Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.94 KB, 84 trang )

VŨ THANH TÙNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THỦ TỤC SƠ THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

2016 - 2018

VŨ THANH TÙNG

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THỦ TỤC SƠ THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

VŨ THANH TÙNG



CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG NGỌC THỈNH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậỵ, chính xác và trung thực.
Những kết luận của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.

Hà Nội, ngày 30 tháng 9 năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

VŨ THANH TÙNG


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo – TS.Hoàng
Ngọc Thỉnh, người đã hướng dẫn, tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện
và hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo của Viện đại học
Mở Hà Nội những người đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức, kinh
nghiệm cho tôi trong suốt thời gian qua.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ớn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã

quan tâm, động viên và đồng hành cùng tôi trong thời gian học tập và hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện luận văn nhưng không thể tránh khỏi những
thiếu sót do kỹ năng và kiến thức của tôi cũng vẫn còn hạn chế, kính mong các thầy
cô góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn nữa./.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn

Vũ Thanh Tùng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1 - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP SƠ THẨM ..6
1.1. Một số vấn đề lý luận về giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại ...6
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại ..................................................6
1.1.2. Khát quát chung về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án..11
1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Tòa án nhân dân ở nước ta ............................................................................13
1.2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại .............................13
1.2.2. Thẩm quyền của Tòa án cấp sơ thẩm ..............................................................17
1.2.3. Khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại ........................22
1.2.4. Chuẩn bị xét xử vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại .............................26
1.2.5. Phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại .........32
Kết luận chương 1 .....................................................................................................40
Chương 2 - THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ...........................................41
2.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân cấp

sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ......................................................................41
2.1.1. Kết quả giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục sơ thẩm của
Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ........................................................41
2.1.2. Những thành tựu đạt được và những tồn tại, hạn chế trong quá trình giải quyết
các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại............................................................48
2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm............................................................59
2.2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại theo thủ tục tố tụng dân sự. ................................................................................59
2.2.2. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
theo thủ tục tố tụng dân sự. .......................................................................................62
2.2.3. Kiến nghị về thực hiện pháp luật. ...................................................................64
2.2.4. Một số kiến nghị về ngành Tòa án nói chung .................................................68
Kết luận chương 2 .....................................................................................................73
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................76


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Ý nghĩa của từ viết tắt

1

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự


2

HĐXX

Hội đồng xét xử

3

KDTM

Kinh doanh thương mại

4

LTM

Luật Thương mại

5

TAND

Tòa án nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chưa bao giờ các hoạt động
kinh doanh thương mại (KDTM) lại có thể diễn ra một cách thuận lợi đến như vậy.

Công nghệ thông tin giúp cho việc giao dịch giữa các bên diễn ra nhanh chóng, giảm
thiểu rất nhiều chi phí phát sinh trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch. Tuy
nhiên, số lượng các giao dịch KDTM tăng lên nhanh chóng như vậy hệ quả tất yếu
cũng kèm theo rất nhiều tranh chấp phát sinh. Việc giải quyết tranh chấp là cực kỳ
quan trọng vừa là để đảm bảo quyền lợi cho các bên, vừa là để tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi. Có nhiều phương thức để giải quyết tranh chấp nhưng phương thức
giải quyết thông qua Tòa án vẫn là phương thức truyền thống và hiệu quả nhất do bản
án, quyết định của Tòa án được đảm bảo thi hành bởi hệ thống cơ quan thi hành án
của nhà nước. Việc các bên phát sinh tranh chấp lựa chọn giải quyết tại Tòa án khiến
các vụ án tranh chấp KDTM Tòa án thụ lý, giải quyết không ngừng gia tăng cả về số
lượng cũng như mức độ phức tạp.
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 ra đời quy định rất nhiều điểm cải
tiến trong thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung cũng như các tranh chấp
KDTM nói riêng, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan Tòa án cũng như các bên trong
việc giải quyết tranh chấp. Tuy vậy, qua thực tế giải quyết, xét xử các vụ án KDTM
vẫn còn tồn tại những vướng mắc, khó khăn trong nhiều quy phạm pháp luật dẫn đến
việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên.
Do vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” nghiên cứu làm
luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài
Vấn đề thủ tục giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án đã có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học, có nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như:

1


- Bài viết của tác giả Nguyễn Như Phát trong tạp chí Nhà nước và pháp luật số
11 năm 2001, “Pháp luật tố tụng và các hình thức tố tụng kinh tế”.
- Bài viết của tác giả Phan Chí Hiếu trong tạp chí Nhà nước và pháp luật số 06

năm 2005, “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh theo Bộ luật tố tụng
dân sự và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành”.
- Bài viết của tác giả Tưởng Duy Lượng trong tạp chí Tòa án nhân dân số 10 và
số 11 năm 2004, “Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh được quy định
trong Bộ luật tố tụng dân sự”.
- Bài viết của tác giả Dương Nguyệt Nga trong tạp chí Tòa án nhân dân số 16
năm 2007: “Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo
pháp luật Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”.
- Bài viết của tác giả Đặng Thanh Hoa trong tạp chí Dân chủ và pháp luật số 09
năm 2011: “Có cần thiết phân biệt "Tranh chấp dân sự" với "Tranh chấp kinh doanh,
thương mại" trong quá trình giải quyết tại toà án?”.
- Bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Hưng trong tạp chí Dân chủ và pháp luật số
08 năm 2015: “Vướng mắc trong việc thụ lý tranh chấp kinh doanh thương mại tại
Tòa án”.
- Bài viết của tác giả Vũ Gia Trưởng trong tạp chí Luật sư Việt Nam số 03 năm
2016: “Những vướng mắc khi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa
án”.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu và bài viết đăng trên các báo, tạp chí
chuyên ngành liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp KDTM mà tác giả không
thể liệt kê hết được.
Các công trình, nghiên cứu và các bài viết trên đã tiếp cận đánh giá chi tiết nhiều
vấn đề trong thủ tục giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án. Tuy nhiên các công
trình trên mới nghiên cứu một cách tổng thể, chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về thủ tục giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án nhân dân (TAND) cấp

2


sơ thẩm, đặc biệt trong sau thời điểm BLTTDS năm 2015 có hiệu lực kèm theo rất
nhiều thay đổi về các thủ tục tố tụng tại Tòa án. Sau khi nghiên cứu cụ thể các công

trình, bài viết ở trên đối chiếu so sánh với những thay đổi trong các quy định của
BLTTDS năm 2015 và gắn với thực tiễn tại TAND cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, luận văn mang tính lý luận và thực tiễn về thủ tục giải quyết tranh chấp
KDTM để thấy được những điểm mới, điểm tiến bộ cùng với đó là những bất cập,
khó khăn trong việc áp dụng vào thực tiễn tại Tòa án từ đó đưa ra những biện pháp,
đề xuất nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả trong việc giải quyết loại tranh chấp này tại
Tòa án.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thủ
tục giải quyết tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền của TAND cấp sơ thẩm trên cơ
sở so sánh giữa BLTTDS năm 2015 với BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm
2011 từ đó phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp
KDTM tại TAND cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đồng thời đưa ra các
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết loại tranh chấp này tại Tòa án.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được các mục đích trên, luận văn cần tập trung vào các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục sơ thẩm trong việc giải quyết
tranh chấp KDTM;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp KDTM theo thủ tục sơ
thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KDTM theo
thủ tục sơ thẩm.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3


* Đối tượng nghiên cứu:
Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục tố tụng dân sự qua các thời

kỳ khác nhau đặc biệt là thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp KDTM và thực tiễn áp
dụng tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về việc
giải quyết tranh chấp KDTM tại TAND cấp sơ thẩm và các quy định của pháp luật
liên quan đến vấn đề tố tụng. Những quy định của pháp luật nội dung về KDTM sẽ
chỉ được đề cập đến để bổ trợ, làm rõ thêm các vấn đề về tố tụng trong quá trình giải
quyết tranh chấp KDTM tại TAND cấp sơ thẩm.
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp KDTM
tại TAND cấp sơ thẩm. Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn không đề cập đến việc
giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án cấp phúc thẩm cũng như thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm.
Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục sơ thẩm
giải quyết tranh chấp KDTM tại TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn
từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 5 năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận:
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về KDTM nói chung
và giải quyết tranh chấp KDTM nói riêng.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như:

4


- Phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, phương pháp lịch sử… được
sử dụng trong mục 1 chương 1 để nghiên cứu tổng quan những vấn đề về tranh chấp
KDTM, giải quyết tranh chấp KDTM và vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh

chấp KDTM.
- Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá, phương pháp phân tích,
phương pháp bình luận… được sử dụng trong mục 2 chương 1 để tìm hiểu các quy
định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp KDTM tại TAND cấp sơ
thẩm.
- Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp khái
quát… được sử dụng trong chương 2 để đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp
KDTM tại TAND cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ đó đưa ra các đề xuất,
giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
* Ý nghĩa lý luận:
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về thủ tục giải quyết
tranh chấp KDTM tại TAND cấp sơ thẩm theo quy định mới của BLTTDS năm 2015.
Việc nghiên cứu thủ tục giải quyết tranh chấp KDTM thông qua thực tiễn giải quyết
tại Tòa án nhằm phát hiện ra những hạn chế, thiếu sót, bất cập trong các quy định của
pháp luật và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc giải quyết loại tranh
chấp này.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo đối với những
người làm công tác giải quyết, xét xử tranh chấp KDTM trong hệ thống TAND.
Những kết luận, đề xuất mà luận văn nêu ra đều có cơ sở khoa học và thực tiễn nên
có giá trị tham khảo trong việc sửa đổi pháp luật.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP SƠ THẨM

1.1. Một số vấn đề lý luận về giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại
Theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, mâu thuẫn là quy luật chung của xã
hội, là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển. Mâu thuẫn luôn luôn tồn tại như một
tất yếu tự nhiên trên mọi lĩnh vực, tạo nên sự phát triển của xã hội. Tranh chấp là
những xung đột thường phát sinh từ những mâu thuẫn và từ những lợi ích riêng. Tuy
nhiên, mâu thuẫn và tranh chấp lại tạo nên những phát triển của xã hội, góp phần xây
dựng xã hội ngày càng hiện đại, văn minh.
Tranh chấp trong kinh doanh hay tranh chấp thương mại là thuật ngữ quen thuộc
trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Hệ thống pháp luật Việt Nam
đã từng tồn tại những khái niệm khác nhau để biểu đạt lĩnh vực tranh chấp này. Mặc
dù không xây dựng được một khái niệm chuẩn mực về tranh chấp kinh tế, nhưng
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và Nghị định số 116/CP
ngày 05/9/1994 cũng đã liệt kê các tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế, thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án kinh tế và trọng tài kinh tế. Theo các văn bản pháp
luật này, các tranh chấp kinh tế bao gồm:
- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp
nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh;
- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty;
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu;

6


- Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Với hàm ý tiếp cận này, khái niệm “tranh chấp kinh tế” đã không lột tả hết được
chân dung thực của nó. Thực chất, “tranh chấp kinh tế” là một khái niệm có nội hàm
rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có nội dung kinh tế chứ không chỉ bao gồm các
tranh chấp kinh tế nêu trên. Các tranh chấp trên mới chỉ là nhóm tranh chấp điển hình

có nội dung kinh tế. Bởi vậy, việc sử dụng khái niệm “tranh chấp kinh tế” để gắn cho
các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh đã tạo ra sự bất tương thích giữa
nội hàm của khái niệm với hàm ý được tiếp cận.
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật Thương
mại (LTM) năm 1997. Theo LTM năm 1997, tranh chấp thương mại là tranh chấp
phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt
động thương mại. LTM năm 2005 đưa ra khái niệm khá đơn giản về hoạt động thương
mại nhưng cũng khắc họa đủ nội hàm của khái niệm. Theo khoản 1 Điều 3 LTM năm
2005, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác.
Theo khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014, Kinh doanh là việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cũng liệt kê các tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của Trọng tài, bao gồm:
1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài.

7


BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 cũng như BLTTDS năm 2015
cũng liệt kê các tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo
Điều 30 BLTTDS năm 2015, tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án, bao gồm:
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,

tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội
đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công
ty.
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, mặc dù BLTTDS không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại”
hay “tranh chấp trong kinh doanh” mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về KDTM”,
nhưng nội dung của các tranh chấp về KDTM được liệt kê tại Điều 30 BLTTDS năm
2015 thực chất là các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của LTM năm 2005
và Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy có sự khác nhau về cách thức biểu đạt
và ngôn ngữ sử dụng, nhưng nhìn chung quan niệm về hoạt động kinh doanh hay hoạt
động thương mại và tranh chấp trong kinh doanh hay tranh chấp thương mại được thể
hiện qua các quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam là có tính tương
đồng.

8


Có thể coi quan niệm tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng giữa
các chủ thể phát sinh trong hoạt động thực hiện các hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm, cung ứng các dịch vụ trên thị trường, xúc tiến thương mại và các hoạt động
sinh lợi khác.

Cách định nghĩa này mặc dù còn nhiều hạn chế song cũng đã chỉ ra được bản
chất của tranh chấp KDTM là mâu thuẫn, xung đột về những lợi ích phát sinh khi
tham gia các hoạt động KDTM. Tuy nhiên, phạm vi giữa mâu thuẫn, xung đột và
tranh chấp là khác nhau, chỉ khi nào mâu thuẫn và xung đột lớn, đến mức không thể
điều hòa thì tranh chấp mới xảy ra.
Ngoài các định nghĩa trên về tranh chấp KDTM thì giáo trình LTM của trường
Đại học Luật Hà Nội cũng đưa ra quan điểm về tranh chấp thương mại: “Tranh chấp
thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên trong quá trình thực hiện các họat động thương mại.”.
Từ những phân tích trên, có thể thấy hiện nay, vẫn chưa đưa ra được cách hiểu
thống nhất, đặc biệt là chưa có văn bản pháp lý nào quy định cụ thể khái niệm tranh
chấp KDTM mà mới chỉ dừng lại ở vấn đề quan điểm của một số tác giả trên cơ sở
tiếp cận nó thông qua luật nội dung và luật tố tụng. Từ những quan điểm trên, có thể
hiểu một cách ngắn gọn: “Tranh chấp KDTM thực chất là những mâu thuẫn, bất
đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia các quá trình
của hoạt động KDTM”.
Với cách định nghĩa này, tranh chấp KDTM khác với các tranh chấp trong dân
sự, lao động, hành chính, hôn nhân gia đình ở các điểm cơ bản sau đây:
- Nội dung tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, tài sản. Đó
là do mục đích trong các hoạt động kinh doanh là lợi nhuận và đối tượng đầu tư cũng
như điều nhằm đạt được trong đầu tư đều là giá trị tài sản.
- Chủ thể trong tranh chấp KDTM là các chủ thể tham gia hoạt động KDTM với
mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, trên thực tế chủ thể của tranh chấp KDTM chủ
yếu là thương nhân, những người đầu tư kinh doanh.
9


- Tranh chấp KDTM là tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện các hoạt
động KDTM giữa các chủ thể, khi ít nhất một bên cho là quyền và nghĩa vụ hợp pháp
của mình bị bên kia xâm phạm, và yêu cầu phải được giải quyết.

- Tranh chấp KDTM phát triển gắn liền với các hoạt động kinh doanh, chịu sự
tác động và điều tiết của yếu tố thị trường, quy luật cung cầu và sự biến đổi của giá
cả.
Tranh chấp KDTM có thể phát sinh trong các trường hợp cơ bản sau:
- Tranh chấp trong kinh doanh diễn ra giữa các chủ thể tham gia kinh doanh. Cụ
thể, đó là những tranh chấp trong các khâu đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
- Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư: Loại
hình tranh chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài, thực
hiện các Điều ước quốc tế khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương và đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện các Điều ước quốc tế về
thương mại song phương và đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong việc thực
hiện các Điều ước quốc tế trong khuôn khổ thương mại đa phương như: tranh chấp
giữa Mỹ và EU về nhập khẩu hàng hóa tại Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Ở nước ta, trong cơ chế quản lý tập trung, kế hoạch trước đây, do các doanh
nghiệp bị đặt trong quan hệ cấp phát - giao nộp theo chỉ tiêu pháp lệnh của cấp trên,
Nhà nước lo “đầu vào” và lo cả “đầu ra”, vì vậy doanh nghiệp không có quyền và
cũng không quan tâm đến mối quan hệ hợp đồng với các bạn hàng của mình. Tranh
chấp KDTM lúc đó dù có phát sinh nhưng rất ít và bản chất khác với tranh chấp
KDTM trong cơ chế hiện hành. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, với sự tham gia
của nhiều thành phần kinh tế thuộc nhiều hình thức sở hữu khác nhau, các quan hệ
kinh tế ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. dưới sự tác động của quy luật cạnh
tranh, tranh chấp thương mại do vậy cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại, gay

10


gắt, phức tạp hơn về tính chất, quy mô. Chính vì vậy việc áp dụng các hình thức và
phương thức giải quyết tranh chấp cho phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách

quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, đảm bảo
nguyên tắc pháp chế, thông qua đó góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh để
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2. Khát quát chung về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa
án
Giải quyết tranh chấp là việc dựa trên các cách thức, phương pháp hoạt động để
điều chỉnh bất đồng, nhằm khắc phục xung đột về lợi ích , quan điểm trái ngược nhau
của các bên.
Giải quyết tranh chấp KDTM theo nghĩa chung nhất có thể được hiểu là cách
thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất đồng, các xung đột nhằm
khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các thương nhân và các chủ thể kinh doanh khác, bảo vệ trật tự kỷ cương
của xã hội.
Cơ chế giải quyết tranh chấp KDTM ở mỗi quốc gia lại khác nhau, tùy thuộc
vào trình độ phát triển của quan hệ kinh tế giữa các bên, phong tục tập quán…Các
bên tranh chấp có thể lựa chọn các phương thức giải quyết khác nhau gồm có: thương
lượng, hòa giải, trọng tài, Tòa án.
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp các bên tranh chấp cùng nhau
bàn bạc và đi đến thỏa thuận một cách thức giải quyết tranh chấp mà không cần đến
sự tác động hay giúp đỡ của người thứ ba. Nếu việc thương lượng thành công sẽ cho
phép hai bên đạt đến một sự thỏa thuận. Thỏa thuận này được thừa nhận như một hợp
đồng, sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể. Từ lâu thương lượng đã được xem là một
phương thức giải quyết được ưa chuộng vì những ưu điểm như: Ít tốn kém về thời
gian, về tiền bạc; Đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng và hiệu quả; Không gây tác động
xấu đến hoạt động kinh doanh và quan hệ hợp tác giữa hai bên. Tuy vậy, thương

11


lượng cũng có những hạn chế cần chú ý là: Chỉ thích hợp đối với các bên thực sự có

thiện chí muốn tìm giải pháp đối với tranh chấp.
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua sự tham gia của bên thứ
ba, đóng vai trò trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm
các giải pháp nhằm chấm dứt xung đột hoặc bất hòa... Theo thông lệ chung, hòa giải
có thể được tiến hành ngoài thủ tục tố tụng và cũng có thể được thực hiện theo thủ
tục tố tụng của Tòa án hoặc trọng tài. Hòa giải ngoài tố tụng được đôi bên tranh chấp
lựa chọn trung gian hòa giải, không bị điều chỉnh bởi quy định của pháp luật. Hòa
giải trong giải quyết tranh chấp KDTM được đánh giá là có nhiều ưu điểm về thời
gian giải quyết ngắn, chi phí tương đối thấp, thủ tục đơn giản và giữ được hòa khí
của các bên tranh chấp song thực tế, pháp luật lại thiếu những thiết chế bắt buộc thực
hiện kết quả hòa giải.
Trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận đưa những
tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài để giải quyết và trọng
tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp.
Giải quyết tranh chấp KDTM bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là một bên thứ ba độc lập nhằm chấm
dứt các xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp
phải thực hiện. Phương thức trọng tài có ưu điểm là bảo đảm tối đa quyền tự do định
đoạt trên nhiều phương diện (lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn địa điểm, thủ tục,
phương thức giải quyết tranh chấp...); thủ tục đơn giản, ngắn gọn và có tính bảo mật
cao.
Nhìn chung, các giải quyết tranh chấp KDTM thương lượng, hòa giải, trọng tài
đều mang những đặc điểm riêng với những ưu điểm và hạn chế nhất định. Tuy nhiên
phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống nhất và cũng hiệu quả nhất là phương
thức Tòa án do đây là phương thức có sự tham gia giải quyết của đại diện quyền lực
nhà nước.

12



Giải quyết tranh chấp bằng Toà án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan
tài phán Nhà nước thực hiện. Toà án nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán
quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước. Do đó các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của Tòa án như một giải pháp
để bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử dụng
cơ chế thương lượng hoặc hoà giải và cũng không muốn đưa vụ tranh chấp của họ để
giải quyết bằng trọng tài. Thông thường thì hình thức giải quyết tranh chấp KDTM
thông qua Tòa án được tiến hành khi mà việc áp dụng cơ chế thương lượng không có
hiệu quả và các bên tranh chấp cũng không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết
tranh chấp tại trọng tài.
Biện pháp giải quyết tranh chấp này thường chia làm hai khuynh hướng:
Khuynh hướng thứ nhất là tổ chức Tòa án chuyên trách (hay Tòa án chuyên biệt) để
giải quyết các tranh chấp KDTM với tính chất là một dạng tranh chấp đặc thù (thường
thấy ở các nước Pháp, Đức); khuynh hướng thứ hai là trao thẩm quyền giải quyết
tranh chấp KDTM cho Tòa án thường hay còn gọi là tòa dân sự (thường thấy ở các
nước Nhật, Mỹ).
Bên cạnh lợi thế cơ bản là trình tự thủ tục tố tụng chặt chẽ và độ tin cậy vào
hiệu lực của phán quyết, hình thức giải quyết thông qua Tòa án cũng có những hạn
chế nhất định. Kinh nghiệm chung ở nhiều nước cho thấy, thủ tục giải quyết tranh
chấp thông qua Tòa án thường dài hơn so với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Hơn nữa, nguyên tắc xét xử công khai tại Tòa án không phù hợp với tính chất của
hoạt động kinh doanh và tâm lý của giới doanh nghiệp (có thể làm sút giảm uy tín
của các bên trên thương trường; lộ các bí mật kinh doanh...), ngoài ra, bản án xét xử
xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền kháng cáo khiếu nại nên thời
gian kéo dài.
1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại Tòa án nhân dân ở nước ta
1.2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

13



Toà án là cơ quan tài phán của nhà nước tiến hành áp dụng pháp luật trong
trường hợp xảy ra tranh chấp KDTM phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các
chủ thể mà họ không tự giải quyết được với nhau và một bên làm đơn khởi kiện yêu
cầu sự can thiệp của Toà án để bảo vệ quyền lợi của mình. Khi giải quyết tranh chấp
KDTM, Toà án có thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ đóng vai trò là bên thứ ba, là cơ
quan tài phán để giải quyết tranh chấp được yêu cầu. Trong quá trình giải quyết tranh
chấp trên cơ sở áp dụng pháp luật hiện hành, Toà án có thẩm quyền sẽ nhân danh
quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để ra bản án hoặc quyết định có giá
trị bắt buộc các bên tranh chấp và tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện. Bản
án, quyết định của toà án được cơ quan thi hành án của nhà nước bảo đảm thi hành.
Các nguyên tắc giải quyết vụ án KDTM là những tư tưởng chỉ đạo, hướng dẫn
việc giải quyết vụ án KDTM và được ghi nhận trong các quy phạm pháp luật về thủ
tục giải quyết các vụ án KDTM. Tòa án khi giải quyết tranh chấp KDTM phải tuân
theo các nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của cơ quan Tòa án nói chung
được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức TAND năm 2014 cũng như
các nguyên tắc riêng trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án tranh chấp KDTM.
* Những nguyên tắc chung
Cũng như các hoạt động tố tụng khác, trong quá trình giải quyết tranh chấp
KDTM, TAND phải tuân theo các nguyên tắc chung về tố tụng được quy định trong
Hiến pháp và Luật tổ chức TAND. Cụ thể, đó là các nguyên tắc như: khi xét xử, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử công
khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Tòa án đảm bảo cho nhân dân được
dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước tòa... Trên cơ sở những nguyên tắc
chung này, thủ tục giải quyết các vụ án KDTM xây dựng trên cơ sở những nguyên
tắc riêng dựa trên những quy định trong BLTTDS.
* Những nguyên tắc riêng
Tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự: được quy định tại Điều 3 BLTTDS
năm 2015. Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng và cơ bản của tố tụng

14


dân sự. Nguyên tắc này đề cập đến phạm vi mọi hoạt động tố tụng dân sự đều phải
tuân theo các quy định của BLTTDS năm 2015, bất kỳ hoạt động tố tụng dân sự nào
không tuân theo đều là vi phạm pháp luật. Các chủ thể tố tụng dân sự khi tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đều phải tuân
theo các quy định của BLTTDS năm 2015. Pháp luật không lại trừ áp dụng cho bất
kỳ một ai, một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào vì vậy tất cả đều phải tuân theo pháp
luật tố tụng dân sự khi tiến hành các hành vi tố tụng dân sự.
Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: nguyên tắc này được
quy định tại Điều 4 BLTTDS năm 2015. Nguyên tắc này nêu bật lên nhiệm vụ của
Tòa án phải bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, các quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể trong tố tụng dân sự. Cũng tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS
2015 đã bổ sung quy định: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì
lý do chưa có điều luật để áp dụng”. Đây là quy định cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013
về việc Tòa án thực hiện quyền tư pháp và cũng khẳng định lại chính nguyên tắc về
bảo vệ công lý, quyền con người… đã nêu tại khoản 1 Điều này. Trong các vụ án
kinh tế, nguyên tắc này yêu cầu Tòa án phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể kinh doanh trong quá trình giải quyết vụ án.
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự: được quy định tại Điều 5
BLTTDS năm 2015. Đây là một quyền quan trọng, gần như thể hiện bản chất khác
nhau của tố tụng dân sự và tố tụng hình sự. Theo nguyên tắc này thể hiện trước hết là
ở chỗ các bên có quyền thoả thuận phương thức giải quyết tranh chấp có lợi nhất có
thể là tự thương lượng, hoặc thông qua trung gian hoà giải, hoặc thông qua một hình
thức tài phán. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền rút đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu, thay đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu, hòa giải với nhau bất cứ lúc nào.
Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ: được ghi

nhận tại Điều 6 và Điều 7 BLTTDS năm 2015. Khi giải quyết các vụ án KDTM, Tòa

15


án chủ yếu chỉ căn cứ vào các chứng cứ mà đương sự đưa ra. Các đương sự có nghĩa
vụ chủ động cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình. Tòa
án sẽ nghe các bên trình bày và xác minh chứng cứ. Tòa án không tiến hành xét hỏi
như tố tụng hình sự. Các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là
cần thiết. Tòa án chỉ có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và
chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ khi thấy cần thiết, để làm rõ thêm yêu cầu
của các bên, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác.
Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: được quy định
tại Điều 9 BLTTDS năm 2015. Đây là quyền xuyên suốt trong cả quá trình tố tụng
dân sự. Đương sự có thể tự mình hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện
theo quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngay cả trong trường hợp
đương sự nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ vẫn có quyền tự
bảo vệ mình. BLTTDS năm 2015 còn bổ sung quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo
đảm trợ giúp pháp lý cho các đối tượng theo quy định để họ thực hiện quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án.
Hòa giải trong tố tụng dân sự: nguyên tắc này được quy định tại Điều 10
BLTTDS năm 2015. Hòa giải vừa thể hiện được nguyên tắc quyết định, tự định đoạt
của đương sự vừa thể hiện thiện chí của các bên muốn tự mình giải quyết vụ việc.
Quy định tại Điều 10 BLTTDS năm 2015: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải
và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ
việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Hòa giải được xem là một biện pháp
quan trọng và bắt buộc trong tố tụng kinh tế, với mục đích giải quyết dựa trên cơ sở
thỏa thuận, tránh tốn kém về tiền bạc, thời gian và hạn chế những mâu thuẫn giữa các
bên. Hòa giải có thể được thực hiện hết trong các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, …trừ
những vụ án không được hòa giải quy định tại Điều 206 BLTTDS năm 2015.

Bảo đảm tranh tụng trong xét xử: được quy định tại Điều 24 BLTTDS năm
2015. Đây là nguyên tắc mới trên cơ sở quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp
năm 2013, là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, xuyên suốt mọi hoạt động

16


trong quá trình tố tụng nhưng được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa, được thực hiện
bằng việc Tòa án xét xử không chỉ căn cứ vào tài liệu hồ sơ vụ án mà còn phải được
Tòa án trực tiếp xác định tại phiên tòa.
Ngoài ra còn các nguyên tắc khác như bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố
tụng dân sự; xét xử kịp thời, công bằng, công khai; đảm bảo sự vô tư, khách quan…
1.2.1.2. Đặc điểm pháp lý của giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
Tòa án
Bản chất của việc giải quyết tranh chấp KDTM bằng Tòa án mang tính chất
nghiêm ngặt, được điều chỉnh trực tiếp bởi BLTTDS và các luật chuyên ngành khác,
cần tuân thủ đúng trình tự thủ tục theo pháp luật. Các bên xảy ra tranh chấp lựa chọn
hình thức này đồng nghĩa với việc chấp nhận tuân theo sự cưỡng chế cao của cơ quan
quyền lực nhà nước. Qua đó cũng rút ra được đặc điểm pháp lý của phương thức giải
quyết tranh chấp KDTM bằng Tòa án:
Về thẩm quyền: thường phát sinh khi một trong các bên hoặc có thể là cả hai
bên nhận ra quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, có xung đột, mâu thuẫn về quyền
và lợi ích nên khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp.
Về trình tự thủ tục: Tuân thủ theo trình tự thủ tục tố tụng tại Tòa án, chịu sự
điều chỉnh của BLTTDS năm 2015.
Về quá trình giải quyết tranh chấp: chịu sự chi phối từ các luật nội dung có liên
quan, không phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sự cũng như Hội đồng xét xử
(HĐXX).
Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án: Nếu không bị kháng cáo, kháng
nghị, bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên.

1.2.2. Thẩm quyền của Tòa án cấp sơ thẩm
Theo Điều 2 Luật tổ chức TAND năm 2014 và Điều 1 BLTTDS năm 2015 thì
Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, KDTM,
lao động theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Thẩm quyền của TAND bao
17


gồm thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền của Tòa án các cấp và thẩm quyền theo
lãnh thổ. Thẩm quyền theo loại việc của Tòa án trong việc thụ lý giải quyết các tranh
chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, KDTM, lao động được quy định tại các Điều
26, 28, 30 và 32 BLTTDS. Thẩm quyền của Tòa án các cấp được quy định tại các
Điều 35, 36, 37 và 38 BLTTDS. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ được quy định
tại Điều 39 và 40 BLTTDS. Theo Hiến pháp năm 2013, TAND là cơ quan xét xử của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp trong đó có
nhiệm vụ giải quyết các vụ án dân sự. Khi nhận đơn khởi kiện và xem xét việc thụ lý
vụ án Tòa án phải căn cứ vào các quy định về thẩm quyền của Tòa án theo pháp luật
tố tụng dân sự để xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án. Tòa án có quyền thụ lý
vụ án dân sự và lập hồ sơ vụ án.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp KDTM là quyền hạn và nghĩa vụ của Tòa án
trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp kinh tế. Khi xảy ra một tranh chấp KDTM, cần
xác định rõ nó thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào. Việc xác định thẩm
quyền giải quyết tranh chấp KDTM có ý nghĩa quan trọng trong việc thụ lý, chuẩn bị
hồ sơ và giải quyết tranh chấp, cũng như thi hành quyết định, bản án của Tòa án. Đối
với các tranh chấp không thuộc thẩm quyền của mình mà Tòa án đã thụ lý thì cần
chuyển hồ sơ vụ án cho tòa có thẩm quyền ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ
án không thuộc thẩm quyền của mình (Điều 41 BLTTDS năm 2015).
Những tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án được quy
định tại điều 30 BLTTDS năm 2015 bao gồm:
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.

18


4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội
đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công
ty.
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
1.2.2.1. Thẩm quyền theo cấp xét xử
Thẩm quyền theo cấp xét xử là việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo cấp
của Tòa án, xem xét vụ án đó thuộc thẩm quyền giải quyết, xét xử của TAND cấp
huyện, TAND cấp tỉnh, TAND cấp cao hay TAND tối cao.
Thông thường thẩm quyền của TAND các cấp được phân chia căn cứ vào giá
trị tranh chấp, tính chất của sự việc và khả năng, điều kiện của từng cấp Tòa án. Theo
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, thẩm quyền xét xử của TAND các cấp được quy
định căn cứ vào các tiêu chí:
- Thứ nhất: tính chất phức tạp của vụ việc;
- Thứ hai: điều kiện, khả năng giải quyết các tranh chấp của từng cấp Tòa án.
Thẩm quyền của TAND các cấp phân định cấp Tòa án có chức năng giải quyết,
xét xử sơ thẩm đối với các tranh chấp KDTM. Pháp luật tố tụng dân sự quy định về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND các cấp đối với tranh chấp KDTM xuất phát
từ những đặc thù của hệ thống Tòa án của Việt Nam. Hệ thống Tòa án của Việt Nam

được xây dựng theo cấp Tòa án, theo đó việc giải quyết, xét xử sơ thẩm có thể ở
TAND cấp huyện hoặc cấp tỉnh. BLTTDS căn cứ vào tính chất phức tạp của vụ việc
để phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp KDTM giữa TAND cấp huyện và
TAND cấp tỉnh.
* Tòa án nhân dân cấp huyện

19


×