Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh thương mại theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.25 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
KINH DOANH THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

HOÀNG NGỌC TUẤN

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
KINH DOANH THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
HOÀNG NGỌC TUẤN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ NGỌC HIỂN

HÀ NỘI - 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Bồi thường thiệt hại do vi phạm
Hợp đồng kinh doanh thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Hồ Ngọc Hiển. Kết quả
nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi
đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của trường Viện Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 10 năm 2018
Người cam đoan

Hoàng Ngọc Tuấn


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, hướng
dẫn, giúp đỡ của nhiều cá nhân, tổ chức.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô đã tham gia giảng dạy chương trình
đào tạo thạc sĩ ngành Luật Kinh tế tại Viện Đại học Mở Hà Nội. Đặc biệt, tôi xin
chân thành cảm ơn TS Hồ Ngọc Hiển đã tận tình giảng dạy, hỗ trợ và định hướng
nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ này.
Hà Nội, ngày 01 tháng 10 năm 2018
Học viên

Hoàng Ngọc Tuấn



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG
MẠI ........................................................................................................................ 6
1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động kinh
doanh thương mại .................................................................................................... 6
1.1.1. Hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại ........................................ 6
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng thương
mại ........................................................................................................................ 15
1.1.3. Bồi thường thiệt hại là một hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong
hoạt động kinh doanh thương mại.......................................................................... 18
1.1.4. Chức năng của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động kinh doanh thương mại ................................................................................. 20
1.2. Khái quát pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động kinh doanh thương mại ................................................................................. 21
1.2.1. Nguồn pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động kinh doanh thương mại ................................................................ 21
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại ở Việt Nam .................... 22
1.2.3. Hệ thống các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động kinh doanh thương mại ................................................................ 24
1.2.4. Nội dung cơ bản của pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động kinh doanh thương mại ................................................................ 26
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................. 29



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
THƯƠNG MẠI.................................................................................................... 30
2.1. Các căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động kinh doanh thương mại ................................................................................. 30
2.1.1 Căn cứ vào hành vi vi phạm hợp đồng .......................................................... 30
2.1.2. Căn cứ vào thiệt hại vật chất thực tế phát sinh ............................................. 31
2.1.3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại vật
chất ....................................................................................................................... 35
2.1.4. Căn cứ vào thông báo của bên vi phạm và khiếu nại khi có hành vi vi phạm
hợp đồng kinh doanh thương mại .......................................................................... 38
2.2. Các quy định về giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động kinh doanh thương mại ................................................................ 41
2.3. Các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động kinh doanh thương mại ................................................................ 42
2.3.1 Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp các bên đã thỏa thuận
............................................................................................................................ 44
2.3.2. Miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng ................ 44
2.3.3. Trường hợp không phải chịu trách nhiệm do không thể thực hiện hợp đồng
thương mại ............................................................................................................ 46
2.3.3. Miễn trách nhiệm trong trường hợp hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn
do lỗi của bên kia .................................................................................................. 50
2.3.4. Miễn trách nhiệm bồi thường trong trường hợp hành vi vi phạm của một bên
do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên
không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng ............................................ 51
2.4. Các quy định về áp dụng phối hợp chế tài bồi thường thiệt hại với các hình thức
chế tài khác............................................................................................................ 52
2.5. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng kinh doanh thương mại tại Việt Nam ............................................................ 54



Tiểu kết chương 2 .................................................................................................. 68
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
THƯƠNG MẠI.................................................................................................... 69
3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại .............................. 69
3.1.1. Phù hợp với đương lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam ...................................................................................................................... 69
3.1.2. Đảm bảo sự thống nhất của các văn bản pháp luật ...................................... 71
3.1.3. Đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ............................ 73
3.1.4. Đảm bảo sự phù hợp với các đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam ................ 74
3.2. Hoàn thiện quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động kinh doanh thương mại ................................................................................. 75
3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về hành vi vi phạm, yếu tố lỗi và thiệt hại
thực tế ................................................................................................................... 76
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại ........................................................ 82
3.2.3. Hoàn thiện quy định về biện pháp bồi thường thiệt hạido vi phạm hợp đồng
kinh doanh thương mại .......................................................................................... 84
3.2.4. Hoàn thiện quy định về không chịu trách nhiệm do không thể thực hiện hợp
đồng và miễn, giảm trách nhiệm ............................................................................ 87
3.2.5. Hoàn thiện quy định áp dụng phối hợp chế tài bồi thường thiệt hại và chế tài
phạt vi phạm .......................................................................................................... 91
3.3. Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong thực tiễn .............................................................................. 91
Tiết kết chương 3................................................................................................... 99
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 101



DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

STT

TỪ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

BLDS

Bộ luật dân sự

2

LTM

Luật thương mại

3

SKBKK

Sự kiện bất khả kháng

4

TAND


Tòa án nhân dân

5

KDTM

Kinh doanh thương mại

6

BTTH

Bồi thường thiệt hại


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những
hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội.
Nhưng phải đến Đại hội toàn quốc lần thức IX của Đảng mới chính thức đưa ra khái
niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Đại hội khẳng định: Phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là
mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để nền kinh tế thị trường có thể vận hành một cách có hiệu quả, hoạt động
KDTM diễn ra một cách có trật tự, Nhà nước cần phải thiết kế và xây dựng hệ
thống các văn bản pháp luật hoàn chỉnh và một cơ chế đảm bảo việc thi hành chúng
một cách có hiệu quả. Một bộ phận quan trọng của cơ chế pháp lý đó chính là hệ

thống các văn bản điều chỉnh hoạt động KDTM, trong đó có LTM. Trong LTM, chế
tài trong thương mại là một chế định có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ thương mại cũng như bảo
vệ sự nghiêm minh của pháp luật và đảm bảo trật tự vận hành của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong hệ thống pháp luật về chế tài thương mại, BTTH là một hình thức chế
tài đã có từ lâu và được áp dụng một cách phổ biến và thường xuyên nhất. Qua
những lần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động KDTM cho
đến nay, chế tài BTTH cũng được bổ sung và hoàn thiện hơn, đã góp phần đảm bảo
cho hợp đồng trong hoạt động KDTM được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, bảo
vệ lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng, các quan hệ thương mại, đặc biệt là các quan hệ thương mại quốc
tế ngày càng đa dạng và phức tạp, thì các quy định hiện hành về chế tài BTTH do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động KDTM vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn kinh doanh. Có những vấn đề mà pháp LTM không quy định
1


cụ thể, rõ ràng như: việc xác định thế nào là tổn thất thực tế và trực tiếp chưa đươc
quy định gây nhiều khó khăn trong việc xác định các khoản thiệt hại được bồi
thường; các quy định về miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động KDTM chưa rõ ràng đối với trường hợp người thứ ba có quan hệ với một bên
trong hợp đồng gặp bất khả kháng dẫn đến bên đó vi phạm hợp đồng thì có được
miễn trách nhiệm bồi thường hay không?... Những hạn chế, bất cập của pháp luật
hiện hành về BTTH do vi phạm hợp đồng trong hoạt động KDTM đã gây nhiều khó
khăn cho việc áp dụng và thực thi pháp luật. Việc khắc phục những bất cập nhằm
hoàn thiện pháp luật về BTTH do vi phạm hợp đồng trong hoạt động KDTM hướng
tới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ thương mại cũng
như duy trì trật tự kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy tiến
bộ xã hội.

Chính vì những lý do trên, tác giả lựa chọn việc nghiên cứu “BTTH do vi
phạm hợp đồng KDTM theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc
sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế tài do vi phạm hợp đồng trong hoạt động KDTM, trong đó có BTTH là
một chế định đã có từ lâu trong hệ thống pháp luật nước ta. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về chế tài BTTH. Có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu sau:
- “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Những vấn đề lí luận và thực
tiễn”, Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Hoàng Thị Hà Phương, Trường Đại học
Luật Hà Nội, năm 2011.
- “Pháp luật về BTTH do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thực trạng
và phương hướng hoàn thiện”, Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Quách Thúy
Quỳnh, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005.
- “BTTH do hàng hóa không phù hợp với hợp đồng theo quy định của công
ước Viên 1980 – So sánh với pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học của
Trần Thùy Linh, Trường Đại học luật Hà Nội, năm 2009.
2


- “Về việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và BTTH vào thực tiễn giải quyết
tranh chấp hợp đồng trong hoạt động KDTM” của tác giả Nguyễn Thị Hằng Nga
(Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9 năm 2006).
- “Thỏa thuận hạn chế hay miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng” của
TS. Dương Anh Sơn trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3 năm 2005.
Ngoài ra, năm 2010 trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức
một cuộc hội thảo về đề tài nghiên cứu “Không thực hiện đúng hợp đồng trong
pháp luật thực định Việt Nam” do TS. Đỗ Văn Đại làm chủ biên.
Các công trình nói trên đã đề cập đến vấn đề BTTH do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động KDTM ở những mức độ và phạm vi khác nhau, vào những khoảng

thời gian nhất định. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập một
cách khái quát về tất cả các hình thức trách nhiệm hợp đồng nói chung dưới góc độ
lý luận hoặc nghiên cứu chuyên sâu về hình thức BTTH do vi phạm hợp đồng
thương mại nhưng lại trong bối cảnh LTM năm 1997 và Pháp lệnh Hợp đồng kinh
tế năm 1989 còn hiệu lực. Tuy nhiên, khi BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 ra
đời và có hiệu lực thì việc nghiên cứu chuyên sâu về trách nhiệm BTTH do vi phạm
hợp đồng trong hoạt động KDTM cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt mục đích tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận về BTTH
do vi phạm hợp đồng trong hoạt động KDTM, đánh giá thực trạng của các quy định
pháp luật hiện hành về BTTH, nêu ra những tồn tại, bất cập của những quy định
này, trên cơ sở đó kiến nghị, sửa đổi một số quy định của pháp luật về BTTH do vi
phạm hợp đồng thương mại.
Từ mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất, tìm hiểu một số vấn đề lí luận về BTTH do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động KDTM nhằm làm rõ bản chất pháp lý, chức năng của chế tài BTTH
do vi phạm hợp đồng trong hoạt động KDTM, cấu trúc pháp luật về chế tài BTTH
và quá trình hình thành và phát triển của các quy định về chế tài BTTH do vi phạm
hợp đồng trong hoạt động KDTM ở Việt Nam.
3


Thứ hai, phân tích các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về BTTH
do vi phạm hợp đồng trong hoạt động KDTM. Trong quá trình phân tích, luận văn
so sánh các quy định của pháp luật hiện hành với các quy định trong văn bản pháp
luật trước đây và các quy định pháp LTM quốc tế về hình thức chế tài này để thấy
rõ được những điểm tiến bộ cũng như những hạn chế, bất cập của pháp LTM hiện
hành gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực tế.
Thứ ba, từ việc nghiên cứu trên, luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về BTTH do vi phạm hợp đồng trong hoạt động KDTM để đáp ứng

được những yêu cầu của thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về BTTH
do vi phạm hợp đồng trong hoạt động KDTM, đánh giá thực trạng pháp luật để thấy
được vị trí, vai trò và mối quan hệ của hình thức chế tài này với các hình thức chế
tài thương mại khác. Luận văn chỉ nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về chế tài BTTH
do vi phạm hợp đồng trong hoạt động KDTM của LTM năm 2005, ngoài ra có sự đối
chiếu với các quy định của BLDS năm 2015, LTM năm 1997, Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế năm 1989 và các quy định trong hệ thống pháp LTM quốc tế mà đại diện là
Công ước viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế và Bộ nguyên tắc của Unidroit về
hợp đồng thương mại quốc tế nhằm đưa ra sự so sánh với pháp luật Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chung của học thuyết Mác –
Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cùng với việc sử dụng phương pháp luận chung nhất của phép biện chứng
duy vật, đề tài được thực hiện bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên
cứu chuyên ngành luật như phương pháp mô tả, phân tích, so sánh, tổng hợp, chứng
minh, thống kê, lịch sử...
Phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng chủ yếu để đánh giá, nhận xét
về các quy định pháp luật hiện hành về chế tài BTTH do vi phạm hợp đồng trong
hoạt động KDTM trong tương quan so sánh với các quy định trước đây cũng như
4


pháp luật quốc tế. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng phương pháp thống kê, phương
pháp lịch sử để đánh giá sự phát triển và những hạn chế cần khắc phục của pháp
luật hiện hành.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động kinh doanh thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động kinh doanh thương mại
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động kinh doanh thương mại

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động kinh doanh thương mại
1.1.1. Hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại
Khái niệm hợp đồng trong kinh doanh thương mại
Hợp đồng trong hoạt động KDTM là yếu tố thể hiện ý chí của các bên trong
quá trình mua bán hành hóa. Khi vật chất được trao đổi lợi ích được hình thành trên
cơ sở thống nhất ý chí của các bên thì quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập trên
cơ sở hợp đồng. Mỗi quốc gia và mỗi hệ thống pháp luật trên thế giới có cách hiểu
về hợp đồng trong KDTM như sau:
Theo các nước truyền thống Common Law với đại diện điện điển hình là Anh,
Úc, Mỹ không có sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng trong thương mại,
do đó, ở các quốc gia này chỉ sử dụng một loại khái niệm hợp đồng nói chung.
Theo các nước có truyền thống pháp luật Civillaw với đại diện điển hình là
Pháp, Đức, Bỉ hoặc Châu Á và Châu Mỹ La Tinh thì có sự phân biệt giữa hợp đồng
dân sự và hợp đồng thương mại. Hợp đồng thương mại thường chỉ được coi là một
dạng đặc biệt của hợp đồng dân sự. Hợp đồng thương mại có những đặc thù riêng,

có tính nhanh chóng, linh hoạt, đơn giản, bảo đảm quyền lợi của các bên trong
KDTM. Chính vì vậy, hợp đồng trong KDTM có sự khác biệt với hợp đồng trong
dân sự.
Ở nước ta có quan niệm giống các quốc gia theo truyền thống pháp luật
Civilaw Hợp đồng trong KDTM có sự tách biệt với hợp đồng trong dân sự. Pháp
luật nước ta quy định hợp đồng được giao kết giữa các chủ thể kinh doanh với nhau
hoặc các bên có liên quan để thực hiện hoạt động kinh doanh là hợp đồng trong hoạt
động KDTM. Theo đó, khái niệm hợp đồng dân sự nói chung được quy định cụ thể
6


tại BLDS năm 2015, Điều 385: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Từ khái niệm hợp đồng
nói chung, BLDS quy định về đặc điểm một số loại hợp đồng như hợp đồng mua
bán tài sản, hợp đồng tặng cho, hợp đồng thuê tài sản.v.v. Hợp đồng KDTM trước
hết chịu sự điều chỉnh về nguyên tắc chung của hợp đồng trong BLDS và được quy
định chi tiết trong LTM. Trong LTM năm 2015 tuy không có khái niệm Hợp đồng
trong KDTM, nhưng căn cứ vào đặc điểm, chủ thể và các dấu hiệu của hợp đồng
trong KDTM có thể hiểu Hợp đồng thương mại là hình thức pháp lý của hành vi
thương mại, là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên (ít nhất một trong các bên phải
là thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương nhân) nhằm xác lập, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt động thương
mại. Các hoạt động thương mại ở đây được xác định theo LTM năm 2005, cụ thể tại
Điều 1 LTM năm 2005, theo đó bao gồm: hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh
thổ nước CHXHCN Việt Nam; hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ Việt
Nam trong trường hợp các bên thỏa thuận chọn áp dụng Luật này hoặc Luật nước
ngoài, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hoạt động không nhằm mục
đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ
Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi
đó áp dụng luật này.

Ở Việt Nam trước đây có khái niệm hợp đồng kinh tế được quy định trong
pháp luật về hợp đồng kinh tế năm 1989 như sau: “Hợp đồng kinh tế là sự thoả
thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công
việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình”, khái
niệm trên đã phần nào giúp cho các bên hiểu như thế nào về một hợp đồng kinh tế,
để có thể phân biệt nó với hợp đồng dân sự và biết được pháp luật kinh tế hay pháp
luật dân sự sẽ áp dụng khi các bên xảy ra tranh chấp.

7


Tuy nhiên đến khi LTM năm 2005 ra đời, khái niệm này không được khẳng
định lại, mà trong thực tế có rất nhiều thuật ngữ được sử dụng như hợp đồng nói
chung, nhiều tác giả nghiên cứu về hợp đồng cũng thừa nhận các cách hiểu về hợp
đồng chứ chưa đưa ra định nghĩa nào mới về hợp đồng trong KDTM, một số tác giả
nghiên cứu có đưa ra khái niệm như sau:
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Hạnh đã đưa ra khái niệm: “Hợp đồng thương mại
là thỏa thuận giữa thương nhân với thương nhân, thương nhân với các bên liên
quan nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong
hoạt động thương mại”1. theo tác giả khái niệm trên là khá chính xác và thể hiện
được bản chất của một hợp đồng thương mại. Nói cách khác, hợp đồng thương mại
là sự thỏa thuận nhằm mục đích sinh lợi trong đó có ít nhất một bên tham gia hợp
đồng phải là thương nhân hoặc tổ chức cá nhân khác hoạt động có liên quan đến
thương mại. Khái niệm trên giúp cho các bên tham gia hợp đồng thương mại hiểu rõ
bản chất của hợp đồng thương mại là một sự thỏa thuận, mục đích của hợp đồng
thương mại là nhằm mục đích sinh lợi và chủ thể tham gia hợp đồng là thương nhân
hoặc tổ chức cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.
Như vậy, bản thân tác giả cũng đồng tình với các hiểu về hợp đồng trong
KDTM nói chung để từ đó nghiên cứu về vấn đề tranh chấp về vấn đề BTTH về

hợp đồng trong KDTM, có thể khẳng định lại một lần nữa: Hợp đồng thương mại
được hiểu là sự thỏa thuận giữa thương nhân với thương nhân hoặc giữa thương
nhân với các bên liên quan nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
giữa các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và
xúc tiến thương mại.
Đặc điểm của hợp đồng trong kinh doanh thương mại
Căn cứ vào pháp LTM và BLDS, Hợp đồng KDTM có đặc điểm như sau:
Thứ nhất, về mục đích, hợp đồng trong KDTM nhằm phục vụ hoạt động sản
xuất kinh doanh và lợi nhuận cho các chủ thể ký kết (ít nhất là 1 bên chủ thể), khác

1

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2010), “Hợp đồng vô hiệu trong hoạt động thương thực tiễn”. Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh

8


với hợp đồng KDTM, mục đích của hợp đồng dân sự chủ yếu đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng của các chủ thể ký kết.
Thứ hai, chủ thể của hợp đồng thương mại được xác lập giữa thương nhân
với thương nhân hoặc giữa thương nhân với các chủ thể khác có nhu cầu giao dịch,
mua bán hàng hóa khi chọn LTM 2005. Bởi hoạt động thương mại là hoạt động của
các thương nhân hoặc giữa thương nhân với các chủ thể khác. Trong đó thương
nhân được xem là các chủ thể hoạt động một cách thương xuyên trong các hoạt
động có liên quan đến thương mại, các chủ thể khác được xem là các chủ thể hoạt
động không thường xuyên đó là tất cả các chủ thể của luật dân sự khi tham gia các
hoạt động thương mại.
Thứ ba, hình thức hợp đồng thương mại có thể xác lập bằng văn bản, bằng
lời nói hoặc hành vi cụ thể. Hợp đồng KDTM chủ yếu được ký kết bằng hình thức

văn bản hoặc các hình thức tương đương như: điện báo, telex… ngoài ra hoạt động
KDTM còn có thể được ký kết thông qua hình thức bằng lời nói, hành vi cụ thể.
Tuy nhiên đối với những trường hợp pháp luật bắt buộc bằng văn bản thì hợp đồng
thương mại phải được xác lập bằng văn bản. Đối với một số hợp đồng mà pháp
luật qui định phải bằng hình thức văn bản thì các bên phải xác lập hợp đồng bằng
văn bản, chẳng hạn như: hợp đồng cung ứng dịch vụ (Điều 74 LTM 2005), hợp
đồng nhượng quyền thương mại (Điều 285 LTM 2005)…
Thứ tư, về đối tượng của hợp đồng thương mại có thể là hàng hóa (động sản
hoặc bất động sản), dịch vụ,…nhưng phải không thuộc trường hợp danh mục hàng
hóa bị cấm. Chính vì hoạt động thương mại bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi cho nên đối
tượng của họp đồng thương mại không chỉ dừng lại ở hàng hóa hữu hình mà bao
gồm cả các loại hình dịch vụ và các hoạt động sinh lợi khác.2
1.1.1.3. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Hiện nay, trong khoa học pháp luật hợp đồng nói chung, hợp đồng KDTM
nói riêng chưa thống nhất về khái niệm “vi phạm” hợp đồng KDTM. Một số cách
2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật thương mại, Nxb Tư pháp, Hà Nội

9


hiểu về vi phạm như sau:
Theo từ điển Tiếng Việt, vi phạm “là không tuân theo hoặc làm trái lại
những điều quy định”3, lúc này vi phạm được thể hiện dưới dạng “không tuân
theo” hoặc “làm trái lại” nghĩa là buộc phải thực hiện nhưng không thực hiện hoặc
quy định không được làm thì lại làm. Vì thế, nếu áp dụng nội dung của khái niệm
trên vào trong quan hệ hợp đồng thì có thể hiểu rằng khi một bên không tuân theo
hoặc làm trái lại những gì mà các bên đã quy định trong hợp đồng được gọi là vi

phạm hợp đồng.
Hiện nay, vi phạm hợp đồng được một số công trình nghiên cứu định nghĩa
như sau “hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi của một bên đã xử sự trái với những
quy định của pháp luật hoặc trái với nội dung đã cam kết”4 hoặc “Vi phạm hợp
đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật
này”.5 Theo quan điểm của tác giả Lê Thị Tuyết Hà: “Vi phạm hợp đồng KDTM là
việc thương nhân thực hiện hành vi trái với cam kết, xâm phạm quyền lợi hợp pháp
của thương nhân còn lại trong hợp đồng KDTM, theo đó thương nhân có hành vi
vi phạm sẽ phải chịu áp dụng các biện pháp trách nhiệm trong thương mại tương
ứng.”6 Căn cứ vào các hành vi vi phạm nêu trên thì các chủ thể KDTM khi thực
hiện hành vi vi phạm hợp đồng KDTM đương nhiên cũng chỉ vi phạm xoay quanh
những hành vi cụ thể này. Tuy nhiên, để phân định giữa vi phạm hợp đồng nói
chung và vi phạm hợp đồng KDTM chúng ta không thể tìm kiếm sự khác nhau ở
đặc điểm về các dạng hành vi cụ thể ấy, vì hành vi không thực hiện, thực hiện
không đúng, chậm thực hiện của chủ thể vi phạm giữa vi phạm hợp đồng hay vi
phạm hợp đồng KDTM là hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, khi so sánh về các
tiêu chí khác như chủ thể vi phạm và bị vi phạm, đối tượng vi phạm, mục đích vi
3

Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.1112
Nguyễn Thị Dung (2001), Áp dụng trách nhiệm hợp đồng trong kinh doanh, Nxb Chính trị quốc
gia, tr.353
5
Điều 18 LTM 2005
6
Lê Thị Tuyết Hà (2016), Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam hiện
nay, luận án tiến sỹ luật học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, tr.38
4


10


phạm, hậu quả của việc vi phạm, pháp luật điều chỉnh cho hành vi vi phạm, cụ thể:
Về chủ thể trong quan hệ vi phạm hợp đồng KDTM là các thương nhân
(những cá nhân, tổ chức có tham gia hoạt động thương mại để nhằm tìm kiếm những
lợi nhuận nhất định). Những chủ thể tham gia vào hợp đồng KDTM (bên vi phạm và
bên bị vi phạm) là những chủ thể có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực thương
mại, buôn bán, xây dựng, đầu tư…, khác với các chủ thể vi phạm trong các loại hợp
đồng khác như hợp đồng dân sự đó có thể là những chủ thể không được xác định có
chuyên môn cao để tham gia vào thị trường thương mại mà đơn giản chỉ là những
chủ thể hoạt động mua hoặc bán để phục vụ nhu cầu tiêu dùng, khi chủ thể này thực
hiện những hành vi vi phạm với nhau thì đó chỉ là những hành vi vi phạm đơn giản,
nhỏ, không có tính chuyên nghiệp, tác hại không lớn.
Về đối tượng mà hợp đồng KDTM điều chỉnh là hoạt động thương mại là
những hoạt động khác biệt so với đối tượng do hợp đồng dân sự điều chỉnh (ví dụ
như A mua bó rau để dùng), hoạt động thương mại là những hoạt động đặc thù
được pháp LTM quy định, mang tính chuyên nghiệp, quy mô, phứt tạp, phải do
những chủ thể có trình độ cao mới có khả năng tham gia hoạt động này (ví dụ một
người nội trợ không có kiến thức chuyên môn sâu không thể thực hiện một hoạt
động phứt tạp như mua bán hoặc xúc tiến thương mại đến một trung tâm hội chợ
triển lãm được). Hơn nữa, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích tìm
kiếm lợi nhuận không phải là hoạt động đơn thuần mua để tiêu dùng. Vì vậy khi
một chủ thể vi phạm hợp đồng KDTM thông qua hoạt động thương mại cụ thể nào
đó sẽ là những vi phạm đến những hoạt động đặc thù mang tính chuyên nghiệp và
quy mô lớn, có mối liên kết cao tác động đến toàn bộ thị thường kinh doanh. Vi
phạm hoạt động thương mại sẽ là vi phạm những hoạt động kinh tế to lớn chứ
không đơn thuần là vi phạm đến một hoạt động nhỏ, đơn giản như hoạt động điều
chỉnh các quan hệ dân sự.
Về mục đích vi phạm hợp đồng KDTM của chủ thể vi phạm nhằm đạt được

những khoản lợi to lớn bất hợp pháp trong kinh doanh, mục đích này mang tính
tiêu cực. Mục đích không được đặt ra cho toàn bộ các thương nhân chân chính mà
11


xuất phát từ một số các thương nhân tham gia vào thị trường thương mại một cách
không bền vững “ăn xổi ở thì”. Mục tiêu nhằm tối đa hóa lợi nhuận của các chủ thể
thương mại vì vậy một số chủ thể bất chấp hành vi xâm phạm đến lợi ích của chủ
thể khác để nhằm trục lợi. Ngoài mục đích trục lợi bất chính thì còn có nhiều mục
đích khác như thực hiện hành vi vi phạm để đối thủ thua lỗ và phá sản nhằm loại
bỏ bớt chủ thể cạnh tranh trong thị trường. Nhưng trong tất cả các nguyên nhân
gây ra việc vi phạm nguyên nhân chính là nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong kinh
doanh. Vì mục đích là không phải là mục đích tốt đẹp nên nếu mục đích này diễn
ra càng nhiều thì dẫn đến những kết quả xấu, trì hoãn hoặc có thể làm suy sụp nền
kinh tế của một quốc gia.
Về hậu quả của vi phạm hợp đồng KDTM làm cho thương nhân bị vi phạm
mất đi những lợi nhuận hợp pháp và từ hành vi vi phạm hợp đồng KDTM của một
chủ thể thương mại có thể kéo theo hàng loạt các hành vi vi phạm khác. Nếu trong
hoạt động thương mại, có nhiều chủ thể thiếu năng lực kinh doanh mà tham gia
vào hoạt động này thì sẽ có nhiều sự vi phạm xảy ra, đó là những vi phạm không
chủ động, cố ý, nhưng nếu hành vi vi phạm mà do các chủ thể cố ý, ác ý để thực
hiện sẽ kìm hãm hoặc làm cho nền kinh tế đi xuống và còn có “bệnh” lây lan sang
các chủ thể thương mại khác. Từ đó, trong KDTM của một quốc gia hầu hết sẽ
hình thành những chủ thể chuyên vi phạm hợp đồng KDTM (tương tự lừa đảo
chiếm đoạt tài sản), nhưng khác hành vi lừa đảo đó là thông qua hành vi vi phạm
hợp đồng để trục lợi mà không bị kết luận là “tội lừa đảo” trong luật hình sự. Hậu
quả từ hành vi vi phạm hợp đồng KDTM để lại một hậu quả vô cùng to lớn, đó là
các thương nhân mất lòng tin lẫn nhau tạo ra một môi trường kinh doanh – thương
mại “lừa dối”, có tác hại đến việc quyết định sự sống còn của nền kinh tế trong
một quốc gia, đây là điểm khác biệt lớn giữa hành vi vi phạm hợp đồng KDTM với

các loại vi phạm hợp đồng khác.
Về pháp luật để điều chỉnh về vi phạm hợp đồng KDTM là pháp LTM mà
không phải là những văn bản điều chỉnh các hoạt động khác, hơn nữa pháp luật
điều chỉnh vi phạm hợp đồng KDTM không phải chỉ có LTM mà còn bao gồm
12


những văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh cả các lĩnh vực kinh doanh –
thương mại. Ngoài ra, còn có một đặc điểm mà vi phạm hợp đồng nói chung ví dụ
như vi phạm hợp đồng dân sự được điều chỉnh bởi BLDS và vi phạm hợp đồng
KDTM cũng được điều chỉnh bởi BLDS nếu LTM, các văn bản luật chuyên ngành
khác không điều chỉnh những hành vi vi phạm hợp đồng KDTM, nhưng không có
trường hợp ngược lại.
Như vậy, có thể hiểu: Vi phạm là những hành vi không thực hiện, chậm thực
hiện, chủ động vi phạm, không thể thực hiện mà không khái quát thành một loại vi
phạm để xác định mức độ vi phạm. Việc quy định như vậy không có ý nghĩa lý luận
để xác định loại trách nhiệm pháp lý tương ứng. Mức độ vi phạm áp dụng biện pháp
trách nhiệm pháp lý nào tùy thuộc vào tòa án quyết định. Vì vậy, việc quy định như
vậy sẽ không có ý nghĩa trong khi áp dụng, gây tùy tiện trong việc áp dụng trách
nhiệm pháp lý do vi phạm.
Từ những mối liên hệ với vi phạm, tác giả rút ra những đặc điểm của vi
phạm hợp đồng KDTM như sau:
Vi phạm hợp đồng KDTM có những đặc điểm chung của vi phạm hợp đồng
như thực hiện những hành vi trái với cam kết trong hợp đồng, trong pháp luật về
hợp đồng có liên quan; Bên vi phạm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
bên còn lại trong hợp đồng mà không phải xâm phạm đến quyền lợi của các bên
ngoài hợp đồng, nhà nước, xã hội; Xâm phạm đến đối tượng mà các bên trong hợp
đồng hướng đến, đối tượng này được các bên trong hợp đồng xác định rõ ràng mà
không phải là ngẫu nhiên ngoài xã hội. Hơn nữa, vi phạm hợp đồng là việc thực
hiện những hành vi trái với cam kết hoặc với pháp luật hợp đồng thông qua những

hành vi cụ thể như không thực hiện hợp đồng như không giao hàng, không thanh
toán, không mua hàng hoặc thực hiện nhưng không đầy đủ như giao hàng thiếu,
không đúng chất lượng, thanh toán thiếu, nhận hàng không đầy đủ; chậm giao
hàng… Đây chính là các biểu hiện của hành vi vi phạm hợp đồng nói chung.
Vi phạm về hợp đồng trong KDTM có thể được phân loại thành những vi
phạm cơ bản và những vi phạm không cơ bản. Vi phạm cơ bản là vi phạm gây
13


thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng
kể, bị mất đi lợi ích mà họ có quyền mong đợi từ hợp đồng, trừ trường hợp bên vi
phạm không tiên liệu được và một người có lí trí bình thường cũng sẽ không tiên
liệu được hậu quả nếu họ cũng ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự. Vi phạm cơ bản
là vi phạm các điều khoản chủ yếu của hợp đồng, dựa vào việc phân nhóm các
điều khoản hợp đồng theo quy định như điều khoản tùy nghi, điều khoản chủ yếu
và điều khoản thường lệ của hợp đồng để thấy rằng vi phạm cơ bản tức là không
thực hiện đúng các điều khoản chủ yếu đó. Hoặc vi phạm cơ bản là vi phạm
nghiêm trọng hoặc cơ bản mà theo đó bên bị vi phạm không những được áp dụng
biện pháp BTTH mà còn được quyền hủy hợp đồng. Về mặt hậu quả những vi
phạm cơ bản sẽ gây ra mức độ thiệt hại lớn mà làm cho bên bị vi phạm hoàn toàn
không đạt được mục đích của hợp đồng, mục đích này được các bên xác định kể từ
khi giao kết hợp đồng. Ngoài ra, để khẳng định là vi phạm cơ bản không phụ thuộc
vào chủ thể trong hợp đồng hay bên thứ ba thực hiện hành vi vi phạm và không
căn cứ vào hình thức lỗi, không căn cứ vào trước đó đã có vi phạm mà tái phạm
hay bị nhắc nhở do hành vi vi phạm không cơ bản, mà để xác định vi phạm cơ bản
chỉ dựa vào việc một bên (tức là bên bị thiệt hại) có đạt được mục đích của hợp
đồng hay không. Vi phạm không cơ bản là những vi phạm không ảnh hưởng đến
các điều khoản trọng yếu của hợp đồng, khi có vi phạm này xảy ra, bên bị vi phạm
không được áp dụng các biện pháp trách nhiệm tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp
đồng đối với bên vi phạm, mà chỉ áp dụng các biện pháp xử lý như buộc thực hiện

đúng hợp đồng, phạt vi phạm, BTTH nếu có thiệt hại xảy ra7. Giống với vi phạm
cơ bản, vi phạm không cơ bản là vi phạm hợp đồng và bên bị vi phạm cũng có thể
giảm nhẹ hoặc không buộc trách nhiệm đối với bên vi phạm, nhưng không được
phép quyết định áp dụng biện pháp trách nhiệm làm chấm dứt hợp đồng đối với
bên vi phạm. Việc hạn chế quyền áp dụng các biện pháp trách nhiệm ảnh hưởng
đến số phận của hợp đồng nhằm tránh tình trạng bên bị vi phạm tùy tiện áp dụng
biện pháp trách nhiệm hủy hợp đồng, biện pháp trách nhiệm cao nhất làm chấm
7

LTM 2005, Điều 293

14


dứt quan hệ thương mại đối với bên vi phạm, tuy nhiên, đối với việc áp dụng biện
pháp trách nhiệm nhẹ nhất cho bên vi phạm đối với bên có nghĩa vụ được pháp
luật cho phép. Với điểm này cho thấy, đặc điểm của vi phạm hợp đồng khác với
các loại vi phạm pháp luật khác, đó là chỉ có chủ thể duy nhất trong hợp đồng mới
có quyền xác định chủ thể còn lại có bị áp dụng trách nhiệm hay không bị áp dụng
trách nhiệm hoặc khi bên vi phạm có hành vi vi phạm thì được giảm hoặc miễn
hoàn toàn trách nhiệm. Điều này hoàn toàn khác với các trường hợp mà pháp luật
quy định miễn trách nhiệm cho bên vi phạm như pháp LTM hiện hành.
Các hành vi vi phạm nêu trên không nói lên được việc khi hai bên trong hợp
đồng đều vi phạm với nhau trong cùng một hợp đồng8. Vi phạm do hai hoặc các bên
trong hợp đồng đều có hành vi vi phạm, khi các bên trong cùng một hợp đồng đều
có hành vi vi phạm thì tương ứng với hành vi vi phạm của mình mỗi bên vi phạm sẽ
chịu áp dụng biện pháp trách nhiệm tương ứng, nhưng nếu bên nào có hành vi vi
phạm nghiêm trọng hơn (nặng hơn bên còn lại) thì bên vi phạm ít nghiêm trọng
được quyền ưu tiên lựa chọn biện pháp trách nhiệm áp dụng cho bên còn lại. Ngoài
ra, vi phạm của một bên do sự vi phạm của bên thứ ba, là sự vi phạm hợp đồng của

một bên, do hành vi vi phạm của bên thứ ba gián tiếp gây ra hành vi vi phạm này, có
nhiều quan điểm khác nhau về bên thứ ba (i) người đại diện theo pháp luật hoặc theo
ủy quyền một hoặc các bên trong hợp đồng (ii) bên được ủy quyền mà không phải là
người đại diện theo pháp luật của chủ thể hợp đồng (iii) bên có quan hệ hợp đồng
với một trong các chủ thể trong hợp đồng đang bị vi phạm9.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng
thương mại
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng KDTM là hệ thống các biện pháp
có vai trò đảm bảo cho những cam kết trong hợp đồng được thực thi theo đúng quy
định của pháp luật, với chức năng giáo dục việc tuân thủ các quy phạm pháp luật về
hợp đồng KDTM, phòng ngừa các vi phạm phát sinh, khôi phục lại tình trạng của
8

Steven J. Burton, Principles of contract law, Thomson West Pulisher, tr.5
Vương Lợi Minh (2003), Lý thuyết trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, Đại học pháp chính Trung
quốc, (Phiên bản Tiếng Trung Quốc được dịch sang Tiếng Việt)
9

15


một bên đã bị xâm phạm10. Như vậy, BTTH do vi phạm hợp đồng KDTM là biện
pháp hữu hiệu điều chỉnh tính công bằng trong quan hệ hợp đồng giữa các thương
nhân khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng KDTM là một loại trách nhiệm
trong trách nhiệm dân sự, nên chúng mang các đặc điểm chung của trách nhiệm
dân sự, khi dựa trên những đặc điểm về trách nhiệm dân sự, khi xem xét đặc điểm
của BTTH do vi phạm hợp đồng KDTM chúng ta nhận thấy có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến việc xác nhận đặc điểm của chúng, (i) xét về bản chất, loại trách nhiệm
này là một quan hệ pháp luật giữa các thương nhân trong đó có bên vi phạm và bên

bị vi phạm, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trước bên bị vi phạm nếu không tự
nguyện thi hành sẽ bị cơ quan nhà nước cưỡng chế thực hiện (cụ thể là tòa án kinh tế
và trọng tài thương mại). (ii) xét về chức năng, ngoài những chức năng phòng ngừa
còn có chức năng xử lý vi phạm, với mục đích chính là khôi phục - đền bù ngang
bằng không mang tính trừng phạt, ngoài ra còn có chức năng điều tiết các hoạt động
thương mại phát triển theo một trật tự nhất định (iii) xét về phương pháp điều chỉnh
các quan hệ thương mại là phương pháp bình đẳng - thỏa thuận và tự định đoạt. Với
những ảnh hưởng từ những yếu tố này, BTTH do vi phạm hợp đồng KDTM vừa
mang đặc trưng của trách nhiệm dân sự và có những đặc trưng riêng biệt.
Là loại trách nhiệm áp dụng cho thương nhân có hành vi vi phạm hợp đồng
KDTM nhằm bảo vệ thương nhân bị vi phạm và đảm bảo sự công bằng về trách
nhiệm và quyền lợi cho các bên trong hợp đồng KDTM khi có hành vi vi phạm
xảy ra.
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng KDTM được thể hiện ở quy định
pháp luật về các cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng nó. Theo đó, bên bị vi
phạm có quyền yêu cầu tòa án, trọng tài cưỡng chế áp dụng các biện pháp trách
nhiệm cho bên vi phạm. Hoặc bên bị vi phạm có thể đề nghị tòa án (cụ thể là tòa
kinh tế thụ lý để giải quyết), trọng tài thương mại áp dụng trách nhiệm này cho bên

10

Nguyễn Thị Dung (2001), Áp dụng trách nhiệm hợp đồng trong kinh doanh, Nxb Chính trị quốc
gia, tr.46

16


vi phạm. Đây chính là điểm khác biệt trong chủ thể áp dụng BTTH do vi phạm hợp
đồng KDTM với hợp đồng dân sự. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng BTTH do vi
phạm hợp đồng KDTM rộng hơn so với trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói

chung, đó là trọng tài thương mại có thẩm quyền để áp dụng loại trách nhiệm này,
nhưng ví dụ như về trách nhiệm dân sự thì không do cơ quan này xét xử.
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng KDTM được thực thi thông qua
một hệ thống các biện pháp trách nhiệm pháp lý được quy định trong phần chế tài của
bộ phận quy phạm pháp luật trong LTM bao gồm những biện pháp như buộc thực
hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, BTTH, tạm ngừng hợp đồng, đình chỉ hợp đồng,
hủy hợp đồng và một số biện pháp do các bên thỏa thuận khác.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do phạm hợp đồng khác với trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ở góc độ tính chất, cơ sở pháp lý, điều kiện phát sinh trách nhiệm và
mức bồi thường thiệt hại. Nếu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là trách nhiệm
mà người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác
thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất do mình gây ra thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự chỉ đặt ra khi có thiệt hại
người có trách nhiệm bồi thường phải bồi thường thiệt hại đó. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh do sự vi phạm pháp luật cua một bên mà thiệt hại
xảy ra, có lỗi, có hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả của hành vi trái pháp
luật gây ra. Chủ thể chịu trách nhiệm trong vi phạm hợp đồng là bên tham gia hợp
đồng mà không thể là bên thứ ba, trong khi chủ thể chịu trách nhiệm của bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là người có hành vi trái pháp luật; hoặc người khác như cha,
mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người giám hộ, pháp nhân đối
với người của pháp nhân,… Mức bồi thường của thiệt hại trong hợp đồng có thể thấp
hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra. Mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ
có thể được giảm trong một số trường hợp đặc biệt như: người gây thiệt hại có lỗi vô ý
và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ.

Từ những đặc điểm nói trên, ta có thể hiểu BTTH do vi phạm hợp đồng
KDTM như sau: Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng KDTM là hậu quả mà
17



×