tượng nhạy cảm nhất trước những biến chuyển của
kinh tế - xã hội. Sự thay đổi của đời sống vừa có tác động tích cực, vừa có tác động
tiêu cực đến đạo đức sinh viên hiện nay.
Sinh viên hiện nay, nổi bật lên khả năng tự ý thức cá nhân và ít chịu ảnh
hưởng bởi dư luận như trước, tạo điều kiện phát huy sức sáng tạo cá nhân, chủ động
và nhanh chóng tiếp cận với những cái mới trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ,
chịu khó học hỏi kiến thức phục vụ cho nghề nghiệp và công việc. Làm được điều
đó một cách triệt để nhất, rõ ràng nhất, không ai khác ngoài sinh viên – đối tượng
trẻ có tri thức, lớn lên trong môi trường mới, đi đầu tiếp thu cái mới, chấp nhận
những giá trị mới trong một môi trường năng động và thay đổi liên tục.

16


Bên cạnh đặc điểm cơ bản là dễ dàng tiếp thu cái mới, sinh viên hôm nay còn
được trang bị ngoại ngữ, tin học, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin hiện
đại và việc mở rộng, đa dạng hóa tiến trình giao lưu quốc tế,… điều này mở ra được
một dòng chảy mới trong quá trình hội nhập, là thước đo của tính đúng đắn và bền
vững. Các quan niệm đạo đức của mỗi cộng đồng, bên cạnh cái riêng của mình,
đang xuất hiện những cái chung hòa nhập cùng thế giới, mở ra những cơ hội giao
lưu, học hỏi. Có thể dự đoán về xu hướng đạo đức được quốc tế hóa, vừa trên cơ sở
thống nhất những quy tắc đạo đức chung của con người, vừa giữ được truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Những quan niệm về tốt, xấu, công bằng, bình đẳng … cũng
đang có sự dịch chuyển nhất định. Những dịch chuyển này tạo ra một sự giải phóng
về mặt tư tưởng quan niệm, hướng sinh viên đến sự chuẩn bị cho những hành động
có tính hiệu quả sau này. Những quy tắc ứng xử vì thế cũng biến đổi, sự điều chỉnh

hành động tuân theo nguyên tắc thiết thực, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu mới của
thời đại công nghiệp. Những rào cản đạo đức nào không phù hợp trong việc điều
chỉnh hành vi sẽ bị vượt qua, thể hiện khá rõ nét ở sinh viên.
Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện cá nhân thực dụng trong quan niệm
đạo đức và hành vi ứng xử trong một bộ phận không nhỏ sinh viên hôm nay. Trào
lưu dân chủ hoá, làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý
thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt là sinh viên. Họ tự ý thức cao về bản thân mình
và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Cái cá nhân nhiều khi đã lấn át cái cộng đồng, lợi
ích cá nhân quan trọng hơn tất cả. Dần dần, nó hình thành một thái độ bàng quan
đối với những người xung quanh, cho dù các phong trào tình nguyện gần đây được
phát động khá rầm rộ trong sinh viên, nhằm giáo dục và tuyên truyền tinh thần vì
cộng đồng. Sự hy sinh và quan tâm đến người khác thấp đi, và nếu có thì thường
được đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ.
Tác động tiêu cực tiếp theo là cùng với sự du nhập lối sống và sản phẩm công
nghệ hiện đại từ các nước phát triển, đã dần dần làm không ít sinh viên xa rời các
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn vẫn luôn phù hợp với thời kỳ hiện đại. Hình
thành tư tưởng hưởng thụ ăn chơi đua đòi, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo
đức và lối sống trong bối cảnh một nền kinh tế - xã hội mở cửa. Các quan niệm đạo
đức trong một bộ phận sinh viên đang bị lệch chuẩn, đặc biệt là ở quan niệm cho
17


rằng đạo đức và lợi ích cá nhân là hoàn toàn đồng nhất mọi lúc mọi nơi. Sự dối lừa
được coi là một chuyện bình thường .Khi quan sát, có thể thấy một biểu hiện đáng
buồn là nhiều sinh viên không cho rằng việc sao chép tài liệu, ăn cắp ý tưởng trong
quá trình làm bài thi, viết tiểu luận và khoá luận là một hành vi phi đạo đức. Hiện
tượng mua bằng, bán điểm không còn là chuyện hiếm thấy. Điều đáng lo ngại là
nhiều sinh viên bộc lộ thái độ cho rằng đó là chuyện bình thường, không liên quan
đến đạo đức. Trong khi đó, ở các nước phát triển, lừa dối là hành vi bị lên án rất
mạnh trong môi trường học đường.

Cũng vậy, với sự phát triển của thông tin, được sự hỗ trợ của công nghệ cao đã
làm Internet trở nên phổ biến, nhiều bạn trẻ đã lên mạng sử dụng tiện ích chat như
một thú tiêu khiển hơn là phương tiện liên lạc. Bên cạnh những tiện ích như cung
cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời, rút ngắn khoảng cách giữa mọi người thì
Internet cũng đang là một nguyên nhân dẫn tới sự suy giảm đạo đức ở học sinh.
Những trang web cấm và nhất là game online đang kéo nhiều học sinh rời xa trường
học. Tình trạng học sinh trốn học chơi game ngày càng nhiều. Những trò chơi bạo
lực và cách giải quyết những vấn đề trong cuộc sống bằng đao, kiếm đã dần ngấm
vào các em từ thế giới ảo đã trở thành thế giới thực. Nhưng đó chưa phải là nguyên
nhân chính dẫn tới tình trạng suy giảm đạo đức học sinh như hiện nay. Vậy nguyên
nhân chủ yếu xuất phát từ đâu? Dưới tác động của nền kinh tế thị trường và cơ chế
mở cửa và do nhiều nguyên nhân khác, hành vi lệch chuẩn của thanh thiếu niên có
xu hướng ngày càng tăng. Những phẩm chất xấu ấy là kết quả sự giáo dục không
đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Việc giáo dục đạo đức trong nhà
trường thường chú trọng tới nề nếp kỷ cương với nội quy, những bài học giáo huấn,
không chú ý đến hành vi ứng xử thực tế. Trong những năm vừa qua, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đang đẩy mạnh chương trình “giáo dục toàn diện”. “Giáo dục toàn diện”
không chỉ đơn thuần là cung cấp cho học sinh một cách đầy đủ tri thức mọi mặt
trong cuộc sống mà quan trọng hơn là phải giáo dục nhân cách cho các em. Có lẽ
trong những năm vừa qua chúng ta chỉ chú trọng vào giáo dục kiến thức cho các em
mà coi nhẹ giáo dục đạo đức.

18


2.2.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đạo đức, lối
sống của sinh viên


Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, trước những ảnh hưởng ngày càng to lớn
của nền kinh tế thị trường và xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá, bên cạnh những
tác động tích cực thì cũng có không ít những tác động tiêu cực đến một bộ phận
không nhỏ thanh niên như đã nêu ở trên. Vì vậy, hiện nay những tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên ngày
càng trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Từ lý luận và thực tiễn cuộc đời cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho chúng ta thấy rằng không ở lĩnh vực nào mà vấn đề
nêu gương lại được đặt ra như trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình thì đó là tấm
gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với những người em; trong nhà
trường thì đó là tấm gương của thấy cô đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể,
Đảng, Nhà nước là tấm gương của những người phụ trách, lãnh đạo, của cấp trên
đối với cấp dưới; trong xã hội thì đó là tấm gương của người này đối với người
khác, những gương “người tốt việc tốt” mà Hồ Chí Minh đã phát hiện để mọi người
học tập noi theo. Một trăm bài diễn văn hay không bằng tấm gương sống - điều mà
Hồ Chí Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một nguyên
tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều chúng ta thấy ở Hồ Chí
Minh - một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời của một cuộc đời trọn vẹn.
Hiện nay, công tác phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội trong việc nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên đã đạt được những kết quả nhất định,
phát huy được sức mạnh tổng hợp và huy động được các nguồn lực trong xã hội
tham gia ngày càng tích cực vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan, công tác phối hợp còn nhiều hạn chế, chưa
đáp ứng kịp với nhu cầu về chất lượng và số lượng nguồn nhân lực của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn
đến hiện tượng một số trẻ em chưa được hưởng điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc và
giáo dục tốt nhất; vẫn tồn tại một bộ phận học sinh, sinh viên có biểu hiện vi phạm
về đạo đức, có lối sống hưởng thụ, vướng vào các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp
luật Phân tích việc xây dựng đạo đức ở trong gia đình mỗi sinh viên Gia đình là nơi
con người sinh ra và lớn lên, là tế bào của xã hội.
19



Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Nhiều gia đình cộng
lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
Hạt nhân của xã hội là gia đình” Gia đình không những là môi trường đầu tiên mà
còn là môi trường quan trọng trong việc giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách
cho mỗi con người. Nói cách khác, gia đình là môi trường không thể thiếu và cũng
không thể thay thế được đối với sự phát triển của mỗi con người. Bởi, “gia đình là
trường học đầu tiên” trước khi con người đến với trường đời. Ai cũng biết, ngay từ
đầu, sự phát triển của mỗi chúng ta đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của giáo dục đạo đức
gia đình, của “nếp nhà”, của “gia phong”. Cho nên, gia đình là môi trường quan
trọng bậc nhất trong giáo dục đạo đức. Bởi giáo dục gia đình là nền tảng có tác
động vô cùng to lớn đến sự phát triển của cá nhân và cả cộng đồng. Điều đó đã lý
giải vì sao Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc xây dựng gia đình văn hóa mới là một
trong những nội dung quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, phát triển con
người.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào
lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người. Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế
thị trường cùng với quá trình toàn cầu hóa đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự ổn định
và bền vững của gia đình. Để tồn tại và phát triển, đòi hỏi mỗi gia đình phải tìm
cách thích ứng, điều chỉnh các quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và ngoài
xã hội. Trên thực tế, nhiều gia đình không những vẫn giữ gìn được nền nếp gia
phong, làm tốt chức năng giáo dục con cái mà còn biết phát huy tính chủ động của
các thành viên trong việc phát triển kinh tế, góp phần vào sự phồn vinh của xã hội.
Những gia đình như vậy thực sự là những tổ ấm mang lại giá trị hạnh phúc cho con
người. Tuy nhiên, bên cạnh đó, đang có những biểu hiện của sự sút kém, đặc biệt là
“sự sút kém vai trò và hiệu quả của giáo dục gia đình, là một trong những lý do chủ
yếu dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội mà gia đình không ngăn chặn
được ngay từ đầu”.

Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng gia đình văn hóa luôn gắn liền
với tăng cường trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục đạo đức theo những
chuẩn mực tốt đẹp của dân tộc, để mỗi con người được lớn lên trong tình cảm, trong
20


sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Làm được như vậy, gia đình trở thành nơi có đủ
sức mạnh đề kháng, chống lại mọi sự ô nhiễm từ bên ngoài, ngăn chặn mọi tiêu cực
từ phía xã hội, giúp con người có khả năng phát triển tốt hơn.
Bên cạnh xây dựng đạo đức trong gia đình, giáo dục đạo đức trong nhà trường
không chỉ là sự tiếp tục của giáo dục gia đình mà còn là môi trường đào tạo cho con
người có trình độ năng lực, có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
nhằm phát triển toàn diện con người. Giáo dục đạo đức trong nhà trường nhà trường
là giáo dục có bài bản, có hệ thống và kết hợp với nhiều loại hình giáo dục khác.
Cho nên, xây dựng đạo đức trong nhà trường có một ý nghĩa quan trọng trong việc
hình thành ý thức và nhân cách đạo đức. Để đảm bảo hiệu quả cho công tác giáo
dục đạo đức trong nhà trường, đòi hỏi cần phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối
sống, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng cao ý thức trách nhiệm của học
sinh, sinh viên với bản thân, gia đình, trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương,
đất nước. Phải coi đạo đức học là một ngành khoa học thực sự và không thể thiếu
trong chương trình giáo dục và đào tạo. Trước đây, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng mong muốn: “Đạo đức học cần phải trở nên một ngành khoa học xã
hội mà những người có trách nhiệm phải đi sâu nghiên cứu chuyên cần hơn nữa. Nó
cũng phải trở thành một môn khoa học không thể thiếu được trong các trường đại
học và giáo dục phổ thông” Cuộc vận động học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh đang diễn ra trong các trường học là một bộ phận của phong trào thi đua Hai
Tốt nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Cuộc vận động này đã lấy những
điều đạo đức mà Hồ Chủ tịch đã căn dặn làm nội dung, đồng thời cũng lấy những
lời dạy của Người về công tác giáo dục đạo đức làm phương châm. Tinh thần của
phương châm giáo dục đạo đức là: tôn trọng nhân cách học sinh thông qua thuyết

phục và hoạt động, thống nhất các tác động giáo dục nhằm tạo ra mội trường thuận
lợi cho sự phát triển đạo đức mới. Đó cũng là những điểm mà chúng ta thấy rất rõ
qua những lời khuyên của Hồ Chủ tịch về việc dạy dỗ con em. Người dạy: “Thanh
niên phải chuyên tâm đi học và công tác, nhưng cũng cần có vui chơi; cần đi sâu
vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của các tầng lớp thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết
vấn đề một cách thiết thực”.

21


Trong những lực lượng xã hội có trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo viên và của cán bộ phụ trách Đoàn đội.
Người căn dạy: “Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng
quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học
trò với nhau”.
Cùng với giáo dục dạo đức trong gia đình và nhà trường, xây dượng đạo đức
ở môi trường xã hội là sự tiếp tục quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện ý
thức đạo đức và năng lực thực hiện hành vi đạo đức cho con người. Giáo dục đạo
đức xã hội là môi trường góp phần làm phong phú thêm cho những điều con người
học được trong gia đình và trong nhà trường. Môi trường xã hội là nơi diễn ra mọi
hoạt động đa dạng của con người, đồng thời cũng là nơi thử thách ý chí, bản lĩnh và
năng lưc thực hành đạo đức của từng cá nhân.
Quan trọng vẫn là ở bản thân mỗi sinh viên. Sinh viên hiện nay vẫn cần cố
gắng nhiều hơn nữa, nỗ lực hơn nữa để xứng đáng với niềm tin yêu của Bác. Và học
tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng là cách giúp chúng ta hoàn
thiện bản thân mình. Có nhiều cách để học tập, làm theo tấm gương của Bác, thực
hiện chính những lời dạy của Bác về thanh niên, sinh viên đã và đang rèn luyện
những phẩm chất đạo đức mà Bác đòi hỏi ở thế hệ tương lai của nước nhà.
Một là, phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng “trung với nước, hiếu với
dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng

đánh thắng”; không sợ gian khổ, hi sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh
dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp cách mạng.
Hai là, tin tưởng sâu sắc ở lực lượng và trí tuệ của tập thể, của nhân dân; tăng
cường đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau; nâng cao ý thức tổ chức và kỉ luật; kiên quyết
chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do.
Ba là, luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn và giản dị; chống kiêu
căng, tự mãn; chống lãng phí, xa hoa; thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm
chỉnh để giúp nhau cùng tiến bộ mãi.
Bốn là, ra sức nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kĩ thuật và quân
sự để cống hiến ngày càng nhiều hơn cho Tổ quốc, cho nhân dân.
22


Năm là, luôn luôn chú ý dìu dắt và giáo dục thiếu niên và nhi đồng, làm gương
tốt về mọi mặt cho đàn em noi theo.

23



×