Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.75 KB, 68 trang )

NGÔ TUẤN DŨNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

NGÔ TUẤN DŨNG

2016 - 2018

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

NGÔ TUẤN DŨNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, công trình nghiên cứu này là của tôi, có sự hỗ trợ từ giảng viên
hướng dẫn TS. Nguyễn Trí Tuệ. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này
là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính
tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét,
đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình trước Nhà trường và
những quy định của pháp luật.
XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

TS. Nguyễn Trí Tuệ

Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn

Ngô Tuấn Dũng

i


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của
bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của các thầy
cô giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Trí Tuệ với lòng

nhiệt tình và sự quan tâm đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua
để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, đặc biệt là thầy cô giáo và các
cán bộ của Khoa đào tạo sau Đại học của trường Đại học Mở Hà Nội đã giảng dạy và
giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và rèn luyện kiến thức tại trường.
Hà Nội, ngày
tháng
Tác giả luận văn

Ngô Tuấn Dũng

ii

năm 2018


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii
MỤC LỤC..................................................................................................................iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. v
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 6
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH .......................................................................................... 10
1.1. Khái quát về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ............. 10
1.2. Định nghĩa khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh........................... 122
1.3. Đặc điểm của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh....................... 133
1.4. Các dạng hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh................... 17
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH ................................................................. 24
2.1. Nguồn của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh ...................................... 24
2.2. Cơ chế điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................................. 25
2.3. Nội dung các quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh ................... 26
2.3.1. Quy định của pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
.................................................................................................................................. 26
2.3.2. Căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........... 27
2.3.3. Các chế tài để xử lý hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.28
2.3.4. Nguồn của pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh.... 30
2.3.5 Các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể có quy định chế tài đối với các
hành vi CTKLM (Luật sở hữu trí tuệ, Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng, Pháp lệnh giá,
Pháp lệnh quảng cáo…)……………………………………………………………31
2.4. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp
luật khác.................................................................................................................... 31
iii


2.5. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của một số quốc gia trên thế giới ... 36
2.5.1. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Âu ................................. 36
2.5.2. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ ................................... 38
2.5.3. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Á ................................... 41
2.5.4. Các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi ......................................................... 42
2.5.5. Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hành vi khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh........................................................................... 43
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐỐI VỚI HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH ........................................................................................... 49
3.1.Thực trạng pháp luật Việt Nam về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh ................................................................................................................. 49
3.2. Nguyên nhân của những bất cập của pháp luật Việt Nam về xử lý hành vi khuyến

mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.................................................................... 53
3.3. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật về chống cạnh tranh không
lành mạnh ................................................................................................................. 57
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 65

iv


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

CTKLM

Cạnh tranh không lành mạnh

2

NĐ-CP

Nghị định Chính phủ

v



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển
khởi sắc và mạnh mẽ. Tuy nhiên, để có được sự phát triển như ngày nay thì đã có sự cạnh
tranh rất khốc liệt trên thị trường, đặc biệt là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Hiện
nay, cả nước ta có hàng trăm nghìn doanh nghiệp hoạt động trên khắp các lĩnh vực của
đời sống kinh tế xã hội. Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, là cơ sở khẳng định vị trí của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có thể mang lại những hậu quả xấu đối với
nền kinh tế, nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng. Cạnh tranh làm thay đổi cấu trúc xã
hội trên phương diện sở hữu của cải, gây ra hiện tượng độc quyền, làm phân hóa mạnh
mẽ giàu nghèo; cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay
bất chấp pháp luật… Do vậy, hoạt động cạnh tranh từ đối đầu sang hợp tác cùng có lợi là
xu hướng tất yếu đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Khuyến mại là một trong
những hoạt động thương mại được nhiều doanh nghiệp áp dụng nhằm mục đích thu hút
khách hàng sử dụng hàng hóa, dịch vụ của mình. Mặc dù các hình thức khuyến mại đã
được quy định cụ thể trong Luật Thương mại và Luật Cạnh tranh nhưng vẫn gây không ít
khó khăn cho doanh nghiệp cũng như các nhà thực thi pháp luật. Khuyến mại như thế nào
là “lành mạnh” và khuyến mại như thế nào bị coi là “không lành mạnh” lại chưa có cách
hiểu thống nhất chung giữa các văn bản luật... Vì lý do ở trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài
“hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam
hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật tại khoa Luật kinh tế, Trường Đại
học mở Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về cạnh tranh nói chung và CTKLM nói riêng là lĩnh vực pháp luật đang
còn mới mẻ ở nước ta cả về mặt pháp luật thực định và trong khoa học pháp lý. Trong khi
đó pháp luật về cạnh tranh trong quan hệ kinh doanh, thương mại quốc tế đã có lịch sử
hình thành từ lâu đời, do đó việc chúng ta trở thành thành viên của tổ chức Thương mại

6


thế giới - WTO đã đặt ra nhiệm vụ mới là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật về cạnh tranh nói riêng.
Việc nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh nói chung và hành vi khuyến mại nhằm
CTKLM là yêu cầu cấp thiết của chúng ta khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.Tuy
nhiên, trong thời gian vừa qua các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn có rất ít các
công trình nghiên cứu về pháp luật về vấn đề này, đặc biệt là chưa nêu ra được các bất
cập trong những quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về hành vi khuyến mại nhằm
CTKLM.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh và hành vi
khuyến mại nhằm CTKLM; nghiên cứu đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp
luật trên về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về pháp luật về khuyến mại nhằm CTKLM là vấn đề
cần được quan tâm và hoàn thiện, để tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh
nhưng không mất tính linh hoạt, lợi ích thu được từ hoạt động xúc tiến thương mại phổ
biến là khuyến mại này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích và làm rõ một số khái niệm như: Khái niệm về cạnh tranh, khái niệm
về khuyến mại nhằm CTKLM, định nghĩa khuyến mại nhằm CTKLM và các quy định
của pháp luật Việt Nam về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM.
- Phân tích cơ sở lý luận về cạnh tranh, đồng thời phân tích các đặc điểm của hành
vi khuyến mại nhằm CTKLM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về
khuyến mại nhằm CTKLM nêu lên những bất cập, tồn tại, hạn chế trong quy định của
pháp luật cạnh tranh và một số các văn bản pháp luật liên quan cũng như thực tế áp dụng
pháp luật cạnh tranh về khuyến mại ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, nêu lên những kiến


7


nghị, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về khuyến mại nhằm
CTKLM.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam về
khuyến mại, để từ đó nghiên cứu, để từ đó nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp
luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại. Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu các vụ việc
điển hình trong thực trạng pháp luật cạnh tranh về khuyến mại để từ đó tìm ra những
điểm còn hạn chế trong quy định của pháp luật về khuyến mại nhằm CTKLM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: trong phạm vi là một luận văn Thạc sĩ Luật đề tài tập trung nghiên
cứu những vấn đề chung mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến hành vi khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Về thời gian: từ năm 2004 - 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính
sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh và tổng
kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về pháp luật cạnh tranh và
pháp luật cạnh tranh về khuyến mại thông qua việc đánh giá những bất cập, hạn chế được
rút từ thực tiễn phân tích, đánh giá hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành, thực


8


trạng khuyến mại nhằm CTKLM của doanh nghiệp. Từ đó đề ra những giải pháp kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan.
- Sau khi hoàn thành, luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các cơ quan,
cấp, ngành trong việc nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật
về cạnh tranh không lành mạnh và đánh giá chính xác được thực trạng, khó khăn, bất cập
trong các chế tài xử lý hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong pháp luật Việt Nam.
Luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên quan tâm
đến vấn đề pháp luật cạnh tranh về khuyến mãi nhằm CTKLM. Luận văn sẽ góp phần
đánh giá thực trạng khuyến mại nhằm CTKLM của các chủ thể kinh doanh, của các
doanh nghiệp ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn chỉnh pháp luật về khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, giải quyết tranh chấp và xử lý các hành vi vi
phạm về vấn đề này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương.

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1. Khái quát về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM
Mặc dù còn nhiều quan niệm, cách diễn đạt khác nhau về cạnh tranh, song điểm
chung của các quan niệm về cạnh tranh là:
Có ít nhất từ hai chủ thể trở lên;

Các chủ thể này có chung mục đích;
Các chủ thể đó cùng cố gắng giành và vượt lên các đối thủ cạnh tranh.
Được diễn ra trong môi trường pháp lý bình đẳng cho mọi chủ thể kinh doanh, nếu
không có môi trường pháp lý đó, cạnh tranh có thể đưa đến những hậu quả tiêu cực về xã
hội.
Kết quả của quá trình cạnh tranh là nếu doanh nghiệp nào đáp ứng được yêu cầu
trên thị trường sẽ tồn tại và phát triển, nếu doanh nghiệp nào không đáp ứng được yêu
cầu đó sẽ bị loại ra khỏi thị trường và để không bị loại “ra khỏi cuộc chơi”, các đối thủ
cạnh tranh buộc phải tìm mọi cách, kể cả những biện pháp không lành mạnh, không phù
hợp với đạo đức kinh doanh, đạo đức của thị trường để dành phần thắng về phía mình.
Hành vi CTKLM có thể hiểu là những hành vi cạnh tranh của các chủ thể tham gia
thị trường vi phạm những chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường, có thể gây thiệt
hại về vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng.
Quan điểm khác lại cho rằng, CTKLM là những hành vi cạnh tranh đi ngược lại
các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm đến lợi ích của
chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
CTKLM là những hành vi cụ thể, đơn phương, vì mục đích cạnh tranh của các chủ
thể kinh doanh luôn thể hiện tính không lành mạnh (chứ không chỉ là bất hợp pháp) mà
mục đích của nó là gây cho một hay một số đối thủ cạnh tranh cụ thể sự bất lợi hay gây
thiệt hại trong hoạt động kinh doanh.
10


Dưới góc độ pháp lý, hành vi CTKLM là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh,
gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Nhìn chung, cách tiếp cận hành vi
CTKLM theo quy định của pháp luật Việt Nam về cơ bản là phù hợp với Công ước Pari
năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như pháp luật một số nước. Bản
chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là mọi hành vi trái với các

chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. Theo lý thuyết được thừa
nhận rộng rãi ở các nước châu Âu lục địa, thì về bản chất, hành vi CTKLM là hành vi vi
phạm quyền dân sự; các yếu tố cấu thành của CTKLM giống như các yếu tố cấu thành
trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là hành vi CTKLM, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi CTKLM và thiệt hại.
Như vậy, khi đề cập đến hành vi CTKLM người ta thường nhấn mạnh đến tính
“không lành mạnh” của hành vi cạnh tranh, tức là những hành vi cạnh tranh không đẹp,
không phù hợp với đạo đức kinh doanh mà hệ quả của những hành vi này có thể sẽ dẫn
đến gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng làm thay đổi tương quan cạnh tranh
trên thị trường. Nhiệm vụ của Nhà nước là phải kiểm soát, phát hiện, ngăn chặn và xử lý
kịp thời hành vi CTKLM trên thị trường.
Từ những phân tích trên, bản chất của hành vi CTKLM được thể hiện qua những
dấu hiệu sau:
Đây là hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh trong cùng một lĩnh vực
nhất định như ngân hàng, bảo hiểm, may mặc, da giầy...
Hành vi này phải nhằm tới những đối thủ cạnh tranh cụ thể, xác định được trên
cùng một phân khúc thị trường;
Trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh hoặc trái với pháp luật;

11


Có thể gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, Nhà nước hoặc các
lợi ích xã hội khác.
1.2. Định nghĩa khuyến mại nhằm CTKLM
Theo từ điển Cornu của Pháp thì cạnh tranh được hiểu là: "Chạy đua kinh tế; hành
vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau, cung ứng hàng hóa,
dịch vụ, nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện

qua việc lôi kéo được hoặc để mất đi một lượng khách hàng thường xuyên”. Như vậy
chúng ta thấy được cạnh tranh bao gồm các yếu tố như khách hàng, các bên tham gia
cạnh tranh, thị trường liên quan, môi trường kinh doanh.
Trong Luật Cạnh tranh 2004 cũng không quy định về thế nào là CTKLM mà chỉ
quy định về hành vi CTKLM tại khoản 3 Điều 4 như sau:"Hành vi CTKLM là hành vi
cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông
thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
Hành vi CTKLM được biểu hiện trong nhiều hoạt động khác nhau của doanh
nghiệp trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các hành vi CTKLM
được quy định rõ tại Điều 39 Luật cạnh tranh năm 2004, bao gồm : "Chỉ dẫn gây nhầm
lẫn; Xâm phạm bí mật kinh doanh; Ép buộc trong kinh doanh; Gièm pha doanh nghiệp
khác; Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; Quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh; Khuyến mại nhằm CTKLM; Phân biệt đối xử của hiệp hội; Bán
hành đa cấp bất chính; Các hành vi CTKLM khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều
3 của Luật này do Chính phủ quy định”. Như vậy, theo quy định trên thì có quy định rõ
về việc khuyến mại nhằm CTKLM.
Khuyến mại, dưới góc độ pháp lý được hiểu là hành vi thương mại của thương
nhân nhằm xúc tiến bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương
nhân bằng cách dành những lợi ích nhất định cho khách hàng. Luật Thương mại năm
2005 quy định tại khoản 1 Điều 88: "Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của

12


thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành
cho khách hàng những lợi ích nhất định”.
Từ những nhận thức chung về cạnh tranh, hành vi CTKLM và hoạt động khuyến
mại, ta thấy rõ được các hành vi CTKLM trong hoạt động khuyến mại là những hành vi
thông qua hoạt động khuyến mại của thương nhân nhưng nhằm gây ra những bất lợi cho

đối thủ cạnh tranh của mình nhằm thu về cho mình những lợi ích nhất định.
1.3. Đặc điểm của khuyến mại nhằm CTKLM
Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh quy định “hành vi cạnh tranh không lành mạnh là
hành vi của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với với các chuẩn mực thông
thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Theo quy
định nói trên trên, các hành vi CTKLM có những đặc điểm cơ bản như sau:
Hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh
Đặc điểm này thể hiện quy định về đối tượng áp dụng của Luật cạnh tranh. Theo
đó, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh chỉ bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam, các hiệp hội ngành nghề. Những đối tượng còn lại như các đơn vị sự nghiệp,
các tổ chức của người tiêu dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế…
không là đối tượng áp dụng các quy định của pháp luật về CTKLM. Đôi khi, thực tế phát
sinh những tình huống một số tổ chức phi kinh tế, các đơn vị truyền thông… thực hiện
những hành vi xâm phạm đến quyền CTKLM của doanh nghiệp, ví dụ tung tin không
trung thực về doanh nghiệp, về hàng hóa, dịch vụ…. Với việc giới hạn chủ thể thực hiện
hành vi, pháp luật cạnh tranh không áp dụng để xử lý những tình huống trên. Mặt khác,
đặc điểm này cũng khẳng định hành vi CTKLM xảy ra trong kinh doanh ở mọi ngành,
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, mọi công đoạn của quá trình kinh doanh. Pháp luật về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh được áp dụng cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực
kinh tế. Nói cách khác, pháp luật không giới hạn áp dụng cho bất kỳ ngành nghề, lĩnh vực
hoặc hoạt động kinh doanh nào của kinh tế quốc dân.
13


Hành vi cạnh tranh trái với với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh
Đặc điểm này là căn cứ lý luận để xác định bản chất không lành mạnh của hành vi.
Tuy nhiên, “trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh” là thuật ngữ trừu
tượng cả về pháp lý lẫn lý thuyết. Không có những căn cứ pháp lý hoặc cấu thành pháp lý

cụ thể để xác định đặc điểm này. Thế nên, Cơ quan có thẩm quyền không thể sử dụng
khái niệm hành vi không lành mạnh để quy kết một hành vi cụ thể của doanh nghiệp là
không lành mạnh. Để khắc phục tình trạng trên, pháp luật cạnh tranh đã tập trung giải
quyết hai nội dung sau:
Một là, vì các phương pháp cạnh tranh rất đa dạng, bao gồm thủ đoạn gây nhầm lẫn,
gian dối, gièm pha, bóc lột, gây rối nên Luật Cạnh tranh đã liệt kê các hành vi cạnh tranh
bị coi là không lành mạnh và quy định cấu thành pháp lý của chúng. Pháp luật cạnh tranh
của hầu hết các nước như Cộng hoà liên bang Đức, Nhật bản… đều có cách tiếp cận
tương tự, tức là ngoài việc đưa ra khái niệm về hành vi CTKLM (Điều 1 Luật chống cạnh
tranh không lành mạnh Cộng hòa Liên bang Đức quy định: “người nào trong quan hệ
thương mại mà có những hành vi nhằm mục đích cạnh tranh, song những hành vi này
chống lại truyền thống kinh doanh lành mạnh thì buộc phải chấm dứt hành vi đó và bồi
thường thiệt hại”) còn liệt kê và mô tả từng hành vi bị coi là không lành mạnh trong cạnh
tranh. Khái niệm hành vi CTKLM được quy định trong Luật cạnh tranh Việt nam và của
các nước chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế, việc áp dụng sẽ căn cứ vào các
quy định về từng hành vi vi phạm cụ thể như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật
kinh doanh, dèm pha doanh nghiệp khác….
Hai là, các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh được xác định dựa vào
hai căn cứ sau đây:
Căn cứ luật định là những tiêu chuẩn đã được định lượng hoá bằng pháp luật, một
khi hành vi đi trái với các quy định pháp luật sẽ được xem là không lành mạnh. Trong
trường hợp này, hành vi CTKLM đồng nghĩa với hành vi cạnh tranh bất hợp pháp. Theo
đó, hành vi CTKLM có thể là hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm điều cấm
của pháp luật (bao gồm các quy định cấm của Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật
khác như pháp luật thương mại, pháp luật về quản lý giá, pháp luật về sở hữu trí tuệ…)
14


hoặc là hành vi vi phạm các tiêu chuẩn lành mạnh được pháp luật quy định như pháp luật
khuyến mại quy định giới hạn của giá trị khuyến mại như sau: “mức giảm giá tối đa đối

với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ
đó ngay trước thời gian khuyến mại” (Điều 6 Nghị định số: 37/2006/NĐ-CP quy định chi
tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.).
Các tập quán kinh doanh thông thường đã được thừa nhận rộng rãi được áp dụng
đối với những hành vi chưa được pháp luật dự liệu là CTKLM. Nói cách khác, căn cứ
này là biện pháp dự phòng để áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về
một hành vi cụ thể nhưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến quyền cạnh
tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng
và trái với tập quán kinh doanh. Căn cứ này đã mở rộng khả năng điều chỉnh và khắc
phục được tình trạng chóng lạc hậu của pháp luật cạnh tranh. Cho đến nay, Luật cạnh
tranh chưa quy định những tập quán kinh doanh nào được coi là các chuẩn mực đạo đức
thông thường.
Tính trái chuẩn mực đạo đức thông thường trong kinh doanh của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh đòi hỏi pháp luật cạnh tranh phải luôn được chỉnh lý, bổ sung cho phù
hợp với thực tiễn. Nhận thức về các dấu hiệu, biểu hiện không lành mạnh cụ thể luôn
thay đổi và có sự khác biệt theo từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể như sau:
Quan niệm về tính không lành mạnh là kết quả của những ý niệm liên quan đến xã
hội học, kinh tế học, đạo đức học của một xã hội nhất định nên có thể dẫn đến hiện tượng
là hành vi cạnh tranh bị coi là CTKLM ở nước này, nhưng được coi là lành mạnh ở nước
khác.
Trong đời sống thị trường, những hành vi cạnh tranh luôn được sáng tạo không
ngừng về hình thức thể hiện và phương thức cạnh tranh, làm xuất hiện những thủ đoạn
cạnh tranh không lành mạnh mới muôn mầu, muôn vẻ và phát triển không ngừng. Vì vậy,
phạm vi của khái niệm CTKLM cũng phải luôn được bổ sung bởi sự nhận thức của con
người về bản chất không lành mạnh của những hành vi mới phát sinh.
Hiện nay, pháp luật cạnh tranh của các nước, các học thuyết liên quan đến cạnh
tranh chưa đưa ra được những tiêu chuẩn chung về tính lành mạnh của hành vi cạnh tranh
15



mà chỉ mới dựa vào việc phân tích các hậu quả của hành vi cạnh tranh đối với đời sống
kinh tế, xã hội để xác định sự lành mạnh và mức độ biểu hiện của các hành vi đó. Theo
sự thay đổi và phát triển của thị trường, nhận thức về mức độ ảnh hưởng của từng hành vi
trên thị trường cũng thay đổi. Có những thời điểm nhất định, hành vi nào đó có thể sẽ là
nguy hiểm cho xã hội, nhưng ở thời điểm khác lại không có điều kiện để gây hại cho đối
thủ hoặc cho người tiêu dùng. Sự thay đổi đó đã làm cho phạm vi của khái niệm CTKLM
luôn biến đổi.
Hành vi gây thiệt hại, có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp
khác và người tiêu dùng
Hành vi CTKLM có đối tượng xâm hại cụ thể là lợi ích của Nhà nước, của các
doanh nghiệp khác và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là
hiện thực (đã xảy ra) nhưng cũng có thể chỉ là tiềm năng (có căn cứ để xác định rằng hậu
quả chắc chắn sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi). Do đó, một số hành vi CTKLM
có cấu thành vật chất (thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc) như dèm pha doanh nghiệp khác;
một số hành vi có cấu thành hình thức (thiệt hại không là dấu hiệu bắt buộc mà có thể chỉ
là sự suy đoán nếu hành vi tiếp tục được thực hiện), ví dụ hành vi quảng cáo không trung
thực….
Đặc điểm về hậu quả của hành vi giúp cho chúng ta phân biệt dưới góc độ lý thuyết
hành vi CTKLM và hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi hạn chế cạnh tranh là những xử
sự của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp làm thay đổi một cách tiêu cực tình trạng
cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh đối với thị trường. Hành vi hạn chế
cạnh tranh có thể gây thiệt hại cho một, một số đối tượng cụ thể, song nghiêm trọng hơn
là làm cản trở, làm suy giảm hoặc sai lệch cạnh tranh. Trong khi đó, hành vi CTKLM chỉ
gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm
hại đến trật tự quản lý cạnh tranh của nhà nước mà không cản trở, sai lệch hay làm giảm
tình trạng cạnh tranh của thị trường. Vì vậy, cách thức và mức độ xử lý đối với hai loại
hành vi này khác nhau. Dưới góc độ lịch sử phát triển, những đặc điểm về hậu quả của
hành vi CTKLM thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào nhận thức của con người về tính
nguy hại và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Ở
16



thời kỳ đầu tiên, pháp luật cạnh tranh chỉ nhằm chống lại các biểu hiện không lành mạnh
xâm phạm lợi ích của đối thủ cạnh tranh theo quan niệm cạnh tranh phải là sự đối đầu
giữa các đối thủ trên thị trường, vì vậy những hành vi xâm hại lợi ích người tiêu dùng
không nằm trong khái niệm CTKLM. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
những hành vi không lành mạnh được thực hiện với khách hàng (người tiêu dùng), tưởng
chừng như không liên quan đến các đối thủ cạnh tranh nhưng thực tế cũng làm tổn hại và
thậm chí phá vỡ trật tự và hệ thống cạnh tranh hiện hành (Viện nghiên cứu Nhà nước và
Pháp luật, sđd, tr258.). Do đó, quan niệm về hành vi CTKLM đã làm cho pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh mở rộng phạm vi sang cả những hành vi xâm hại lợi ích của
khách hàng, của người tiêu dùng.
Hơn 20 năm phát triển thị trường của Việt Nam cho thấy CTKLM đang diễn ra
trong tất cả các ngành kinh tế. Ngoài khu vực độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước,
ở các khu vực khác của thị trường Việt nam đã có sự tồn tại của cạnh tranh ở những mức
độ nhất định. Trong bối cảnh thực hiện nền kinh tế thị trường, ở đâu có cạnh tranh, ở đó
có CTKLM. Các biểu hiện CTKLM cũng diễn ra trên các thị trường hoá mỹ phẩm, nước
giải khát và trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến mại, mua bán…. Các hành vi CTKLM rất
đa dạng và luôn thay đổi về hình thức thực hiện. Ví dụ trong lĩnh vực quảng cáo, có thể
nghi ngờ tính trung thực của thông tin được cung cấp (về khả năng tăng cường trí thông
minh của các loại thuốc dinh dưỡng, về tác động của các sản phẩm sữa cho trẻ em…), về
sự so sánh của các doanh nghiệp kinh doanh hóa mỹ phẩm.
1.4. Các dạng hành vi khuyến mại nhằm CTKLM
Luật cạnh tranh quy định cấm bốn dạng hành vi khuyến mại nhằm CTKLM khác
nhau:
Thứ nhất, tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng.
Các doanh nghiệp tổ chức hoạt động khuyến mại nhằm thu hút khách hàng, thông
qua việc giành cho khách hàng những giải thưởng, từ đó nhằm thu hút khách hàng chú ý
đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Cách thức khuyến mại thông qua việc dành cho
khách hàng những giải thưởng được đưa ra dựa trên việc khách hàng có trên tâm lý mong

muốn có được giải thưởng. Doanh nghiệp dựa trên tâm lý ham muốn giải thưởng của
17


khách hàng khi tham gia mua hàng hay sử dụng dịch vụ mà đưa ra những chương trình
khuyến mại với giải thưởng rất lớn, rất hấp dẫn. Tuy nhiên, thực tế khách hàng không có
cơ hội nhận được những phần thưởng dùng để khuyến mại hoặc những phần thưởng đó
không đúng như chương trình khuyến mại đã đề ra. Như vậy, trong các chương trình
khuyến mại này đã có sự gian dối về giải thưởng.
Có nhiều hành vi gian dối khác nhau về phần thưởng đã được các doanh nghiệp
thực hiện trong hoạt động khuyến mại. Trong vụ gian dối về giải thưởng của Công ty
điện tử LG Việt Nam diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2006 thì việc gian dối
về giải thưởng thực hiện kín đáo, rất khó phát hiện. Giải thưởng được đưa ra bao gồm
chiếc xe Toyota trị giá gần 30.000 đô la Mỹ (giải nhất), xe tải Huyndai 1,5 tấn (giải nhì),
xe máy Honda Dylan (giải ba). Chương trình bốc thăm giải thưởng đang được diễn ra thì
có một khách hàng tuyên bố lá phiếu 233 mà anh ta đang giữ cuống vé không có trong
thùng phiếu. Ban tổ chức để khách hàng đó kiểm tra thùng. Quả nhiên trong thùng không
có lá phiếu số 233. Và tất cả các tờ phiếu từ số 200 trở lên do một số người khác nắm giữ
đều không có trong thùng.
Khuyến mại gian dối về giải thưởng còn thể hiện thông qua trường hợp đưa ra giá
trị giải thưởng khuyến mại rất lớn nhưng thực hiện việc trao giải thưởng thì rất nhỏ. Điển
hình như chương trình khuyến mại của một công ty bia "bật nắp chai trúng thưởng” diễn
ra cách đây không lâu. Trong chương trình này, cơ cấu giải thưởng gồm 200.000 giải
thưởng, trong đó có 6 xe ôtô hiệu BMW, không ai có thể chắc chắn rằng có đủ 200.000
giải thưởng với 6 nắp chai in hình xe BMW trong số sản phẩm được bán trong đợt
khuyến mại. Theo ông Đỗ Thắng Hải, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ
Thương mại), trong tổng số 215 tỉ đồng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại mà
các thương nhân đăng ký thì tổng số giá trị giải thưởng đã trao rất thấp, chỉ đạt 6 tỷ đồng,
tương đương 3% tổng số tiền đã đăng ký cho chương trình khuyến mại. Như vậy, giá trị
thật mà các doanh nghiệp trao cho khách hàng nhỏ hơn rất nhiều những con số được nêu

ra trong chương trình khuyến mại. Khách hàng cũng không nhận được nhiều những phần
thưởng có giá trị từ các chương trình khuyến mại gian dối trên.

18


Khuyến mại gian dối về phần thưởng còn thể hiện thông qua việc cho khách hàng
được nhận phần thưởng nhưng phải kèm điều kiện mua kèm theo các hàng hóa khác của
doanh nghiệp. Trong bài báo "Đánh lừa người tiêu dùng bằng các chiêu khuyến mại”
đăng trên trang web báo Lao động ngày 23/12/2010 đã đưa ra một trường hợp khuyến
mại gian dối của siêu thị Vinaconex (Quang Trung – Hà Đông – Hà Nội). Một khách
hàng mua sản phẩm tại siêu thị Vinaconex thì nhận được phiếu cào trong chương trình
khuyến mại "Mừng giáng sinh – Chào năm mới”. Sau khi cào, khách hàng này trúng giải
nhất với trị giá 500.000 đồng. Tuy nhiên, khi đến lĩnh thưởng thì điều kiện lĩnh thưởng
là: "Phiếu chỉ có giá trị lĩnh thưởng khi khách hàng mang theo phiếu này và mua 01 chiếc
áo Complet hoặc 01 bộ quần áo Complet tại cửa hàng”. Khách hàng này vui mừng đi
xem quần áo Comple để mua thì thất vọng khi nhận ra rằng các sản phẩm này có giá từ
880.000 đồng đến 3.200.000 đồng/bộ nhưng chất lượng tồi đến mức "có cho không cũng
không nhận”.
Như vậy, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thường xuyên tổ
chức hoạt động khuyến mại. Hình thức khuyến mại thông qua việc trao tặng các giải
thưởng cho khách hàng là hình thức thu hút được nhiều khách hàng đến với doanh
nghiệp. Vấn đề đặt ra là, các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện chương trình khuyến
mại, có thể gian dối trong việc trao giải thưởng cho khách hàng. Một trong các nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng khuyến mại gian dối xuất phát từ sự quản lý chưa chặt chẽ của
các cơ quan chức năng hoặc do các doanh nghiệp thiếu đạo đức trong kinh doanh, vì hám
lợi trước mắt mà quên nguồn lợi lâu dài từ khách hàng.
Thứ hai, khuyến mại không trung thực gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa
dối khách hàng
Khuyến mại không trung thực là việc đưa thông tin khuyến mại không đúng về

hàng hóa, dịch vụ khiến khách hàng nhầm lẫn, tin theo thông tin khuyến mại sai lệch mà
mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ đó. Việc khuyến mại không trung thực này tác động
đến tâm lý "hám lợi” của người tiêu dùng, hay khách hàng mà khiến họ tiêu thụ nhiều
hơn hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Đồng thời, việc khuyến mại sai lệch này cũng
làm tác động xấu đến đối thủ cạnh tranh, làm giảm mức tiêu thụ hàng hóa của đối thủ
19


cạnh tranh. Điều này là do việc xuất hiện tâm lý so sánh các sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại với sản phẩm, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.
Bên cạnh đó, thông tin khuyến mại sai lệch còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
của khách hàng nếu như họ không nắm bắt được thực chất của thông tin đưa ra khuyến
mại.
Với phương thức khuyến mại không trung thực về giá của hàng hóa sản phẩm, dịch
vụ còn có một dạng hành vi phổ biến khác nữa là nâng giá hàng hóa, dịch vụ lên thật cao
rồi đưa ra chiêu thức khuyến mại giảm giá với các biển hiệu quảng cáo rất ăn khách như
"giảm giá 50 – 70%” hay "Đại hạ giá”… Khách hàng những tưởng mua được hàng hóa
với giá rẻ, nhưng thực tế lại bị "móc túi” một cách trắng trợn mà không hề hay biết. Với
chiêu thức rất đơn giản và phổ biến, các doanh nghiệp tham gia chương trình khuyến mãi
tự động tăng giá bán lên 10 – 15% trước thời điểm diễn ra tháng khuyến mại, để đến khi
vào chương trình khuyến mại thì lại "giảm giá”. Như vậy, doanh nghiệp vẫn đảm bảo
được giá bán sản phẩm của mình, người tiêu dùng thì lầm tưởng nhận được khuyến mại
từ người bán. Một điểm đáng lưu ý, các doanh nghiệp sử dụng thủ đoạn gian dối này vừa
"hợp pháp”, tức là không vi phạm các quy định về tổ chức khuyến mại, lại vừa "qua mặt”
được khách hàng. Vậy nên, cần có những biện pháp quản lý giá hàng hóa một cách hữu
hiệu để đảm bảo quyền lợi của khách hàng và vạch trần được thủ đoạn gian dối của các
doanh nghiệp trong các chương trình khuyến mại.
Một thủ đoạn gian dối khác trong hoạt động khuyến mại cũng thường xuyên được
sử dụng là các doanh nghiệp liên tục đưa ra những chương trình "siêu khuyến mại”,
"giảm giá từ 50 – 70%” nhưng đi kèm với việc giảm giá này là chất lượng hàng hóa, dịch

vụ rất thấp. Ngoài ra, khuyến mại không trung thực còn thể hiện thông qua việc gian dối
trong việc thực thi cam kết khuyến mại từ phía doanh nghiệp đối với khách hàng.
Tình trạng khuyến mại không trung thực, gây nhầm lẫn đối với khách hàng về hàng
hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng đang xảy ra rất đa dạng và rất khó phát hiện. Các
doanh nghiệp luôn nghĩ ra nhiều cách thức khác nhau để khách hàng "mắc bẫy”, và đạt
được mục đích bán hàng, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Trong quy định của Luật
Vạnh tranh thì cấm những hành vi này, vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng và
20


đối thủ cạnh tranh. Trên thực tế, những hành vi khuyến mại gian dối gây ảnh hưởng đến
lợi ích của cả người tiêu dùng và các doanh nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng vẫn diễn ra
phổ biến. Hành vi này đã thể hiện rõ bản chất lừa dối khách hàng thông qua hoạt động
khuyến mại và cũng tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thông qua con đường
"không lành mạnh”.
Thứ ba, phân biệt đối xử với khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến
mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại.
Nhà làm luật đã quy định hành vi này thuộc hành vi cấm trong Luật Cạnh tranh.
Hành vi này được hiểu là trong một chương trình khuyến mại chung, các thương nhân
đưa ra chương trình khuyến mại nhưng lại không khách quan, công bằng, phân biệt đối
xử đối với các khách hàng như nhau trong các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau.
Luật quy định rất chung chung như trên gây ra cách hiểu không chính xác về điều luật. Ở
đây, cần phải làm rõ khái niệm "phân biệt đối xử”, "các khách hàng như nhau”. Hành vi
phân biệt đối xử tức là hành vi của thương nhân ưu ái khách hàng này hơn khách hàng
kia, dành cho họ lợi ích nhiều hơn khách hàng kia mà thực tế thì phải dành cho họ những
lợi ích như nhau. Các khách hàng như nhau thì cần được hiểu tiêu chí nào là như nhau.
Cần một cách hiểu rõ ràng hơn đối với quy định này của Luật Cạnh tranh. Trên thực tế đã
xảy ra nhiều trường hợp, các doanh nghiệp đã cố tình "phân loại khách hàng” để cho
hưởng khuyến mại. Điển hình như: Chương trình khuyến mại của mạng di động
Vinaphone thực hiện từ ngày 15/5 đến 17/5/2010, khuyến mại thêm 100% số tiền nạp thẻ

cho các thuê bao của mạng. Tuy chương trình khuyến mại thực hiện trong 03 ngày như
trên nhưng không phải khách hàng nào cũng nhận được tiền khuyến mại. Chỉ những
khách hàng nhận được tin nhắn thông báo về việc khuyến mại thì mới được hưởng
khuyến mại. Tuy nhiên, một điều băn khoăn được đưa ra đó là Vinaphone dựa vào tiêu
chí nào để phân loại cho các thuê bao mạng di động được hưởng khuyến mại và tổng số
thuê bao được hưởng khuyến mại là bao nhiêu. Câu trả lời không rõ ràng từ phía lãnh đạo
của Vinaphone, đó là tiêu chí phân loại có thể thay đổi, có khi là ưu đãi cho khách hàng
trung thành, các thuê bao trả trước đã sử dụng nhiều năm, có khi là những người vừa hòa

21


mạng, cước phí phát sinh chưa nhiều. Rõ ràng là đã có sự phân biệt đối xử đối với khách
hàng trong chương trình khuyến mại của Vinaphone.
Tuy đây là một hình thức được quy định trong Luật Cạnh tranh, nhưng trên thực
tiễn thì trường hợp phân biệt đối xử này thường ít diễn ra bởi điều kiện khách quan của
nền kinh tế đất nước và mong muốn chủ quan của các doanh nghiệp là cần có thêm nhiều
khách hàng và mở rộng thị trường của mình. Những trường hợp phân biệt đối xử trong
khuyến mại chủ yếu là hành vi xuất phát từ phía chủ quan của thương nhân muốn dành
những ưu đãi của mình cho những khách hàng lâu dài và tin cậy của họ.
Thứ tư, tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi
hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để
dùng hàng hóa của mình
Một trong những phương pháp để khách hàng nhanh chóng biết đến hàng hóa, dịch
vụ của doanh nghiệp là việc cho khách hàng dùng thử hàng hóa, dịch vụ. Tặng hàng hóa
cho khách hàng dùng thử sẽ tạo cơ hội cho khách hàng biết về sản phẩm, cảm nhận được
giá trị của sản phẩm, từ đó có thể sẽ tích cực tham gia sử dụng sản phẩm của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, việc yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp
khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình là một hành vi
CTKLM. Hành vi này của doanh nghiệp xét ở góc độ sâu xa, đó là hành vi nhằm làm

thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng, từ đó để khách hàng sử dụng sản phẩm của
mình nhiều hơn. Kết quả là làm giảm thị phần của đối thủ cạnh tranh, tạo lợi thế cạnh
tranh cho doanh nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại. Bên cạnh đó, hành vi này
phần nào tác động đến quyền tự do lựa chọn sử dụng sản phẩm của khách hàng. Việc
pháp luật cấm các doanh nghiệp thực hiện hành vi này là hoàn toàn xác đáng, bởi lẽ khi
thực hiện khuyến mại như trên đã tạo ra những hành động xấu tác động trực tiếp đối thủ
của mình.
Ví dụ điển hình cho hoạt động CTKLM này, đó là việc mạng di động Viettel đã tố
giác mạng di động MobiFone về hành vi CTKLM. Trong đơn tố giác ngày 17/6/2009,
mạng di động Viettel đã nêu rõ hành vi khuyến mại nhằm CTKLM của mạng MobiFone
tại địa bàn tỉnh Hải Dương. Tại đây, MobiFone đã bán hàng lưu động với chương trình
22


"Đổi sim mạng khác lấy sim MobiFone có 230.000 đồng trong tài khoản”. Theo đó,
khách hàng có sim của mạng khác (trong đó có Viettel), còn tài khoản dưới 15.000 đồng
và còn hạn sử dụng, có thể đổi miễn phí lấy 1sim MobiZone của MobiFone có sẵn trong
tài khoản 50.000 đồng, mỗi tháng tặng thêm 15.000 đồng, tặng trong 12 tháng. Như vậy,
có thể thấy đây là hành vi khuyến mại trực tiếp gây ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh của
MobiFone. Hãng này thu hút khách hàng của mạng di động khác chuyển sang sử dụng
dịch vụ của mình bằng việc khuyến mại không lành mạnh. Việc làm này đã vi phạm
nghiêm trọng về pháp Luật Chống CTKLM.
Loại hình khuyến mại này cũng đã không ít lần được các doanh nghiệp sử dụng
trong quá trình xúc tiến thương mại của mình. Đây là loại hình khi thương nhân sử dụng
sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của đối thủ, thay đổi thói quen người tiêu dùng,
gây ra việc CTKLM. Tuy vậy, loại hình này được thương nhân sử dụng cũng xuất phát từ
nguyên nhân thiếu hiểu biết về pháp luật cạnh tranh mà thương nhân vô tình vi phạm
pháp luật. Nhiều thương nhân chỉ cho rằng đây là hành vi khuyến mại thông thường, cạnh
tranh một cách lành mạnh, do vậy đã dẫn đến việc vi phạm pháp luật. Cần có sự tuyên
truyền sâu rộng pháp luật cạnh tranh và hành vi CTKLM này để thương nhân và người

tiêu dùng hiểu rõ, tránh những vi phạm pháp luật không đáng có xảy ra.
Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/1/2008, quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại và Nghị định số 112/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 về
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/01/2008 của
Chính phủ, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại đã có
những quy định rất cụ thể về việc xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động thương mại.
Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật quy định cấm, được thể hiện chi tiết tại
Điều 29 Nghị định 06/2008/NĐ-CP.

23


×