Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 97 trang )

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

2016 - 2019

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
NGUYỄN THỊ THÙY LINH

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số



: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI ĐỨC HIỂN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Thùy Linh


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn của
tôi là Tiến sĩ Bùi Đức Hiển - người đã chỉ dẫn, giúp đỡ tôi tận tình để tôi hoàn thành
được công trình nghiên cứu này. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến toàn thể các
thầy, cô giáo Khoa đào tạo sau đại học Trường Đại học Mở Hà Nội đã giúp tôi hoàn
thành luận văn này. Sau cùng, tôi xin dành lời cảm ơn những người thân yêu trong

gia đình, các cô chú, anh chị đồng nghiệp trong cơ quan Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Cao Bằng và bạn bè đã luôn ủng hộ, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình làm luận văn. Công trình này là sản phẩm khoa học của tôi dưới sự dìu dắt của
thầy Bùi Đức Hiển, nhưng cũng là thành quả của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp
của tôi.
Một lần nữa, tôi xin được chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Thùy Linh


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1.

Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp quyền sử dụng đất


8
8

1.1.1. Khái niệm quyền sử dụng đất

8

1.1.2. Đặc điểm của quyền sử dụng đất

12

1.1.3. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp quyền sử dụng đất

13

1.2.

16

Thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất và vai
trò của Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất

16

1.2.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thủ tục giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
1.3.


18

Nội dung điều chỉnh pháp luật, các nguyên tắc và yêu cầu thực
hiện thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án
nhân dân

23

1.3.1. Nội dung điều chỉnh pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

23

1.3.2. Các nguyên tắc thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất tại Tòa án nhân dân

24

1.3.3. Các yêu cầu đặt ra trong việc quy định và thực hiện thủ tục giải
quyết quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
1.4.

26

Lược sử hình phát triển các quy định pháp luật về thủ tục giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

27

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

2.1.

31

Nội dung các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

31


2.1.1. Thủ tục hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất tiền tố tụng

31

2.1.2. Thủ tục thụ lý vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

33

2.1.3. Thủ tục chuẩn bị xét xử và hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất

34

2.1.4. Thủ tục xét xử sơ thẩm tranh chấp quyền sử dụng đất

42

2.1.5. Thủ tục xét xử phúc thẩm tranh chấp quyền sử dụng đất


45

2.2.

Đánh giá thực trạng, thực tiễn thực hiện thủ tục giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

48

2.2.1. Đánh giá thực trạng các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

48

2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất tại Tòa án nhân dân

58

2.2.3. Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

72

Chương 3: NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

3.1.


Nhu cầu hoàn thiện thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất tại Tòa án nhân dân

3.2.
3.3.

76
76

Các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

77

Các giải pháp khác

81

3.3.1. Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả xét xử của ngành Tòa án
nhân dân

81

3.3.2. Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả cơ chế phối hợp giữa Tòa án
nhân dân với các cơ quan có liên quan

82

KẾT LUẬN


84

TÀI LIỆU THAM KHẢO

86


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

NSDĐ

: Người sử dụng đất

QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

TAND

: Tòa án nhân dân


TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tranh chấp quyền sử dụng đất là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã
hội. Đặc biệt, khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đất đai trở thành
một loại hàng hóa đặc biệt có giá trị thì tranh chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) có
xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như mức độ phức tạp. Tình trạng
tranh chấp QSDĐ kéo dài với số lượng người dân khiếu kiện ngày càng đông là vấn
đề rất đáng được quan tâm. Tranh chấp QSDĐ phát sinh nhiều ảnh hưởng tiêu cực
đến nhiều mặt của đời sống xã hội như: Làm đình đốn sản xuất, tổn thương đến các
mối quan hệ trong cộng đồng dân cư, ảnh hưởng đến phong tục đạo đức tốt đẹp của
người Việt Nam, gây ra sự mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tranh chấp
QSDĐ kéo dài nếu không được giải quyết dứt điểm sẽ dễ dẫn đến "điểm nóng", bị
kẻ xấu lợi dụng, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước. Vì vậy, việc
nghiên cứu pháp luật về giải quyết tranh chấp QSDĐ là cần thiết trong giai đoạn
hiện nay. Đây cũng là vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành đặc
biệt quan tâm.
Kể từ khi Hiến pháp 1980 ra đời thì ở nước ta chỉ còn lại một hình thức sở
hữu đất đai duy nhất - đó là sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước là đại diện chủ sở
hữu. Nhìn chung, trong thời gian qua các quy định của pháp luật về đất đai đã từng
bước đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả điều chỉnh, bảo vệ có hiệu quả chế độ sở
hữu toàn dân đối với đất đai, góp phần đáng kể vào việc đưa công tác quản lý đất
đai vào nề nếp, khai thác đất đai ngày càng có hiệu quả và tiết kiệm hơn. Bộ luật
Dân sự (BLDS) năm 1995 đã bước đầu thiết lập cơ chế để giúp người sử dụng
đất (NSDĐ) thực hiện các quyền của mình. Luật Đất đai năm 2013 thay thế cho

Luật Đất đai năm 2003 và BLDS năm 2015 thay thế cho BLDS năm 2005 đã phần
nào giải quyết được những hạn chế trong việc đảm bảo thực hiện quyền của NSDĐ một trong những quyền cơ bản mang tính đặc thù được điều chỉnh bởi BLDS và
Luật Đất đai, góp phần ổn định trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy quá trình phát triển

1


kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDĐ. Mặc dù vậy, hiện nay
ở nước ta các văn bản pháp luật điều chỉnh việc tranh chấp QSDĐ và giải quyết
tranh chấp QSDĐ có nhiều nhưng chưa thực sự đồng bộ; nhiều quy định không phù
hợp với đời sống xã hội, có sự mâu thuẫn, chồng chéo nhau nhưng lại chậm được
sửa đổi bổ sung v.v... làm cho công tác giải quyết tranh chấp QSDĐ tại tòa án trong
thời gian qua gặp rất nhiều khó khăn và có phần kém hiệu quả.
Trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các tranh chấp
QSDĐ ở nước ta đang ngày càng gia tăng. Mỗi năm, Tòa án nhân dân (TAND) các
cấp thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ tranh chấp QSDĐ. Nhìn chung, ngành TAND
đã giải quyết thành công một số lượng lớn các vụ tranh chấp về đất đai, chất lượng
xét xử ngày càng cao, phần nào bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức xã hội và công dân. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng vì nhiều lý do khác
nhau, nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động giải quyết tranh chấp QSDĐ chưa thực sự đem
lại hiệu quả như mong muốn, trong đó có cả yếu tố khách quan như: Pháp luật chưa
thực sự đồng bộ; nhiều quy định không phù hợp với đời sống xã hội, có sự mâu
thuẫn, chồng chéo nhau nhưng lại chậm được sửa đổi bổ sung... và yếu tố chủ quan
như: Đội ngũ những người tiến hành tố tụng chưa thực sự nhận thức đầy đủ về tính
chất đặc thù của các vụ tranh chấp QSDĐ; chậm khắc phục các tồn tại, vướng mắc
trong quá trình giải quyết các vụ tranh chấp QSDĐ; trình độ chuyên môn của một
số thẩm phán còn hạn chế, v.v... Vì vậy, qua nghiên cứu tranh chấp QSDĐ và thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đất đai hiện hành để giải quyết các tranh
chấp về đất đai tại TAND nhằm phát hiện ra những hạn chế, thiếu sót, bất cập của
hệ thống pháp luật và từ đó đưa ra được những kiến nghị, các giải pháp giúp cơ

quan nhà nước có thẩm quyền có những điều chỉnh phù hợp, góp phần tiếp tục hoàn
thiện các văn bản pháp luật về đất đai cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của
đất nước trong điều kiện hội nhập hiện nay là việc làm mang ý nghĩa to lớn.
Xuất phát từ những căn cứ lý luận và thực tiễn trên thì việc nghiên cứu đề
tài "Thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân" là một
nhu cầu cấp bách trong tình hình hiện nay.

2


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và các bài viết liên quan
đến đề tài này dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau
và dẫn đến quan điểm khác nhau, kết quả nghiên cứu khác nhau tùy thuộc vào mục
đích nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề. Liên quan đến đề tài luận văn, có thể kể đến
một số công trình khoa học đã được công bố được sắp xếp theo các nhóm sau:
Những công trình mang tính gợi mở có thể kể đến là khóa luận tốt nghiệp
của Nguyễn Minh Khoa năm 2007 với đề tài "Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân theo khoản 1 Điều 36 Luật đất đai 2003"
hay "Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân thực trạng và giải pháp hoàn thiện" của Trịnh Thị Lệ Quyên (năm 2012). Nghiên
cứu ở phạm vi hẹp hơn là luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Hà (năm 2013)
"Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bằng con đường Tòa án ở quận Hà
Đông" khi nghiên cứu riêng về giải quyết tranh chấp QSDĐ tại TAND quận Hà
Đông hay "Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất qua thực tiễn ở Hà Nội" năm
2004 của Hồ Xuân Hương v.v...
Những công trình mang tính toàn diện về đề tài này có thể kể đến hai công
trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của TANDTC với đề tài "Cơ sở lý luận và thực
tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Tòa
án nhân dân" (năm 2012); luận án tiến sĩ của Mai Thị Tú Oanh (năm 2013) về "Tranh
chấp quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bằng Tòa án ở

nước ta" và sách chuyên khảo với tựa đề "Kỹ năng áp dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam" của Tiến sĩ Doãn Hồng Nhung chủ
biên (năm 2014) hay cuốn "Giao dịch về quyền sử dụng đất vô hiêu, pháp luật và
thực tiễn xét xử" của Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Minh Hằng (năm 2011) v.v...
Bên cạnh đó, cũng có các bài viết nghiên cứu về vấn đề này, như: "Về giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong những quy định của Luật đất đai" của
Thạc sĩ Nguyễn Thị Dung đăng trên Tạp chí Luật học, số chuyên đề về Luật đất đai
2003 xuất bản tháng 5/2004; bài viết "Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền

3


sử dụng đất của Tòa án" của Tiến sĩ Nguyễn Quang Tuyến đăng trên Tạp chí
TAND, số 14 tháng 7/2004; "Hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất" đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17/2006, của
tác giả Lưu Quốc Thái; bài "Luật đất đai (sửa đổi) cần mở rộng thẩm quyền của
Tòa án nhân dân trong giải quyết các tranh chấp về đất đai" của tác giả Nguyễn
Văn Thắng đăng trên tạp chí TAND, số 21 năm 2013 v.v...
Ngoài ra, nghiên cứu về chủ đề này còn có các báo cáo Hội thảo: "Tình
trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: thực trạng và giải pháp" tổ chức tại
Buôn Mê Thuột (năm 2008), các bài tham luận tại Hội nghị triển khai công tác
ngành TAND các năm 2013, 2014... cũng là những nguồn tài liệu đáng tin cậy và có
giá trị cao khi tác giả tiếp cận với vấn đề.
Các công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này đã phân tích làm sáng tỏ
những vấn đề sau:
Một là, các công trình, bài viết đã bước đầu phân tích làm rõ khái niệm, đặc
điểm của QSDĐ, tranh chấp QSDĐ, giải quyết tranh chấp QSDĐ;
Hai là, ở mức độ nhất định cũng đã đánh giá được thực trạng giải quyết
tranh chấp một số quyền của NSDĐ tại tòa án. Ví dụ: giải quyết tranh chuyển
nhượng QSDĐ, thừa kế QSDĐ…;

Ba là, một số công trình, bài viết cũng đưa ra quan điểm hoàn thiện một số
quy định pháp luật về vấn đề này ở các quyền cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên, liên quan đến chủ đề nghiên cứu của đề tài luận văn, các công
trình, bài viết nghiên cứu vẫn chưa đưa ra khái niệm hay tiêu chí đánh giá về thủ tục
giải quyết tranh chấp QSDĐ tại TAND một cách toàn diện dưới góc độ lý luận và
thực tiễn của vấn đề; chưa đánh giá được bao quát thực trạng thủ tục giải quyết
tranh chấp QSDĐ tại tòa án; chưa đưa ra các giải pháp mang tính toàn diện để nâng
cao hiệu quả thực hiện thủ tục về giải quyết tranh chấp QSDĐ. Mặt khác, trong bối
cảnh nền kinh tế - xã hội đang có những thay đổi liên tục và nhanh chóng thì các kết
quả mà giới khoa học pháp lý nước ta đã đạt được vẫn cần tiếp tục được nghiên
cứu, bổ sung và hoàn thiện.

4


Vì vậy, trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả cũng như thành công
của các công trình nói trên, đề tài này tập trung nghiên cứu một cách toàn diện cả về
lý luận và thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất tại TAND nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả
của công tác này; góp phần tháo gỡ một số vướng mắc hiện nay còn gặp phải trong
quá trình giải quyết tranh chấp QSDĐ nói chung làm cho công tác giải quyết tranh
chấp QSDĐ ngày càng có hiệu quả hơn, góp phần đem lại công bằng, ổn định xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận và thực tiễn về thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ tại tòa án. Từ đó đề xuất
những giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp QSDĐ ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
+ Phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về tranh chấp QSDĐ và thủ tục

giải quyết tranh chấp QSDĐ tại TAND.
+ Đưa ra những nội dung điều chỉnh pháp luật về thủ tục giải quyết tranh
chấp QSDĐ tại TAND.
+ Đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ tại
tòa án nhân dân, từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quá trình giải quyết tranh
chấp đất đai của tòa án hiện nay và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục
giải quyết tranh chấp QSDĐ tại TAND.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Các quy định pháp luật trong Luật đất đai 2013, Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) năm 2015 và các văn bản pháp lý liên quan về thủ tục giải quyết tranh
chấp QSDĐ tại TAND; Thực tiễn thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ tại
TAND hiện nay.

5


- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ giữa
NSDĐ với nhau tại TAND từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay. Không
gian nghiên cứu là Việt Nam. Về mặt nội dung luận văn xác định tập trung nghiên
cứu thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ tại TAND giữa những NSDĐ với nhau.
Tranh chấp về QSDĐ giữa NSDĐ với Nhà nước trong quản lý, thực hiện quyền đại
diện chủ sở hữu toàn dân không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận văn được
nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vậy biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là phương pháp luận khoa học được vận dụng nghiên
cứu để đánh giá khách quan về thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ và thực tiễn áp
dụng pháp luật vào giải quyết tranh chấp QSDĐ tại tòa án ở nước ta.

- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn;
phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp hệ thống; phương pháp thống kê,
phương pháp lịch sử cụ thể... Cụ thể:
+ Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Phần
mở đầu và chương 2 để đưa ra đánh giá về tình hình nghiên cứu của luận văn và
thực trạng quy định pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ tại TAND.
+ Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Phương pháp này được sử
dụng trong tất cả các chương của luận văn. Cụ thể, tác giả sử dụng lý luận về tranh
chấp QSDĐ và giải quyết tranh chấp QSDĐ để phân tích, đánh giá về pháp luật
thực định và thực tiễn các hoạt động giải quyết tranh chấp QSDĐ tại TAND;
(Chương 1, Chương 2); kết hợp lý luận và thực tiễn làm cơ sở đề xuất các phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ ở
nước ta hiện nay (Chương 3)…
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng
trong tất cả các chương của luận văn. Cụ thể là được sử dụng để phân tích các quy

6


phạm pháp luật, đi sâu vào tìm tòi, trình bày, các quan điểm, nhận xét về vấn đề thủ
tục giải quyết tranh chấp QSDĐ, các quy định và thực tiễn của công tác giải quyết
tranh chấp QSDĐ tại TAND; khái quát lại để phân tích, rút ra những cái thuộc về
bản chất của các hiện tượng, các quan điểm, quy định và hoạt động thực tiễn này
(Chương 1, Chương 2); từ đó rút ra các đánh giá, kết luận và kiến nghị phù hợp
nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp
QSDĐ tại TAND (Chương 3).
+ Phương pháp hệ thống: được sử dụng xuyên suốt toàn bộ luận văn nhằm
trình bày các vấn đề, các nội dung trong luận văn theo một trình tự, một bố cục hợp
lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được
mục đích, yêu cầu đã được xác định cho luận văn.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về thủ tục giải quyết
tranh chấp QSDĐ tại tòa án thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật để xét xử các
tranh chấp về đất đai. Những kết luận và đề xuất, kiến nghị mà luận văn nêu ra đều
có cơ sở khoa học và thực tiễn. Vì vậy, những kết quả nghiên cứu của luận văn có
thể có giá trị tham khảo đối với những người làm công tác xét xử các tranh chấp về
QSDĐ trong hệ thống TAND.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thủ tục giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất tại Tòa án nhân dân.
Chương 3: Nhu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở
Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp quyền sử dụng đất
1.1.1. Khái niệm quyền sử dụng đất
Đất đai là một bộ phận không thể tách rời với lãnh thổ quốc gia. Ngoài ý
nghĩa là cơ sở vật chất thì lãnh thổ còn có ý nghĩa đối với việc tồn tại và duy trì một
ranh giới quyền lực nhà nước trong một cộng đồng dân cư nhất định. Không chỉ có

vậy, đối với con người, nếu được khai thác, sử dụng hợp lý, đất đai là một tài
nguyên vô tận, trở thành một loại tư liệu sản xuất có giới hạn về không gian, diện
tích nhưng vô hạn về thời gian sử dụng và khả năng sinh lời. Chính bởi vậy, nhằm
đảm bảo cho việc quản lí và khai thác tối đa các lợi ích mà đất đai mang lại cho con
người, pháp luật của nước ta cũng có những quy định chặt chẽ về QSDĐ của cá
nhân, tổ chức, hộ gia đình nhằm xác lập cho những người trực tiếp sử dụng đất
những quyền và lợi ích nhất định, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho NSDĐ phát huy
năng lực tự chủ trong quá trình sử dụng đất. Cụ thể:
Hiến pháp 2013 tại Điều 54 của nước ta quy định:
"1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát
triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.
2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện
các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật
bảo hộ".
Hiện thực hóa quy định của đạo luật gốc, Luật Đất đai 2013 tại Điều 4
khẳng định rõ hơn quyền sở hữu đất đai: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao QSDĐ cho NSDĐ
theo quy định của Luật này. Cùng với đó, với vai trò chủ sở hữu đại diện, Nhà nước

8


có quyền định đoạt đất đai thông qua hàng loạt các quyền như: quyền quyết định
mục đích, thời hạn, hạn mức sử dụng đất; quyền phân bổ đất đai thông qua các hoạt
động giao đất cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; thực hiện quản lí nhà
nước ở cả phương diện hành chính và kinh tế thông qua việc điều tiết các nghĩa vụ
tài chính đối với NSDĐ, điều tiết các thu nhập đối với NSDĐ và thực hiện quyền
giải quyết các tranh chấp, bất đồng, các khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Với các quy định cụ thể nêu trên của pháp luật hiện hành cho thấy, QSDĐ

trong trường hợp này là một trong ba quyền năng của quyền sở hữu đó là: quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đất đai theo cách tiếp cận truyền
thống từ cổ luật La Mã về quyền sở hữu tài sản. Theo đó, khi một tài sản được xác
định thuộc quyền sở hữu của ai thì người đó có quyền được chi phối đối với tài sản
đó theo cách riêng của mình để thỏa mãn cho nhu cầu của họ. Việc tiến hành khai
thác, sử dụng tài sản nhằm để hưởng thụ những giá trị do tài sản đó mang lại là một
trong những cách thức chi phối của người có quyền sở hữu tài sản, miễn sao quá
trình thực hiện quyền sử dụng tài sản phục vụ cho lợi ích của mình phải không được
vượt ra khỏi phạm vi pháp luật quy định. Với ý nghĩa đó, quyền sử dụng tài sản là
một trong những cách thức thực hiện quyền sở hữu tài sản. Pháp luật Việt Nam
cũng tiếp cận quyền sở hữu tài sản từ quan điểm gốc rễ này. Cụ thể, BLDS Việt
Nam năm 2015 cũng đã ra khái niệm về quyền sở hữu: "Quyền sở hữu bao gồm
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo
quy định của pháp luật". Từ cơ sở pháp lý nền tảng nêu trên hoàn toàn cho phép
chúng ta có cách tiếp cận đối với quyền sở hữu, quyền sử dụng của những tài sản cụ
thể (trong đó có tài sản là đất đai) một cách tương tự. Theo đó, người có quyền sở
hữu đối với tài sản là đất đai cũng có ba quyền năng quan trọng: quyền chiếm hữu
đất đai, QSDĐ đai và quyền định đoạt đất đai. Trong các quyền năng cơ bản nêu
trên của chủ sở hữu đối với đất đai thì quyền có vai trò quan trọng và ý nghĩa quyết
định trong việc chuyển hóa đất đai từ một tài sản tự nhiên thuần túy và ở dạng "tiềm
năng", "nguyên thủy" trở thành tài sản có giá trị và giá trị sử dụng cụ thể để đáp ứng

9


cho nhu cầu của con người và sự phát triển của xã hội, quyền có vai trò thực hiện
hóa ý đồ của chủ sở hữu đất đai, làm cho đất đai có giá trị về mặt kinh tế đó là QSDĐ.
Khi xem xét và tiếp cận QSDĐ trong mối quan hệ với quyền sở hữu đất đai
cho chúng ta thấy, QSDĐ gắn liền với quyền sở hữu và bị chi phối bởi quyền sở
hữu đối với đất đai. Ở các nước duy trì chế độ sở hữu tư nhân về đất đai thì QSDĐ

là một quyền năng của quyền sở hữu và không tách rời quyền sở hữu. Người có
QSDĐ cũng đồng thời là người có quyền sở hữu chính mảnh đất đó. Trong quá
trình sử dụng đất và thực hiện các quyền đối với đất, họ cũng đồng thời là người có
quyền quyết định số phận pháp lý đối với mảnh đất thuộc quyền sở hữu của mình.
Khác với các nước thực hiện quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai nêu trên, ở các
nước duy trì chế độ sở hữu Nhà nước hay chế độ sở hữu toàn dân mà Nhà nước là
đại diện chủ sở hữu thì QSDĐ được tiếp cận có phần khác biệt hơn. Theo đó,
QSDĐ vừa mang tính phụ thuộc vào quyền sở hữu đất đai của Nhà nước, được phát
sinh trên cơ sở quyền sở hữu của Nhà nước và cũng bị chi phối bởi quyền sở hữu
Nhà nước đối với đất đai. Các QSDĐ của mỗi tổ chức, cá nhân có được xác lập hay
không là phụ thuộc vào quyền sở hữu đất đai của Nhà nước, được phát sinh trên cơ
sở quyền sở hữu của Nhà nước và cũng bị chi phối bởi quyền sở hữu Nhà nước đối
với đất đai. Các QSDĐ của mỗi tổ chức, cá nhân có được xác lập hay không là dựa
trên cơ sở sự chuyển giao hoặc cho phép của Nhà nước mới có được. Tuy nhiên,
trong quá trình khai thác và sử dụng đất ấy, QSDĐ của mỗi chủ thể lại mang tính
độc lập tương đối, chúng được thoát ly ra khỏi quyền sở hữu và trở thành một chế
định độc lập trong quan hệ với Nhà nước và chủ thể khác, người có QSDĐ được
Nhà nước xác lập có quyền chủ động khai thác và sử dụng cho các nhu cầu và mục
đích khác nhau.
Bằng các quy định về quyền sở hữu đất đai ghi nhận tại Điều 54 Hiến pháp
2013 và Điều 4 Luật đất đai năm 2013, Nhà nước đã trao QSDĐ cho các tổ chức và
cá nhân thông qua các hình thức nhận giao đất không thu tiền, giao đất có thu tiền,
cho thuê đất hoặc công nhận QSDĐ và họ trở thành người có QSDĐ chứ không

10


phải người có quyền sở hữu đất đai. Khi chuyển giao đất cho NSDĐ, tùy thuộc vào
các hình thức sử dụng đất khác nhau mà Nhà nước cho phép các chủ thể sử dụng đất
khác nhau được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Theo

Từ điển giải thích Luật học thì: "Quyền sử dụng đất của Nhà nước là quyền khai
thác các thuộc tính có ích từ đất để phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế và
đời sống xã hội. Nhà nước thực hiện quyền sử dụng đất một cách gián tiếp thông
qua việc giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng. Các tổ chức, cá nhân này khi sử
dụng có nghĩa vụ đóng góp vật chất cho Nhà nước dưới dạng thuế sử dụng đất, tiền
sử dụng đất". Theo định nghĩa này thì QSDĐ của Nhà nước không được thực hiện
trực tiếp bởi Nhà nước mà gián tiếp thực hiện qua chủ thể là NSDĐ, là người được
Nhà nước cho phép sử dụng đất thông qua các hình thức pháp lý khác nhau và trao
cho họ những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể trong quá trình khai thác QSDĐ. Và
như vậy, những giá trị và khả năng sinh lợi của đất, những thuộc tính có ích trên
từng mảnh đất và ở phạm vi toàn bộ đất đai của quốc gia có được khai thác và sử
dụng có hiệu quả hay không là tùy thuộc vào NSDĐ - người trực tiếp thực hiện
QSDĐ theo ý đồ của Nhà nước. Tuy nhiên, không phải bất kỳ chủ thể nào cũng có
thể trở thành chủ thể sử dụng đất, cũng đương nhiên có QSDĐ, mà quyền đó phụ
thuộc vào sự cho phép của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu. Đến đây có thể thấy
rằng QSDĐ vừa mang tính phụ thuộc (nếu xem xét chúng với ý nghĩa một trong ba
quyền năng của chủ sở hữu) và vừa mang tính độc lập (nếu xem xét chúng với ý
nghĩa là quyền khai thác trực tiếp các giá trị của đất của từng chủ thể sử dụng đất cụ
thể). Tuy không đồng nhất giữa quyền sở hữu đất đai và quyền sử dụng đất nhưng
quyền sở hữu đất đai được chủ sở hữu đất đai chuyển giao cho người sử dụng đất
thực hiện và trở thành một loại quyền tài sản thuộc về người sử dụng đất. Về điểm
này, PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa cho rằng: "Phải thừa nhận quyền sử dụng đất của cá
nhân và tổ chức là quyền tài sản tư, cần được Nhà nước tôn trọng và bảo hộ. Điều
đó không có nghĩa là phải thay đổi sở hữu về đất đai. Sáng tạo ra khái niệm quyền
sử dụng đất cả người Việt Nam và người Trung Quốc dường như đã tạo ra một khái

11


niệm sở hữu kép, một khái niệm sở hữu đa tầng: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân,

song quyền sử dụng đất lại thuộc về cá nhân hoặc tổ chức".
Như vậy, chủ thể thực hiện QSDĐ với tư cách là chủ thể sử dụng đất chứ
không phải với tư cách chủ sở hữu. Với tư cách là người đại diện chủ sở hữu, Nhà
nước thống nhất quản lí đất đai thông qua các quyền năng được pháp luật ghi nhận
và đảm bảo thực hiện, đó là: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
Tuy nhiên, không phải tự bản thân nhà nước trực tiếp chiếm hữu, sử dụng đất đai để
khai thác những thuộc tính vốn có của đất mà Nhà nước giao cho NSDĐ sử dụng
tức là giao cho NSDĐ một trong 3 quyền năng của mình đó là QSDĐ. Nắm trong
tay QSDĐ diện tích đất mà nhà nước giao cho, bên cạnh QSDĐ ổn định, lâu dài,
NSDĐ còn được thực hiện các giao dịch QSDĐ của mình như chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thế chấp, góp vốn,.. bằng giá trị QSDĐ nhằm đảm bảo quyền lợi
thiết thực cho mình. Để đảm bảo các quyền trên của NSDĐ được thực hiện trên
thực tế, pháp luật nước ta cũng xác lập tiền đề và điều kiện để QSDĐ của mỗi người
dân được đảm bảo. Từ đây, chế định về QSDĐ được hình thành.
Từ những phân tích trên tác giả cho rằng: Quyền sử dụng đất là chỉ những
khả năng của một chủ thể được thực hiện hoặc được hưởng những quyền nhất định
khi khai thác và sử dụng đất để phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của đời sống xã
hội. Những quyền đó được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Như vậy quyền sử dụng đất được hiểu là những quyền năng sử dụng đất cụ thể của
người sử dụng đất, được pháp luật ghi nhận, quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật và được nhà nước bảo đảm thực hiện đối với các chủ thể sử dụng đất
trong quá trình khai thác, sử dụng đất.
1.1.2. Đặc điểm của quyền sử dụng đất
Trên thế giới hiện nay về cơ bản có ba mô hình sở hữu về đất đai: 1) mô
hình đất đai thuộc sở hữu tư nhân; 2) mô hình đất đai thuộc sở hữu nhiều thành
phần; 3) mô hình đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Tùy theo chế độ sở hữu đất đai
khác nhau thì ghi nhận về QSDĐ cũng khác nhau. Tuy nhiên, xét dưới giác độ khai
thác công dụng, thuộc tích có ích của đất thì QSDĐ có những đặc điểm sau:

12



Thứ nhất, QSDĐ là một quyền phái sinh trên cơ sở quyền sở hữu đất đai.
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Với
tư cách là đó Nhà nước có quyền giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ và cũng
có quyền thu hồi đất. Có thể thấy NSDĐ có QSDĐ trực tiếp nhưng phụ thuộc vào
Nhà nước.
Thứ hai, QSDĐ là một loại quyền tài sản. Theo quy định tại Điều 107
BLDS năm 2015, thì đất đai là một loại tài sản và QSDĐ cũng là một quyền tài sản.
Tức là quyền được giá trị bằng tiền có thể trao đổi ngang giá trên thị trường.
Thứ ba, QSDĐ có tính độc lập tương đối với quyền sở hữu. QSDĐ của NSDĐ
là dù là quyền tài sản, được tách ra khỏi quyền sở hữu của Nhà nước, NSDĐ được
chủ động linh hoạt trong quá trình khai thác và sử dụng đất, cũng như trong các giao
dịch dân sự về đất đai. Tuy nhiên, ẩn sâu trong QSDĐ của NSDĐ luôn chứa đựng
quyền và lợi ích của Nhà nước, đồng thời Nhà nước cũng luôn thể hiện vai trò là
quyền đại diện của mình để kiểm soát, chi phối các giao dịch về QSDĐ của NSDĐ.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp quyền sử dụng đất
1.1.3.1. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất
Tranh chấp QSDĐ là một hiện tượng xã hội xuất hiện ở bất cứ hình thái
kinh tế - xã hội nào. Ở nước ta hiện nay, tranh chấp QSDĐ đã trở thành một vấn đề
phổ biến. Vậy tranh chấp QSDĐ là gì? Trước khi tìm hiểu về khái niệm tranh chấp
QSDĐ, chúng ta cần hiểu thế nào là tranh chấp? Theo Đại Từ điển Tiếng Việt (năm
1998) thì tranh chấp là giành giật, giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào, là
bất đồng, trái ngược nhau.
Khái niệm tranh chấp QSDĐ đã được giải thích trong văn bản pháp luật
đất đai. Luật đất đai năm 2013 quan niệm: "Tranh chấp đất đai là tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất
đai" [24, Khoản 24 Điều 3].
Phân tích quy định trên của Luật đất đai năm 2013, chúng ta thấy rằng các
nhà làm luật đưa ra định nghĩa về tranh chấp QSDĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa


13


vụ của NSDĐ giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Các nhà làm luật đã
định nghĩa bằng cách sử dụng chính thuật ngữ cần định nghĩa: "tranh chấp quyền sử
dụng đất là tranh chấp …". Các định nghĩa như vậy chưa giúp người đọc hiểu được
tranh chấp là gì? Bản chất của nó như thế nào?
Tranh chấp nói chung được hiểu là những mâu thuẫn, xung đột, những
quan điểm, ý kiến khách nhau, thậm chí là đối nghịch, trái ngược nhau về cùng
một vấn đề. Trong quan hệ đất đai, tranh chấp chính là những mâu thuẫn, bất đồng
giữa các chủ thể về các vấn đề lợi ích, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên chủ thể
trong quan hệ đất đai. Trong bất cứ quan hệ nào, lợi ích luôn là vấn đề được các
chủ thể đặt lên hàng đầu, lợi ích luôn gắn liền với quyền và nghĩa vụ của mỗi bên,
nói một cách trực diện là nếu không có lợi ích sẽ khó có thể phát sinh quan hệ, và
không có quan hệ thì cũng không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa các
bên chủ thể với nhau. Vì thế nói đến quyền và nghĩa vụ không thể không nhắc tới
lợi ích đằng sau nó. Trong nội hàm của khái niệm tranh chấp QSDĐ tại khoản 24
Điều 3 Luật đất đai năm 2013, các nhà làm luật chỉ nói đến "quyền và nghĩa vụ" là
chưa đầy đủ. Điều này đã được quy định tại Luật đất đai năm 2003, nhưng đến
Luật đất đai 2013 vẫn không có sự sửa đổi là chưa phù hợp với bản chất của các
quan hệ đất đai nói riêng và vô hình chung thu hẹp nội hàm khái niệm tranh chấp
QSDĐ trong thực tế.
Tiếp tục phân tích khái niệm tranh chấp QSDĐ tại quy định này, "tranh
chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc
nhiều bên …." Trong khái niệm này, nhà làm luật đã xác định chủ thể của tranh
chấp QSDĐ là hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai, đó có thể là bất đồng giữa
những NSDĐ với nhau hoặc giữa NSDĐ với cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
về lợi ích, quyền và nghĩa vụ của NSDĐ. Như vậy trong khai niệm này, nhà làm
luật xác định một bên chủ thể trong tranh chấp phải là NSDĐ bởi đối tượng của

tranh chấp là lợi ích, quyền và nghĩa vụ của NSDĐ, chủ thể còn lại có thể là NSDĐ
khác hoặc là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai.

14


Qua đó, tác giả cho rằng, tranh chấp quyền sử dụng đất là sự bất đồng, mâu
thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích, về quyền hoặc nghĩa vụ giữa các cá nhân, hộ gia
đình, tổ chức, cơ quan khi tham gia vào quan hệ sử dụng đất.
Nguyên nhân của tranh chấp QSDĐ có nhiều, nhưng theo chúng tôi là do
một số nguyên nhân chủ yếu sau: Một là, do quan hệ đất đai ở nước ta xáo trộn qua
các thời kỳ. Ví dụ: do yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở hai miền Nam Bắc có sự khác
nhau, nên các chính sách, pháp luật về đất đai ở hai miền cũng không giống nhau;
hai là, do tác động của cơ chế thị trường đối với đất đai; ba là, chính sách, pháp luật
về đất đai nói chung và pháp luật về tranh chấp QSDĐ nói riêng không nhất quán
qua từng thời kỳ; bốn là, do công tác quản lý nhà nước về đất đai còn bộc lộ nhiều
hạn chế, buông lỏng quản lý; năm là, công tác giải quyết tranh chấp QSDĐ còn
nhiều bất cập,…
1.1.3.2. Đặc điểm của tranh chấp quyền sử dụng đất
Thứ nhất, về chủ thể của quan hệ tranh chấp QSDĐ là chủ thể quản lý và sử
dụng đất, không có quyền sở hữu với đất đai. Bởi QSDĐ được xác lập trên cơ sở
quyết định giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ của đại diện chủ sở hữu toàn
dân về đất đai là Nhà nước.
Thứ hai, về đối tượng tranh chấp trong quan hệ này là quyền chiếm hữu,
QSDĐ và những lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng đất theo quy định của pháp
luật. Có thể thấy đối tượng tranh chấp được biểu hiện dưới dạng là QSDĐ chứ
không phải bản thân đất đai.
Thứ ba, tranh chấp QSDĐ không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của
các bên tham gia tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến ổn định xã hội, làm mất đoàn
kết trong nhân dân, làm đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh,... Do vậy, việc giải

quyết tranh chấp QSDĐ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
1.1.3.3. Phân loại tranh chấp quyền sử dụng đất
Tùy theo cách tiếp cận và mục đích của người nghiên cứu có thể phân loại
tranh chấp QSDĐ thành các loại khác nhau. Cụ thể:

15


+ Căn cứ vào chủ thể của quan hệ tranh chấp QSDĐ có thể chia tranh chấp
QSDĐ thành tranh chấp quyền sử dụng đất giữa cá nhân, hộ gia đình với nhau;
tranh chấp giữa cá nhân, hộ gia đình với tổ chức; tranh chấp giữa cá nhân, hộ gia
đình, tổ chức với nhà nước;
+ Căn cứ vào đối tượng của tranh chấp QSDĐ có thể chia thành: tranh chấp
về quyền chiếm hữu đất đai; tranh chấp về QSDĐ và tranh chấp về lợi ích phát sinh
từ quá trình sử dụng đất;
+ Căn cứ vào các quyền của NSDĐ, có thể chia tranh chấp QSDĐ thành:
tranh chấp về quyền chuyển đổi, quyền chuyển nhượng, quyền tặng cho, quyền thừa
kế, quyền góp vốn bằng QSDĐ,...;
+ Căn cứ vào cơ quan giải quyết tranh chấp QSDĐ có thể chia tranh chấp
QSDĐ thành: tranh chấp QSDĐ do cơ quan hành chính giải quyết và tranh chấp
QSDĐ do tòa án giải quyết.
1.2. Thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất và vai trò của
Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
1.2.1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
Về mặt nguyên tắc, một tranh chấp QSDĐ sẽ được giải quyết bởi cơ quan
tư pháp là "Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc cơ quan hành chính là Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền" [24, Điều 203]. Tranh chấp QSDĐ thuộc thẩm quyền
giải quyết của TAND được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Dưới giác độ khoa học pháp lý, "giải quyết tranh chấp đất đai là giải quyết

bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức trong quá trình quản lý và sử
dụng đất đai và trên cơ sở đó phục hồi các quyền lợi hợp pháp bị xâm hại đồng thời
truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật đất đai" [44]. Ở Việt
Nam giải quyết tranh chấp về QSDĐ bằng con đường Tòa án là phương thức rất
quan trọng. Theo tác giả, giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại tòa án nhân
dân là hoạt động của hệ thống tòa án nhân dân các cấp nhằm giải quyết những bất
đồng, mâu thuẫn giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ sử dụng đất và các chủ thể

16


khác có liên quan, thông qua đó bảo đảm, bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích cho
người bị xâm hại, đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể có hành vi
vi phạm pháp luật về quyền sử dụng đất.
1.2.1.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
Thứ nhất, về điều kiện giải quyết tranh chấp QSDĐ. Theo quy định của
pháp luật hiện hành khi tranh chấp QSDĐ xảy ra các bên tranh chấp dù có Giấy tờ
chứng nhận QSDĐ hay không, đa số các trường hợp đều bắt buộc phải hòa giải tại
Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã.
Thứ hai, về chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp QSDĐ. Theo quy định
của pháp luật hiện hành, các chủ thể các cơ quan hành chính nhà nước và TAND.
Theo quy định của pháp luật nếu tranh chấp QSDĐ đã được hòa giải tại cấp xã
không thành mà có Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc giấy tờ quy định tại Điều 100
Luật Đất đai năm 2013 thì thẩm quyền giải quyết là của TAND. Còn nếu tranh chấp
QSDĐ đã được hòa giải tại cấp xã không thành mà không có Giấy chứng nhận
QSDĐ hoặc không có giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 thì việc
giải quyết tranh chấp QSDĐ thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ ba, trong giải quyết tranh chấp QSDĐ phải có sự tham gia của đại diện
Viện Kiểm sát. Tranh chấp QSDĐ không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp
của NSDĐ mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước nên

Viện kiểm sát có vai trò quan trọng trong tham gia giám sát hoạt động xét xử của
tòa án nhằm đảm bảo việc giải quyết tranh chấp phải thực hiện đúng pháp luật.
Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp QSDĐ cần phải thực hiện theo trình tự,
thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
1.2.1.3. Vai trò của Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
So với các biện pháp giải quyết tranh chấp đất đai khác việc giải quyết
tranh chấp QSDĐ tại TAND có một số ưu việt sau đây:
Một là, do hệ thống tổ chức và vị trí của ngành TAND trong hệ thống chính
trị ở nước ta đảm bảo cho Tòa án sự độc lập không bị lệ thuộc vào bất cứ cơ quan

17


nhà nước nào. Điều này tạo thuận lợi cho Tòa án trong công tác xét xử các vụ án nói
chung và các vụ án tranh chấp QSDĐ nói riêng, trong việc đưa ra các phán quyết
độc lập, khách quan và không chịu bất cứ sức ép nào từ phía các cơ quan, tổ chức,
cá nhân.
Hai là, TAND là cơ quan duy nhất ở Việt Nam có chức năng xét xử và đảm
bảo thực hiện quyền tư pháp. TAND có đội ngũ Thẩm phán được đào tạo bài bản,
trang bị kiến thức và am hiểu pháp luật, có kỹ năng xét xử tốt. Đây là sự đảm bảo
cho các phán quyết, quyết định giải quyết tranh chấp QSDĐ được công bằng, khách
quan, chính xác và đúng pháp luật.
Ba là, bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp QSDĐ có hiệu lực pháp
luật và được thực thi nghiêm chỉnh bởi các cơ quan thi hành án dân sự. Điều này
góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và sự tôn nghiêm của mô hình
tài phán tố tụng. Thông qua việc thực hiện bản án, quyết định về giải quyết tranh
chấp QSDĐ có hiệu lực pháp luật của Tòa án không chỉ đảm bảo nguyên tác pháp
chế xã hội chủ nghĩa mà còn góp phần giáo dục người dân ý thức chấp hành pháp
luật đặt trong bối cảnh Nhà nước và pháp quyền ở nước ta hiện nay…
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử

dụng đất tại Tòa án nhân dân
1.2.2.1. Khái niệm thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
Thủ tục là những điều đặt ra bắt buộc phải tuân theo, không thể bỏ qua. Thủ
tục là những quy định, quy ước về trình tự, cách thức tiến hành đánh giá để làm một
việc gì đó [57]. Ví dụ: để giải quyết tranh chấp QSDĐ cần những thủ tục gì,… Hay
Thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, để tiến hành một
công việc có tính chất chính thức [58]. Thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ tại tòa
án chính là nói đến pháp luật về hình thức. Trên cơ sở quan niệm về giải quyết tranh
chấp QSDĐ, tác giả cho rằng, thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ tại TAND là
những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để thực hiện hoạt động tố tụng
của cơ quan Tòa án nhằm mục đích giải quyết những mâu thuẫn, xung đột, bất

18


×