Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của tòa án từ thực tiễn tòa án nhân dân thành phố bắc giang, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 92 trang )

NGUYỄN PHƯƠNG THẢO

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

THỦ TỤC SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG
MẠI CỦA TÒA ÁN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

NGUYỄN PHƯƠNG THẢO

2016 - 2018

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
THỦ TỤC SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG
MẠI CỦA TÒA ÁN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG
NGUYỄN PHƯƠNG THẢO

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ

: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS.NGUYỄN CÔNG BÌNH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi
đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Đào tạo sau Đại học - Trường đại học Mở Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Đào tạo sau đại học-Trường đại
học Mở Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Phương Thảo


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh
sự nỗ lực, cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý thầy cô,
cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong suốt thời
gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến thầy TS.Nguyễn Công Bình, người

đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô khoa Đào tạo sau Đại
học -Trường đại học Mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu
cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập
nghiên cứu cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.

Học viên thực hiện

Nguyễn Phương Thảo


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU...............................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC SƠ THẨM VỤ
ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN ..................................6
1.1. Khái niệm và đặc điểm thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương
mại của Toà án ..............................................................................................6
1.1.1. Khái niệm thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Toà án ...6
1.1.2. Đặc điểm thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Tòa án...11
1.2. Cơ sở pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương
mại của Tòa án ............................................................................................13
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án
kinh doanh thương mại của Tòa án .........................................................13
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án
kinh doanh thương mại của Tòa án .........................................................16
1.3. Sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam về

thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Tòa án từ năm 1945
đến nay ........................................................................................................17
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2004 ..........................................18
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay ....................................................20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................24
Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH
THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN..................................................................25
2.1. Quy định về khởi kiện và thụ lý vụ án kinh doanh thương mại ........25
2.1.1. Quy định về khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại ....................25
2.1.2. Quy định về thụ lý vụ án kinh doanh thương mại ..........................30


2.2. Quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm và hòa giải vụ án kinh
doanh thương mại ......................................................................................33
2.2.1. Quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại .....33
2.2.2. Quy định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải vụ án kinh doanh thương mại ................................38
2.3. Quy định về phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại ..........43
2.3.1 Những quy định chung về phiên tòa sơ thẩm .................................43
2.3.2. Quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa ...........................................45
2.3.3. Quy định về tranh tụng tại phiên tòa .............................................47
2.3.4. Quy định về nghị án và tuyên án ...................................................53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................55
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN THỦ TỤC SƠ THẨM VỤ ÁN KINH
DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC
GIANG, TỈNH BẮC GIANG VÀ KIẾN NGHỊ ........................................56
3.1. Thực tiễn thực hiện thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại tại
Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang ..........................56
3.1.1. Kết quả thực hiện thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của

Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang ..........................56
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế trong thực hiện thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh
thương mại của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang ........58
3.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện thủ
tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân thành phố
Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang .....................................................................63
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thủ tục sơ thẩm vụ án kinh
doanh thương mại của Tòa án....................................................................72
3.2.1. Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật thủ tục sơ thẩm vụ án
kinh doanh thương mại của Tòa án .........................................................72
3.2. 2. Một số kiến nghị về thực hiện pháp luật về thủ tục sơ thẩm vụ án
kinh doanh thương mại của Tòa án .........................................................76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3............................................................................81
KẾT LUẬN .................................................................................................82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................83


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

BPKCTT

: Biện pháp khẩn cấp tạm thời

HĐXX

: Hội đồng xét xử


HĐTPTANDTC

: Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tốii cao

KDTM

: Kinh doanh thương mại

LTM

: Luật Thương Mại

LSĐBSBLTTDS

: Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự

PLTTGQCVAKT

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

TTDS

: Tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

VKS


: Viện kiểm sát

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, các tranh chấp về kinh doanh
thương mại (KDTM) ngày càng đa dạng và phức tạp. Mặt khác khi nước ta đã gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhiều quan hệ kinh tế cũng mang những
diện mạo sắc thái mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này,
các tranh chấp KDTM ngày càng muôn hình muôn vẻ và với số lượng lớn. Ở Việt
Nam các đương sự thường lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp KDTM bằng
Toà án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của
mình khi thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hoà giải. Chính vì vậy,
Toà án có vai trò vô cùng quan trọng. Hơn nữa, trong Nhà nước pháp quyền hoạt
động xét xử của Toà án phải đảm bảo công minh, nhanh chóng, chính xác và kịp
thời tránh tình trạng tồn đọng án, giải quyết án kéo dài, dễ gây phiền hà, mệt mỏi
cho các bên đương sự.
Trước đây, số lượng vụ án KDTM phát sinh tại Tòa án không nhiều. Những
năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ
KDTM cũng phát triển phong phú và đa dạng, theo đó những tranh chấp KDTM
nảy sinh cũng nhiều, ngày càng phức tạp về nội dung và gay gắt về mức độ. Số
lượng các vụ án KDTM các Tòa án thụ lý giải quyết ngày càng nhiều và từ đó đã
đặt ra những yêu cầu mới đối với giải quyết tranh chấp KDTM.
Ở các Tòa án của tỉnh Bắc Giang, số các vụ án KDTM cũng chiếm tỷ lệ lớn
các vụ án dân sự các Tòa án thụ lý giải quyết. Riêng ở Tòa án nhân dân (TAND)
thành phố Bắc Giang thì loại vụ án này lại càng nhiều, phức tạp bởi thành phố Bắc

Giang là một trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh với số lượng dân cư đông, nhất
là từ năm 2011 khi thành phố mở rộng địa giới hành chính sát nhập thêm 05 xã
(tăng diện tích gấp đôi lên 64km2 và tăng thêm khoảng hơn 05 vạn dân, nâng tổng
dân số của thành phố trên 16 vạn người). Hầu hết là các vụ án về tranh chấp hợp
đồng mua bán hàng hóa, tranh chấp hợp đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng dịch
vụ, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán…

1


Để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự tại các Tòa án, trong đó
có các tranh chấp KDTM ngày 25/11/2015 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 thay thế BLTTDS năm 2004. Bộ luật này
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Tuy vậy, qua hai năm thực hiện BLTTDS
năm 2015 cho thấy vẫn còn có những vướng mắc nhất định.
Sự gia tăng, đa dạng và phức tạp các vụ án KDTM Tòa án phải thụ lý giải
quyết và những vướng mắc trong việc thực hiện BLTTDS năm 2015 đòi hỏi phải
tiếp tục nghiên cứu về thủ tục giải quyết các tranh chấp KDTM của Tòa án nhằm
góp phần giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các tranh chấp KDTM đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Với lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề
tài “Thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Tòa án từ thực tiễn Tòa án
nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang” nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay đã có nhiều công trình khoa học pháp lý nghiên cứu về việc
giải quyết tranh chấp KDTM, trong đó có cả việc giải quyết tranh chấp KDTM của
Tòa án như luận văn thạc sỹ “Thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại - Thực
tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội” của tác giả
Tưởng Thị Lan bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2014; luận văn thạc sỹ “Pháp
luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục tố tụng Tòa án ở

Việt Nam hiện nay” của tác giả Đinh Thị Trang bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2013; bài viết "Một số kiến nghị liên quan đến quy định
về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án theo Điều
29 Bộ luật tố tụng dân sự " của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh đăng trên Tạp chí
Nghề luật số 3/2010; bài viết "Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án" của tác giả Triệu Thị Quỳnh Hoa
đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 19/2012. Tuy nhiên, đó đều là các công trình
nghiên cứu khoa học thực hiện trước khi BLTTDS năm 2015 được ban hành. Từ
khi BLTTDS năm 2015 được ban hành chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào
nghiên cứu đầy đủ và toàn diện thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của

2


Tòa án, nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến vấn đề này vẫn chưa được đề cập giải
quyết. Mặt khác, cho tới nay cũng chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về
thực tiễn thực hiện tại TAND thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về thủ tục sơ
thẩm vụ án KDTM của Tòa án, nội dung các quy định của BLTTDS năm 2015 về vấn
đề này và thực tiễn thực hiện chúng tại TAND thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang,
phát hiện được những bất cập trong các quy định của pháp luật và vướng mắc trong việc
thực hiện chúng, tìm ra nguyên nhân và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục sơ
thẩm vụ án KDTM của Tòa án.
Trên cơ sở mục tiêu đã xác định, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
- Phân tích những vấn đề lý luận về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM;
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM;
- Khảo sát thực tiễn thực hiện thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM tại TAND thành

phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, nhận diện những hạn chế trong việc thực hiện và
nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện;
- Tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục sơ thẩm vụ án
KDTM của Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài bao gồm:
- Những vấn đề lý luận về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM;
- Các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM;
- Thực tiễn thực hiện thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của TAND thành phố
Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
Phạm vi nghiên cứu tập trung vào những vấn đề cơ bản sau đây:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM như khái
niệm và đặc điểm của thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại tại Toà án; cơ
sở của việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM tại Toà án;

3


- Nội dung các quy định của BLTTDS năm 2015 về thủ tục sơ thẩm vụ án
KDTM như các quy định thủ tục khởi kiện, thụ lý, chuẩn bị sơ thẩm và hòa giải vụ
án KDTM, phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM;
- Thực tiễn thực hiện thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM tại TAND thành phố Bắc
Giang, tỉnh Bắc Giang trong năm năm gần đây.
Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam về vấn đề này từ năm 1945 đến trước khi ban hành
BLTTDS năm 2015 để đối chiếu, tham khảo. Tuy nhiên, việc nghiên cứu không tiến
hành đối với các quy định của pháp luật tố tụng dân sự của chính quyền Sài Gòn về
về vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cớ sở phương pháp luận của Chủ

nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài cũng sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thực tiễn v.v..để giải
quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn đã luận giải và làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục sơ
thẩm vụ án KDTM như khái niệm, đặc điểm của thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của
Toà án; cơ sở pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Toà án.
- Luận văn đã phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự hiện hành về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án và thực tiễn
thực hiện chúng đồng thời phát hiện được những vướng mắc cũng như nguyên nhân
của những vướng mắc từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện
các quy định về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án.
- Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc giảng dạy của các cơ sở
đào tạo luật, nghiên cứu hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự và áp dụng pháp luật
tố tụng dân sự trong giải quyết sơ thẩm các vụ án KDTM của Toà án.

4


7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm: Lời nói đầu, phần nội dung và kết luận. Phần nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương
mại của Tòa án
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ
tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Tòa án
Chương 3: Thực tiễn thực hiện thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại

tại TAND thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang và kiến nghị

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC
SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI
CỦA TÒA ÁN
1.1. Khái niệm và đặc điểm thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của
Toà án
1.1.1. Khái niệm thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Toà án
Hiện nay, thuật ngữ tranh chấp KDTM, thuật ngữ vụ án KDTM và thuật ngữ
thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM chưa được định nghĩa cụ thể trong hệ thống văn bản
pháp luật Việt Nam. Trên thực tế, vẫn có sự nhầm lẫn về các thuật ngữ KDTM với
các thuật ngữ khác. Vì vậy, để làm rõ thuật ngữ thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM điều
cần thiết trước hết là phải làm rõ được thuật ngữ tranh chấp KDTM, vụ án KDTM.
Theo quan niệm chung, thuật ngữ "kinh doanh" được hiểu là sản xuất, buôn
bán sao cho có sinh lời, có lợi nhuận; thuật ngữ "kinh tế" được hiểu là tổng thể nói
chung những quan hệ sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định; thuật
ngữ "thương mại" được hiểu là thực hiện lưu thông hàng hóa bằng mua bán; thuật
ngữ "tranh chấp" được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ
phát sinh giữa các bên liên quan. Theo đó, nội hàm tranh chấp kinh tế rộng hơn, bao
gồm cả tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Ở Việt Nam, qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội, quan niệm về tranh
chấp kinh tế có những điểm khác nhau. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, nền kinh tế được quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, với hệ thống
chi tiêu, kế hoạch do nhà nước giao. Hợp đồng kinh tế thời kỳ này không chỉ là một
hình thức pháp lý để triển khai các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị
kinh tế Nhà nước, mà còn được sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế của Nhà

nước. Do vậy, việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc chứ
không hoàn toàn từ lợi ích kinh tế của các bên tham gia hợp đồng. Trách nhiệm thực

6


hiện hợp đồng giữa các bên tham gia bị coi nhẹ hơn so với trách nhiệm của các bên
đối với cơ quan chủ quản. Trách nhiệm phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế nhẹ
về yếu tố vật chất mà nặng về tính chất hành chính.
Có thể nói trong giai đoạn này, các quan hệ kinh tế vốn khá đơn giản về nội
dung và thành phần chủ thể, lại được điều chỉnh bởi kinh tế Nhà nước. Vì vậy, các
tranh chấp kinh tế phát sinh không nhiều và chủ yếu là các tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa với nhau để
triển khai kế hoạch kinh doanh đã được Nhà nước phê duyệt từ trước. Các tranh
chấp kinh tế trong giai đoạn này không thể hiện rõ bản chất tranh chấp phát sinh do
xung đột lợi ích của các bên và việc giải quyết tranh chấp cũng không xuất phát từ
quyền lợi thiết thực của các bên mà chủ yếu vì sự ổn định, hài hòa chung cho cả nền
kinh tế.
Trong quá trình đổi mới, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và không ngừng hội nhập cùng nền kinh tế thế
giới. Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO dẫn đến nền kinh
tế ngày càng khởi sắc hơn, xuất hiện thêm nhiều hơn các chủ thể kinh doanh, đặc
biệt là các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các loại
hình công ty và hộ kinh doanh cá thể, bên cạnh các Doanh nghiệp Nhà nước và hợp
tác xã. Các quan hệ kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều với hình thức phong phú và
tính chất phức tạp nên Nhà nước phải tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh,
để các quan hệ kinh tế được xây dựng và thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự do, bình
đẳng, cùng có lợi và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Trong
giai đoạn này, kinh doanh đúng pháp luật để đạt lợi nhuận tối đa là mục tiêu của
phần lớn các doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng chính môi trường này cũng khiến phát

sinh ngày càng nhiều các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế. Do vậy, cần thiết phải nghiên cứu, mở
rộng nội hàm của khái niệm tranh chấp kinh tế.
Trong Luật Thương mại (LTM) năm 2005 không đưa ra định nghĩa về tranh
chấp thương mại, mà đưa ra định nghĩa về hoạt động thương mại, theo đó hoạt động
thương mại là "hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,

7


cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác" (Khoản 1 Điều 3 LTM). Theo định nghĩa này, quan niệm về hoạt động
thương mại cũng đã được mở rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi.
Hướng tiếp cận này của LTM cho thấy, định nghĩa về hoạt động thương mại đã được
mở rộng tương đồng với định nghĩa kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp 2014:
"Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi." (Khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
Theo khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015 thì tranh chấp KDTM được hiểu
là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có
đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Ngoài ra, theo khoản
2, 3 và 4 Điều 30 Điều 30 BLTTDS năm 2015 thì tranh chấp KDTM còn bao gồm
cả tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp giữa người chưa phải là
thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công
ty, thành viên công ty; tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty và
tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình

thức tổ chức của công ty v.v..Theo các quy định này thì có thể hiểu rằng, tranh
chấp KDTM thực chất là tranh chấp kinh tế đã được mở rộng nội hàm cho phù
hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung
của tranh chấp KDTM được liệt kê tại Điều 30 BLTTDS năm 2015, thực chất
cũng là những tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của LTM. Tuy có nhiều
quan điểm, nhiều cách hiểu khác nhau và có sự thay đổi trong thuật ngữ pháp lý,
nhưng thực tế đều nhìn nhận những xung đột về lợi ích kinh tế trong quan hệ
KDTM là tranh chấp KDTM. Nhìn chung quan niệm về hoạt động thương mại và
tranh chấp KDTM được thể hiện qua các quy định trong văn bản pháp luật thời
gian gần đây là khá nhất quán. Như vậy, tranh chấp KDTM là sự bất đồng, mâu

8


thuẫn, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh liên quan
đến lợi ích kinh tế trong quá trình hoạt động KDTM.
Theo quy định của BLTTDS năm 2015, khi xảy ra tranh chấp trong lĩnh vực
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đương sự khởi kiện
và được Tòa án thụ lý giải quyết thì được gọi là vụ án dân sự. Trong đó, những
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ quan hệ pháp luật KDTM
được quy định tại Điều 30 BLTTDS năm 2015 được Tòa án thụ lý giải quyết được
gọi là vụ án KDTM.
BLTTDS năm 2015 bao gồm 42 chương và 517 điều quy định về thủ tục giải
quyết vụ án dân sự. Các điều từ Điều 186 đến Điều 269 quy định về thủ tục sơ thẩm
giải quyết vụ án dân sự. Bên cạnh đó, các điều từ Điều 1 đến Điều 185 quy định về
nguyên tắc, thẩm quyền của Tòa án nhân dân, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng, chứng minh và chứng cứ, biện pháp khẩn
cấp tạm thời, cấp, thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng, thời hạn tố tụng, thời
hiệu khởi kiện, án phí. Các quy định này quy định về nguyên tắc cũng được áp dụng
để giải quyết sơ thẩm vụ án KDTM.

Trong tiếng Việt, “Thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự
quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức”. Theo quy định của
BLTTDS năm 2015, vụ án KDTM là một loại của vụ án dân sự (theo nghĩa rộng).
Các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, KDTM và lao động đều được giải quyết
theo thủ tục tố tụng dân sự (TTDS). Do đó, thủ tục giải quyết vụ án KDTM là một
trong những thủ tục của TTDS.
Theo quy định tại Điều 17 BLTTDS năm 2015, Toà án đảm bảo thực hiện
chế độ hai cấp xét xử: Sơ thẩm và phúc thẩm. Tuy nhiên, không phải bất kỳ vụ án
KDTM nào cũng phải trải qua xét xử ở hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm. Tùy
vào kết quả việc giải quyết vụ án KDTM ở Tòa án cấp sơ thẩm và tùy thuộc vào
đương sự mà việc giải quyết vụ án KDTM có thể kết thúc ở giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm hoặc phiên tòa sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm.
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội
thì "sơ thẩm là xét xử lần đầu vụ án dân sự" [32, tr 225]. Vì vậy, thủ tục tố tụng giải

9


quyết vụ án dân sự lần đầu được gọi là thủ tục sơ thẩm. Thủ tục sơ thẩm vụ án dân
sự bao gồm thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự, chuẩn bị xét xử sơ thẩm và xét
xử sơ thẩm vụ án dân sự. Tuy nhiên, định nghĩa này còn khá sơ sài chưa khái quát
được những vấn đề bản chất của thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự.
Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp thì "Thủ
tục xét xử sơ thẩm là cách thức, trình tự tiến hành xét xử lần đầu đối với một vụ án
hoặc xét xử lại từ đầu theo quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét
xử giám đốc thẩm hoặc Hội đồng xét xử tái thẩm"[35, tr 730]. Định nghĩa này so
với định nghĩa trên giải thích về thủ tục sơ thẩm vụ án tương đối đầy đủ, cụ thể và
rõ ràng hơn. Tuy nhiên, định nghĩa này chưa thể hiện được mục đích, yêu cầu và
các công việc phải làm khi Tòa án giải quyết vụ án.
Việc giải quyết các vụ án KDTM là giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn,

xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh liên quan đến lợi
ích kinh tế phát sinh trong hoạt động KDTM. Thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM là
thủ tục cơ bản của TTDS, bất kỳ việc giải quyết vụ án KDTM nào cũng phải
qua. Thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM là thủ tục xét xử lần đầu hoặc xét xử lại từ
đầu đối với vụ án KDTM (trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm, Hội
đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc Hội đồng xét xử tái thẩm hủy bản án để xét xử
lại vụ án). Thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM do Tòa án có thẩm quyền thực hiện
theo trình tự do pháp luật TTDS quy định. Thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM bao
gồm các công việc như khởi kiện, thụ lý, chuẩn bị xét xử sơ thẩm và xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM.
Từ những điều phân tích ở trên, có thể rút ra kết luận: “Thủ tục sơ thẩm vụ
án KDTM của Tòa án là thủ tục cơ bản của TTDS, xét xử lần đầu hoặc xét xử lại từ
đầu đối với vụ án KDTM, được Tòa án có thẩm quyền thực hiện theo trình tự do
pháp luật TTDS quy định để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền
lợi và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh liên quan đến lợi ích kinh tế phát sinh
trong hoạt động KDTM, bao gồm thủ tục khởi kiện, thụ lý, chuẩn bị xét xử sơ thẩm
và xét xử sơ thẩm vụ án KDTM”.

10


1.1.2. Đặc điểm thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Tòa án
Thủ tục giải quyết sơ thẩm vụ án KDTM không được quy định riêng trong
pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm sẽ áp dụng các quy định về thủ tục giải
quyết sơ thẩm vụ án dân sự nói chung để giải quyết các tranh chấp KDTM. Vì vậy,
thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM cũng mang những đặc điểm chung của thủ tục sơ
thẩm vụ án dân sự như sau:
- Là thủ tục cơ bản của TTDS, được tiến hành theo một trình tự nhất định do
pháp luật tố tụng dân sự quy định, bao gồm các việc như khởi kiện và thụ lý vụ án,
chuẩn bị xét xử sơ thẩm và phiên tòa sơ thẩm vụ án.

- Là thủ tục tố tụng đầu tiên giải quyết tranh chấp nên trong trường hợp
không không đồng ý với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm thì đương sự
vẫn có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát vẫn có quyền kháng nghị bản án, quyết định
theo thủ tục phúc thẩm.
Tuy vậy, bên cạnh những đặc điểm chung của thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự,
thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM cũng có một số đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, các bên tranh chấp KDTM phải là một tổ chức kinh tế hoặc hộ
kinh doanh, cá nhân hoặc hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh. Các tranh chấp
không có đặc điểm này là tranh chấp dân sự. Đối với các hoạt động của các cá nhân
không có đăng ký kinh doanh, theo Điều 66 của Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày
14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp không được coi là hoạt động
thương mại, do vậy tranh chấp giữa họ không phải là tranh chấp KDTM, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác như tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao
công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận quy định tại
khoản 2 Điều 30 BLTTDS năm 2015.
Thứ hai, các bên trong tranh chấp KDTM phải đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp nào chỉ có một bên có mục đích lợi nhuận còn bên còn lại không vì mục
đích lợi nhuận sẽ không phải là tranh chấp KDTM. BLTTDS năm 2015 quy định
như vậy sẽ tương thích, phù hợp với Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam.
Ngoài ra, BLTTDS 2015 còn quy định tranh chấp KDTM bao gồm cả tranh chấp
giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng

11


phần vốn góp với công ty, thành viên công ty; tranh chấp giữa công ty với các thành
viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong
công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty,

chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Trong thực tiễn đã xảy ra nhiều tranh
chấp về việc chuyển nhượng vốn của công ty mà một bên chưa phải là thành viên
công ty.
Thứ ba, về các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện, ngoài tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp thì
người nộp đơn khởi kiện phải nộp kèm theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
Điều lệ hoạt động của pháp nhân… để chứng minh tư cách chủ thể của mình.
Thứ tư, về hình thức đơn khởi kiện, đối với các vụ án KDTM cần lưu ý đến
người đứng tên trong đơn khởi kiện. Đương sự trong các tranh chấp KDTM thường
là các chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân như Công ty nhà nước, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã hay hộ kinh
doanh cá thể, do đó, người ký đơn khởi kiện trong trường hợp này là người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân cũng có
thể ủy quyền cho người khác ký đơn khởi kiện và tham gia tố tụng tại Tòa án. Khi
đó Tòa án cần kiểm tra việc ủy quyền ký đơn khởi kiện và tham gia tố tụng đó có
đúng quy định pháp luật hay không. Ngoài ra, đương sự là công ty thì đơn khởi kiện
phải có dấu của công ty vào cuối đơn.
Thứ năm, về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án KDTM là hai tháng, trường hợp
vụ án KDTM có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì được gia hạn
thêm một tháng. Như vậy, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án KDTM tính cả thời gian
gia hạn mới là ba tháng. Trong khi đó, thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án
dân sự và vụ án hôn nhân và gia đình nếu tính cả thời gian gia hạn là sáu tháng.
Thứ sáu, về giá trị tài sản tranh chấp trong các vụ án KDTM thường rất lớn
vì vậy, số tiền tạm ứng án phí và án phí đương sự phải nộp trong các vụ án KDTM
theo quy định của pháp luật hiện hành thường là rất lớn.

12


1.2. Cơ sở pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại

của Tòa án
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án kinh
doanh thương mại của Tòa án
Một là, việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
xuất phát từ yêu cầu giải quyết tranh chấp KDTM để ổn định xã hội nhằm phát
triển kinh tế, xã hội.
Nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển với tốc độ rất đáng lạc quan theo
cơ chế thị trường. Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích
cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, hoạt động KDTM của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những tác động cũng như đóng góp đáng kể cho
sự phát triển chung của đất nước.
Nhưng trong bối cảnh đó thì các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa
dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh
doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức nước ngoài. Một xã hội có nền
kinh tế đã và đang phát triển thì kéo theo tình trạng tranh chấp về kinh doanh
thương mại xảy ra ngày càng nhiều, không những phức tạp về tính chất mà còn đa
dạng về nội dung. Chính vì vậy tranh chấp KDTM là điều không thể tránh khỏi và
cần được quan tâm giải quyết kịp thời. Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật phải
ngày một hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu giải quyết các tranh chấp KDTM để ổn
định xã hội nhằm phát triển kinh tế, xã hội. Đặc biệt BLTTDS năm 2015 ra đời, đã
đánh dấu rất ý nghĩa của quá trình hoàn thiện khung pháp lý về thủ tục sơ thẩm vụ
án KDTM của Tòa án.
Hai là, việc pháp luật quy định về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
là căn cứ vào tính chất của quan hệ pháp luật KDTM Tòa án giải quyết.
Thông thường, các nhóm quan hệ pháp luật khác nhau sẽ được điều chỉnh
bởi các quy phạm pháp luật của từng ngành luật nội dung và luật tố tụng riêng biệt.
Như các quan hệ pháp luật hành chính được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật
của luật hành chính và luật tố tụng hành chính, các quan hệ pháp luật hình sự được


13


điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật của luật hình sự và luật tố tụng hình sự, các
quan hệ pháp luật dân sự được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật của luật dân
sự và tố tụng dân sự.
Ở nước ta, các quan hệ pháp luật phát sinh trong KDTM nói riêng hay lĩnh
vực dân sự nói chung, đều có cùng tính chất là các quan hệ tài sản, quan hệ nhân
thân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện cam kết, thỏa thuận và tự định
đoạt của các bên. Khi có tranh chấp phát sinh, các bên cần có cơ chế để giải quyết
tranh chấp và cũng phải có các quy phạm pháp luật tương ứng để điều chỉnh và giải
quyết các tranh chấp. Tòa án nhân dân là một trong những phương thức giải quyết
tranh chấp như thế. Do vậy việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM
cùng thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự là cần thiết.
Ba là, việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của
Tòa án căn cứ vào chủ trương của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp.
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị xã hội. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị. Điều 4 Hiến pháp Việt Nam năm
2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Với vai trò đó, nội dung chủ trương,
đường lối của Đảng đã thể chế hóa nguyện vọng của toàn thể nhân dân, góp phần
hoàn thiện Bộ máy Nhà nước cũng như hệ thống pháp luật.
Trong thời gian qua, hệ thống các cơ quan tư pháp nước ta đã góp phần quan
trọng vào việc giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tuy nhiên, bên cạnh

những kết quả đã đạt được, hệ thống các cơ quan tư pháp cũng đã bộc lộ một số hạn
chế như tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các cơ quan
còn bất hợp lý; cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu và một bộ phận còn yếu về

14


trình độ, bản lĩnh chính trị; cơ sở vật chất, phương tiện làm việc còn thiếu thốn, lạc
hậu… Trước thực trạng đó, vấn đề cải cách tư pháp đã được chính thức đặt ra và ghi
nhận trong các Nghị quyết số 08 Trung ương khoá VII, Nghị quyết số 03 và 07
Trung ương khoá VIII, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và trọng tâm
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đưa ra một
trong những yêu cầu nhiệm vụ cụ thể trong thời gian tới đó là: “Xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp.
Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân”. Có
thể nói, đây chính là cơ sở lý luận rất quan trọng để pháp luật quy định về thủ tục sơ
thẩm vụ án KDTM của Tòa án.
Bốn là, việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án căn
cứ vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Ở nước ta, theo quy định của pháp luật hiện hành, Tòa án là cơ quan tư pháp
có chức năng giải quyết tranh chấp cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Điều 3 Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định hệ thống Tòa án của Việt Nam bao
gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án quân sự. Theo đó, hệ thống Tòa án ở Việt Nam
được tổ chức theo địa giới hành chính và chỉ có Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp
tỉnh mới có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ việc dân sự nói chung, trong đó có
các vụ việc về KDTM.
Việc quy định Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các

tranh chấp KDTM vì Tòa án cấp huyện là Tòa cơ sở nên sẽ thuận lợi hơn cho đương
sự nộp đơn khởi kiện và sự tham gia của đương sự trong suốt quá trình tố tụng.
Trong khi đó, việc quy định Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ
án KDTM là vì so với Tòa án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh có ưu thế hơn hẳn về trình
độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ Thẩm phán, đồng thời, trong trường hợp những
vụ án KDTM có nhiều tình tiết phức tạp mà Toà án cấp huyện không thể giải quyết
được thì vụ án đó về nguyên tắc phải được giải quyết bởi một Tòa án có thẩm quyền

15


cao hơn và đó là Toà án cấp tỉnh. Như vậy, chúng ta có thể thấy mỗi cấp Tòa án
mang những đặc điểm và ưu thế riêng của nó. Do đó, khi xây dựng các quy định về
thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án cần phải căn cứ vào các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của hệ thống Tòa án, năng lực thực tế của mỗi cấp Tòa án là điều
hết sức cần thiết.
Năm là, việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
tạo điều kiện cho các đương sự bảo vệ có hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm.
Có thể nói, đây chính là cơ sở quan trọng để pháp luật quy định về thủ tục sơ
thẩm vụ án KDTM của Tòa án. Về nguyên tắc, các quan hệ pháp luật KDTM được
hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận và tự định
đoạt của các chủ thể. Khi có tranh chấp xảy ra các bên đương sự có thể lựa chọn các
phương tức giải quyết các tranh chấp khác nhau để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình như tự yêu cầu chủ thể có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi
xâm phạm, yêu cầu Trọng tài hay Tòa án giải quyết tranh chấp. Việc yêu cầu Tòa án
giải quyết tranh chấp KDTM bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ thể có ưu điểm là
Tòa án là cơ quan xét xử có chuyên môn, nghiệp vụ giải quyết tranh chấp, quyết định
của Tòa án được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước. Do đó, việc pháp luật
quy định về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án để giải quyết các tranh chấp

nhanh chóng, đúng đắn các tranh chấp KDTM là cần thiết cho các đương sự bảo vệ có
hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án kinh
doanh thương mại của Tòa án
Một là, việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
xuất phát từ tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Như chúng ta đã biết, pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng và
có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại đối với cơ sở hạ tầng - nền kinh tế sản
sinh ra nó. Pháp luật càng bám sát thực tiễn và có tính dự báo cao thì pháp luật đó
hiệu quả điều chỉnh càng cao. Do vậy, một khi kinh tế - xã hội của đất nước thay
đổi, phát triển thì tất yếu pháp luật phải đổi thay để điều chỉnh kịp thời các quan hệ

16


kinh tế mới nảy sinh trong đời sống xã hội. Có như vậy thì mới có thể nâng cao
được hiệu quả áp dụng pháp luật. Những năm gần đây, trong xu thế khu vực hóa,
toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế, Việt Nam đã ký kết rất nhiều hiệp định song
phương và đa phương về phát triển kinh tế cũng như gia nhập vào WTO đã góp
phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế ở nước ta phát triển nhanh chóng. Sự phát triển
nhanh chóng của nền kinh tế tất yếu đòi hỏi hệ thống pháp luật tố tụng dân sự nước
ta nói chung và pháp luật về giải quyết các tranh chấp KDTM của Tòa án nói riêng
phải có sự thay đổi để điều chỉnh cho phù hợp hơn với thực tiễn. Do đó, việc xây
dựng các quy định về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án xuất phát từ tình
hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong từng giai đoạn và cho cả tiến trình
phát triển là điều hết sức cần thiết.
Hai là, việc pháp luật quy định thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án xuất
phát từ thực tiễn giải quyết loại tranh chấp này trong thời gian qua.
Trước đây, khi đất nước ta xây dựng nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp, các quan hệ kinh tế còn đơn giản và chưa nhiều. Theo đó, các tranh

chấp kinh tế mà chủ yếu tranh chấp về hợp đồng kinh tế được giải quyết theo trình tự,
thủ tục của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT) năm
1994. Nhưng kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc biệt việc mở rộng giao lưu, hợp tác
quốc tế đã kéo theo đó là sự phức tạp hơn trong các quan hệ KDTM và Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 đã bộc lộ những hạn chế, thiếu sót, không
bao quát hết tất cả các tranh chấp KDTM mới nảy sinh trong thực tiễn. Vì vậy, các
quy định về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án phải được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp hơn với thực tiễn là một yêu cầu khách quan.
1.3. Sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ
tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Tòa án từ năm 1945 đến nay
Cùng với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp
luật tố tụng dân sự cũng đã có một quá trình phát triển lâu dài và từng bước đi vào
hoàn thiện. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về thủ tục sơ thẩm vụ án
KDTM của Tòa án qua các thời kì lịch sử sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn sâu sắc

17


và toàn diện hơn về vấn đề này. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể rút ra những bài học
kinh nghiệm quý giá vào việc bổ sung, hoàn thiện pháp luật về vấn đề này trong giai
đoạn hiện nay. Trong phạm vi đề tài, luận văn trình bày, phân tích các quy định của
pháp luật Việt Nam về thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án theo hai giai đoạn
đó là: Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2004 và giai đoạn từ năm 2004 đến nay.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2004
Đây là giai đoạn phát triển mới của các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết
các tranh chấp KDTM và được đánh dấu bởi việc ban hành PLTTGQCVAKT. Đây là
giai đoạn mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả sau một thời gian đổi
mới. Nền kinh tế Việt Nam đã dần khắc phục được những thiệt hại nặng nề do chiến
tranh và sự ảnh hưởng của kinh tế tập trung, bao cấp. Chính vì sự thay đổi này đòi hỏi

phải có sự đổi mới các quy định của pháp luật. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế được ban hành ngày 16/03/1994 đã quy định cụ thể hơn thủ tục sơ thẩm của
Tòa án trong việc xét xử các vụ án kinh tế.
Theo đó, Điều 12 PLTTGQCVAKT quy định Tòa án có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp kinh tế thuộc các nhóm: Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa
pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh; các
tranh chấp giữa Công ty với các thành viên của Công ty, giữa các thành viên của
Công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể Công ty; các
tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu; và các tranh chấp kinh
tế khác theo quy định của pháp luật.
Điều 13 của PLTTGQCVAKT quy định: “Toà án cấp huyện giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp dưới
50 triệu đồng, trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài. Toà án cấp tỉnh giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm những vụ án kinh tế được quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh
này, trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện. Trong trường hợp
cần thiết Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án kinh tế thuộc thẩm
quyền của Toà án cấp huyện.” Để đảm bảo quyền lợi cho đương sự, Điều 13 của
PLTTGQCVAKT quy định về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của
nguyên đơn.

18


×