Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.79 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TRONG
LĨNH VỰC BẢO HIỂM

TÁC GIẢ LUẬN VĂN
TRỊNH ĐỨC BẰNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. CHU THỊ HOA

HÀ NỘI - 2018

1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Giải quyết tranh chấp thương mại
trong lĩnh vực bảo hiểm” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của TS. Chu Thị Hoa. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của trường Viện Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan


Trịnh Đức Bằng

2


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ
của nhiều cá nhân tổ chức.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô đã tham gia giảng dạy chương trình
đào tạo thạc sĩ ngành Luật Kinh tế tại Viện Đại học Mở Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Chu Thị Hoa đã tận tình giảng dạy,
hỗ trợ và định hướng nghiên cứu trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài luận văn
thạc sĩ này.
Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 2018
Học viên

Trịnh Đức Bằng

3


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

STT

Viết tắt

Viết đầy đủ


1.

BH

Bảo hiểm

2.

BLDS

Bộ luật dân sự

3.

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

4.

VIAC

Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam

5.

TAND

Tòa án nhân dân


6.

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

4


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................... 2
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... 3
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI VỀ BẢO HIỂM ................................................... 14
1.1. Một số khái niệm và đặc điểm ............................................................... 14
1.1.1. Khái niệm và bản chất của bảo hiểm................................................... 14
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm về tranh chấp thương mại về bảo hiểm .......... 21
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm giải quyết tranh chấp thương mại về bảo hiểm23
1.2. Vai trò, nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại về bảo hiểm ........ 25
1.2.1. Vai trò của tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm ............... 25
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm26
1.3. Nội dung giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm..... 27
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................ 31
2.1. Tình hình chung về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tranh chấp trong
lĩnh vực bảo hiểm ......................................................................................... 31
2.2. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại về bảo hiểm. 34

2.2.1. Nội dung pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo
hiểm ............................................................................................................. 34

5


2.2.2. Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm. 46
2.3. Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực bảo
hiểm ............................................................................................................. 58
2.3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp bảo hiểm bằng phương thức thương
lượng, hòa giải, trọng tài (phương thức ngoài Tòa án) .................................. 58
2.3.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp bảo hiểm bằng phương thức trọng tài
thương mại ................................................................................................... 59
2.3.3. Thực tiễn giải quyết tranh chấp bảo hiểm bằng phương thức Tòa án .. 63
2.4. Đánh giá thực trạng ............................................................................... 69
2.4.1. Thực trạng pháp luật về tranh chấp bảo hiểm ..................................... 69
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân trong giải quyết tranh chấp bảo hiểm........... 71
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 82
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẢO HIỂM .. 83
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp bảo hiểm ..... 83
3.2. Giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm ....... 86
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm .................... 86
3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp
thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm ............................................................. 90
3.2.3. Một số kiến nghị khác ........................................................................ 90
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 94
KẾT LUẬN ................................................................................................. 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 96


6


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
(i) Đi cùng sự phát triển kinh tế, ngành bảo hiểm ngày càng phát triển mạnh
mẽ. Kinh doanh bảo hiểm là một hoạt động kinh doanh thương mại đang phát triển
nhanh chóng trong giai đoạn hiện nay. Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh
nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi. Theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp
nhận rủi ro của người được bảo hiểm trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo
hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Khi giữa bên mua
bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm đã đạt được sự thỏa thuận, các bên sẽ lập Hợp
đồng bảo hiểm để ràng buộc quan hệ pháp lý trong quan hệ bảo hiểm. Thị trường
bảo hiểm trong năm 2017 đã có nhiều bước phát triển rõ rệt, tăng trưởng về nhiều
mặt trên toàn thị trường, ở cả 2 mảng chính đó là nhân thọ và phi nhân thọ, doanh
thu tăng trưởng ở mức cao, trở thành một ngành nghề kinh doanh hấp dẫn. Nhiều tổ
chức tài chính nước ngoài đánh giá cao tiềm năng của thị trường bảo hiểm Việt
Nam1.
Tuy nhiên, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và người mua bảo hiểm
thường phải đối mặt với những rủi ro nhất định, đặc biệt là các tranh chấp hợp đồng
bảo hiểm. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo hiểm Việt Nam,
các vụ việc tranh chấp trong lĩnh vực bảo hiểm ngày càng gia tăng về số lượng và
phức tạp về nội dung, với nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngày càng xuất hiện các
vụ tranh chấp bảo hiểm phức tạp và kéo dài. Thời gian giải quyết mỗi vụ tranh chấp
hợp đồng bảo hiểm mất từ 3 đến 5 năm, có những vụ việc kéo dài hơn 10 năm vẫn
chưa kết thúc. Các vụ tranh chấp trong lĩnh vực bảo hiểm đang diễn ra ngày càng
nhiều và phức tạp đòi hỏi phải có những cơ chế giải quyết linh hoạt, phù hợp và
1


(ngày 11/12/2018)

7


hiệu quả, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia các quan hệ
hợp đồng bảo hiểm. Ngoài Tòa án, trọng tài và hòa giải là phương án hiệu quả cho
doanh nghiệp bảo hiểm trong giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế các loại tranh chấp thường phát sinh từ Hợp đồng bảo hiểm và
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam giải quyết trong thời gian qua bao gồm:
Tranh chấp về Doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ giải thích điều kiện;
Tranh chấp về hiệu lực của đơn bảo hiểm; Tranh chấp về nộp chậm phí bảo hiểm và
Tranh chấp trong việc nhận “thế quyền” truy đòi bên thứ ba. Hiện nay, mặc dù số
lượng văn bản pháp luật được ban hành nhiều, nhưng không ít văn bản quy định
chồng chéo hoặc được sửa đổi thường xuyên trong khi đó lại thiếu văn bản hướng
dẫn một cách chi tiết, cho nên gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực bảo hiểm. Bên cạnh đó, việc thực thi Luật Kinh doanh bảo hiểm nói riêng,
các quy định liên quan nói chung còn bộc lộ những hạn chế, gây giảm sút hiệu quả
điều chỉnh pháp luật, làm thị trường phát triển kém lành mạnh, nảy sinh tranh chấp
kéo dài, gây suy giảm niềm tin của một bộ phận người tiêu dùng.
(ii) Tranh chấp trong lĩnh vực bảo hiểm và giải quyết tranh chấp bảo hiểm là
hiện tượng khách quan khó tránh trong một xã hội mà trong đó ngày càng có nhiều
nhóm lợi ích xuất hiện, các quan hệ kinh tế, văn hoá, xã hội ngày càng trở nên phức
tạp hơn và đa dạng hơn. Phương thức giải quyết tranh chấp bảo hiểm không mang
tính bất biến và và không phải là công thức chung cho tất cả các cộng đồng. Chính
vì thế, khó có thể áp dụng máy móc các mô hình được phát triển trong một xã hội
nhất định nào đó vào một xã hội khác, kể cả xã hội có nhiều nét tương đồng về văn
hóa, lịch sử và kinh tế. Phương thức giải quyết tranh chấp phụ thuộc rất nhiều vào
truyền thống pháp luật, nền văn hoá và truyền thống của từng nước. Việt Nam cũng

không là ngoại lệ trong sự hình thành và phát triển các phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại nói chung và tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm nói
riêng. Những đặc thù của Việt Nam về văn hoá, truyền thống pháp luật, lịch sử cần
được nghiên cứu khi xây dựng pháp luật về các thiết chế giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm. Hơn thế, nhu cầu của xã hội hiện đại cần đến sự

8


đa dạng của các phương thức giải quyết tranh chấp phi nhà nước, bên cạnh phương
thức giải quyết tranh chấp là Tòa án. Để có thể đảm bảo quyền lợi cho các bên tham
gia bảo hiểm, cần xây dựng một khung pháp lý hoàn thiện và cơ chế thực thi hiệu
quả cho việc giải quyết tranh chấp.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp thương mại trong
lĩnh vực bảo hiểm” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho tới thời điểm này, giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo
hiểm mặc dù là một trong những vấn đề quan trọng đối với đời sống như vậy,
nhưng vẫn còn rất ít các công trình nghiên cứu. Vấn đề này chủ yếu mới chỉ được
đề cập đến như một phần nhỏ trong các bài viết, khóa luận, luận văn. Tập trung chủ
yếu là nhóm các bài viết còn các nghiên cứu khoa học khác cũng rất ít đề cập đến
việc nghiên cứu về các phương thức giải quyết tranh chấp bảo hiểm với tư cách một
công trình riêng biệt.
Liên quan đến đề tài, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây:
- Trần Thị Thu Hiền (2006), Hợp đồng bảo hiểm và những tranh chấp
thường xảy ra – hướng giải quyết, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Ngoại
thương. Đề tài tập trung vào hệ thống pháp luật của quốc gia và quốc tế về hợp
đồng bảo hiểm. Từ đó phân tích những tranh chấp nảy sinh trong hợp đồng bảo
hiểm đưa ra những giải pháp giải quyết tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm.
- Lại Thái Hùng (2010), Hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe

cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Thái Sơn (GMIC), thực trạng và giải pháp,
Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Lao động xã hội. Đề tài này chủ yếu nghiên
cứu về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong một phạm vi công ty (công ty
cổ phần bảo hiểm Thái Sơn (GMIC)).
- Nguyễn Văn Thuấn (2011), Tình hình trục lợi nghiệp vụ bảo hiểm vật chất
xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex - Thực trạng và giải pháp, Khóa

9


luận tốt nghiệp. Đề tài này chủ yếu nghiên cứu về tình hình bảo hiểm vật chất xe cơ
giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex.
- Nguyễn Thị Thủy (2009), “Xây dựng và phát triển pháp luật bảo hiểm tài
sản tại Việt Nam”. Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
- Lý Minh Triết (2006), “Pháp luật bảo hiểm tài sản - Thực trạng áp dụng và
hướng hoàn thiện”. Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Các công trình nghiên cứu kể trên đã đề cập và phân tích ở các cấp độ khác
nhau về những vấn đề lý luận, hệ thống hoá quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về bảo hiểm. Tổng hợp số liệu thống kê thực tiễn để từ đó đưa ra những bất
cập cùng những giải pháp kiến nghị đề xuất hoàn thiện. Một số công trình cũng đưa
ra các quan điểm về các giải pháp khác về hoàn thiện pháp luật bảo hiểm. Luận văn
sẽ tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu khoa
học nói trên làm nền tảng lí luận cho đề tài.
Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu kể trên nghiên cứu vấn đề bảo hiểm,
hợp đồng bảo hiểm và tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm đặt trong một lĩnh vực hay
địa bàn nhất định, chưa có công trình thể hiện nghiên cứu toàn diện về giải quyết
tranh chấp bảo hiểm. Do đó, trên cơ sở các nghiên cứu này, tác giả tiếp tục phân
tích sâu, đưa ra những bình luận, nhận định khoa học và kiến nghị, giải pháp riêng
của mình để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm và giải quyết tranh chấp bảo
hiểm.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hiểm và giải quyết tranh chấp
bảo hiểm.
Nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm và giải quyết tranh chấp
bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay.

10


3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
- Nghiên cứu khái quát về bảo hiểm và tranh chấp thương mại về bảo hiểm,
bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, bản chất, vai trò.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp bảo hiểm
và việc áp dụng các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp bảo hiểm trong
giai đoạn hiện nay.
- Về không gian: Nghiên cứu pháp luật về giải quyết tranh chấp bảo hiểm
trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
- Về thời gian: Nghiên cứu trong thời gian từ năm 2012 đến tháng 8/2018.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về giải quyết
tranh chấp thương mại về bảo hiểm cùng quá trình thực hiện các quy định của pháp
luật trên thực tiễn, Luận văn hướng đến mục đích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
cho các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp bảo hiểm ở Việt
Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, đề tài nghiên cứu cần thực hiện các nhiệm vụ cơ
bản sau:

- Làm rõ các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại về bảo hiểm.
- Phân tích đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật từ
đó chỉ ra những ưu điểm, những bất cập, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá
trình thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay.

11


- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật đưa ra những định hướng
và các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về giải quyết tranh chấp thương mại về bảo hiểm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo hiểm và giải quyết tranh chấp bảo hiểm.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là
các phương pháp phân tích và tổng hợp, các phương pháp định tính, định lượng. Cụ
thể phương pháp nghiên cứu của từng chương như sau: Chương 1: Tác giả sử dụng
chủ yếu phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống để đưa ra
những vấn đề lý luận cơ bản về tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm;
Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp luật học
so sánh và phương pháp thống kê để làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành và
thực tiễn thực hiện pháp luật về tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm;
Chương 3: Tác giả sử dụng phương pháp liên hệ, tổng hợp, hệ thống và đối chiếu để
đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tranh
chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận:
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về giải quyết tranh
chấp bảo hiểm nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề

này. Do đó, luận văn có những đóng góp về mặt lý luận như sau:
- Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm và giải quyết tranh chấp
bảo hiểm;
- Luận văn làm rõ nội dung cơ bản cũng như các bất cập trong quy định pháp
luật Việt Nam hiện nay về giải quyết tranh chấp bảo hiểm;

12


- Luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật Việt Nam và thực thi pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp bảo
hiểm.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Với kết quả phân tích, đánh giá quy định của pháp luật giải quyết tranh
chấp bảo hiểm và thực tiễn thi hành ở Việt Nam hiện nay, luận văn góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến giải quyết tranh chấp bảo hiểm.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các chuyên gia, sinh
viên, học viên cao học tại các Trường Đại học và những người quan tâm nghiên cứu
về pháp luật giải quyết tranh chấp bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 03 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại về bảo
hiểm
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyết
tranh chấp thương mại về bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyết
tranh chấp thương mại về bảo hiểm

13



CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VỀ BẢO HIỂM
1.1. Một số khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Khái niệm và bản chất của bảo hiểm
Khái niệm bảo hiểm được nhiều học giả trên thế giới quan tâm và tìm hiểu.
Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số
ít. Theo Monique Gaullier:2 Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người
được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong
muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận
được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo
hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt
hại theo các phương pháp của thống kê. Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định
nghĩa:3 Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay
một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường
cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị
thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm. Luật Kinh doanh bảo hiểm năm
2010 xác định: Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm
mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được
bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo
hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.4

2

Dr. David Bland, Insurace Principles and Practice, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 1998, tr.8.
Nguyễn Văn Định (chủ biên), Giáo trình bảo hiểm, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà
Nội, 2008, tr.10.
4

Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010, khoản 1 Điều 3.
3

14


Như vậy các khái niệm nói trên đã ít nhiều lột tả được bản chất của bảo hiểm
trên các khía cạnh về rủi ro, sự chuyển giao rủi ro giữa người được bảo hiểm và
người bảo hiểm thông qua phí bảo hiểm và số tiền bồi thường hoặc chi trả khi người
được bảo hiểm gặp phải rủi ro tổn thất.

Trên cơ sở các quan điểm, có thể đưa ra khái niệm bảo hiểm như sau: “Bảo
hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính, thông qua đó một cá nhân hay một tổ chức
có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả bảo hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo
hiểm xảy ra nhờ vào khoản đóng góp phí bảo hiểm cho mình hay cho người thứ ba.
Khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này là do một tổ chức đảm nhiệm, tổ chức này
có trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện bảo hiểm và bù trừ chúng theo quy luật
thống nhất.”
Về bản chất bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người
cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo hiểm hoạt động dựa trên
quy luật số đông, mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định cuộc sống và
sản xuất cho những người tham gia và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế và
xã hội đất nước. Chính vì vậy, bản chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng
sản phẩm quốc nội giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về
tài chính phát sinh khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm.
Tuy nhiên, phân phối trong bảo hiểm chủ yếu là phân phối không đều và phần lớn
không mang tính bồi hoàn trực tiếp (trừ một số loại hình bảo hiểm như bảo hiểm
nhân thọ và bảo hiểm hưu trí).
Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm với người được
bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thoả

thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng
bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.
Bằng sự đóng góp của số đông người vào một quỹ chung, khi có rủi ro, quỹ
sẽ có đủ khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất của số ít. Mỗi cá nhân hay

15


đơn vị chỉ cần đóng góp một khoản tiền trích từ thu nhập cho các công ty bảo hiểm.
Khi tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm nào đó, nếu gặp tổn thất do rủi ro được bảo
hiểm gây ra, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường. Khoản tiền bồi thường này
được lấy từ số phí mà tất cả những người tham gia bảo hiểm đã nộp. Tất nhiên, chỉ
có một số người tham gia bảo hiểm gặp tổn thất, còn những người không gặp tổn
thất sẽ mất không số phí bảo hiểm. Như vậy, có thể thấy, thực chất của bảo hiểm là
việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia
bảo hiểm cùng chịu. Do đó, một nghiệp vụ bảo hiểm muốn tiến hành được phải có
nhiều người tham gia, tức là, bảo hiểm chỉ hoạt động được trên cơ sở luật số đông,
càng nhiều người tham gia thì xác suất xảy ra rủi ro đối với mỗi người càng nhỏ và
bảo hiểm càng có lãi
Với hình thức số đông bù cho số ít người bị thiệt hại, tổ chức bảo hiểm sẽ giúp
giảm thiểu thiệt hại kinh tế của từng cá nhân hay đơn vị khi gặp rủi ro, tiết kiệm
được nguồn chi cho ngân sách nhà nước. Như vậy, thực chất mối quan hệ trong hoạt
động bảo hiểm không chỉ là mối quan hệ giữa người bảo hiểm và người được bảo
hiểm, mà suy rộng ra, nó là tổng thể các mối quan hệ giữa những người được bảo
hiểm trong cộng đồng xoay quanh việc hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm. Quỹ
bảo hiểm được tạo lập thông qua việc huy động phí bảo hiểm, số người tham gia
càng đông thì quĩ càng lớn. Quỹ được sử dụng trước hết và chủ yếu là để bù đắp
những tổn thất cho người được bảo hiểm, không làm ảnh hưởng đến sự liên tục của
đời sống xã hội và hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế. Ngoài ra, quỹ
còn được dùng để trang trải chi phí, tạo nên nguồn vốn đầu tư cho xã hội. Bảo hiểm

thực chất là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối lại
tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị, nhằm hình thành và sử dụng quĩ bảo
hiểm cho mục đích bù đắp tổn thất do rủi ro bất ngờ xảy ra với người được bảo
hiểm, đảm bảo quá trình tái sản xuất được thường xuyên, liên tục.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày nay đã đạt đến trình độ phát triển cao ở
nhiều nước trên thế giới, với rất nhiều loại hình, cũng như đối tượng được bảo hiểm

16


ngày càng rộng mở và trở nên hết sức phong phú. Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm
vẫn được tiến hành trên cơ sở một số nguyên tắc cơ bản của nó.
Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn: nguyên tắc
này chỉ ra rằng người bảo hiểm chỉ bảo hiểm một rủi ro, tức là bảo hiểm một sự cố,
một tai nạn, tai hoạ, xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con
người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra, cũng như
chỉ bồi thường những thiệt hại, mất mát do rủi ro gây ra chứ không bồi thường cho
những thiệt hại chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra. Như vậy, người ta chỉ bảo
hiểm cho những gì có tính chất rủi ro, bất ngờ, không lường trước được, nghĩa là
không bảo hiểm cái gì đã xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra. Bởi lẽ, bảo hiểm được
thực hiện chính là nhằm giải quyết hậu quả của những sự cố rủi ro ngoài ý muốn
của con người, những rủi ro mà con người không thể hạn chế được hoặc chỉ hạn chế
được phần nào. Người khai thác không nhận bảo hiểm khi biết chắc chắn rủi ro
được bảo hiểm sẽ xảy ra, ví dụ như xe cơ giới không đảm bảo an toàn kỹ thuật, con
tàu không đủ khả năng đi biển... Người ta cũng không bảo hiểm cho những gì đã
xảy ra, ví dụ như bảo hiểm cho tàu, xe sau khi chúng đã gặp tai nạn.
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: tất cả các giao dịch kinh doanh cần được
thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực với nhau. Tuy nhiên, trong bảo
hiểm, điều này được thể hiện trên một nguyên tắc chặt chẽ hơn, và ràng buộc cao
hơn về mặt trách nhiệm. Theo nguyên tắc này, hai bên trong mối quan hệ bảo hiểm

(người bảo hiểm và người được bảo hiểm) phải tuyệt đối trung thực với nhau, tin
tuởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính
xác, trung thực của thông tin cung cấp cho bên kia. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách
nhiệm giữ bí mật về thông tin do bên mua bảo hiểm cung cấp. Nếu một bên vi phạm
thì hợp đồng bảo hiểm trở nên không có hiệu lực.
Người bảo hiểm phải công khai tuyên bố những điều kiện, nguyên tắc, thể lệ,
giá cả bảo hiểm... cho người được bảo hiểm biết. Ví dụ, trong bảo hiểm hàng hải,
mặt 1 của đơn bảo hiểm bao gồm các nội dung như điều kiện bảo hiểm, giá trị bảo
hiểm, số tiền bảo hiểm, tỷ lệ bảo hiểm..., mặt 2 bao gồm quy tắc, thể lệ bảo hiểm

17


của công ty bảo hiểm có liên quan. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp
bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo
hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm. Người
bảo hiểm cũng không được nhận bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đã đến nơi
an toàn.
Người được bảo hiểm phải khai báo chính xác các chi tiết liên quan đến đối
tượng bảo hiểm. Họ cũng phải thông báo kịp thời những thay đổi về đối tượng bảo
hiểm, về rủi ro, về những mối đe dọa nguy hiểm hay làm tăng thêm rủi ro...mà mình
biết được hoặc đáng lẽ phải biết. Người được bảo hiểm cũng không được mua bảo
hiểm cho đối tượng bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm khi biết đối tượng bảo
hiểm đó đã bị tổn thấ
Sở dĩ có nguyên tắc này là vì trong giao dịch bảo hiểm, chỉ có người chủ
(hoặc người quản lý, sử dụng) mới biết được tất cả mọi yếu tố của đối tượng bảo
hiểm, biết rủi ro mình yêu cầu bảo hiểm, còn người bảo hiểm thường không biết rõ
rủi ro mà chỉ dựa vào những thông tin do người yêu cầu bảo hiểm cung cấp để xét
đoán mức độ rủi ro và quyết định thái độ của mình đối với rủi ro: nhận hay không
nhận bảo hiểm, nhận bảo hiểm theo điều kiện, điều khoản như thế nào và tính tỉ lệ

phí bảo hiểm bao nhiêu... Do đó, người yêu cầu bảo hiểm phải có trách nhiệm khai
báo mọi yếu tố liên quan một cách đầy đủ và trung thực và phải khai báo sự phát
sinh các yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng đến đối tượng được bảo hiểm trong suốt
thời gian hợp đồng có hiệu lực hoặc khi tái tục hợp đồng. Ví như khi tàu, xe đã gặp
tai nạn, chủ tàu, chủ xe mới tham gia bảo hiểm để được bồi thường, bằng cách mua
bảo hiểm ghi lùi lại ngày tháng trước tai nạn, hoặc tìm cách để có hồ sơ tai nạn ghi
ngày tháng xảy ra sau ngày mua bảo hiểm. Trong trường hợp đó, người bảo hiểm
sau khi biết người được bảo hiểm không khai báo thật, có quyền huỷ bỏ hợp đồng
bảo hiểm hoặc không bồi thường tổn thất xảy ra.
Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm: quyền lợi có thể được bảo hiểm,
hay lợi ích bảo hiểm, là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài
sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. Như

18


vậy, quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan đến, gắn
liền với, hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm.
Người nào có quyền lợi có thể được bảo hiểm ở một đối tượng bảo hiểm nào đó có
nghĩa là quyền lợi của người đó sẽ được đảm bảo nếu đối tượng đó được an toàn, và
ngược lại, quyền lợi của người đó sẽ bị phương hại nếu đối tượng bảo hiểm đó gặp
rủi ro. Nói khác đi, người có quyền lợi có thể được bảo hiểm là người bị thiệt hại về
tài chính khi đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro. Người có quyền lợi có thể được bảo
hiểm là người có một số quan hệ với đối tượng bảo hiểm được pháp luật công nhận.
Đó có thể là người chủ sở hữu của đối tượng bảo hiểm đó, người chịu trách nhiệm
quản lý tài sản hoặc người nhận cầm cố tài sản. Quyền lợi có thể được bảo hiểm có
ý nghĩa rất to lớn trong bảo hiểm, có quyền lợi có thể được bảo hiểm thì mới được
ký kết hợp đồng bảo hiểm. Khi xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm đã phải có
quyền lợi có thể được bảo hiểm rồi mới được bồi thường.
Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm chỉ ra rằng, người được bảo

hiểm muốn mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm
có thể là quyền lợi đã có hoặc sẽ có trong đối tượng bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng
hải, quyền lợi có thể được bảo hiểm không nhất thiết phải có khi ký kết hợp đồng
bảo hiểm, nhưng nhất thiết phải có khi xảy ra tổn thất.
Nguyên tắc bồi thường: “Bồi thường” có thể được hiểu là “sự bảo vệ hoặc
đảm bảo cho thiệt hại hoặc tổn thất phát sinh từ trách nhiệm pháp lý”. Ở đây, “đảm
bảo” và “bảo vệ” rất phù hợp với ý nghĩa của bảo hiểm. Mục đích của bảo hiểm
chính là nhằm khôi phục vị trí tài chính như ban đầu cho người được bảo hiểm ngay
sau khi tổn thất xảy ra. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có rất nhiều trường hợp các
công ty bảo hiểm không thể khôi phục được hoàn toàn vị trí tài chính ban đầu cho
người được bảo hiểm mà chỉ có thể cố gắng khôi phục được gần như thế.
Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi
thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài chính như
trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém. Các bên không được lợi dụng
bảo hiểm để trục lợi. Trong bảo hiểm, số tiền bồi thường mà một công ty bảo hiểm

19


trả cho người được bảo hiểm trong một rủi ro được bảo hiểm không vượt quá số
tiền bảo hiểm, không được lớn hơn thiệt hại thực tế. Người được bảo hiểm cũng
không thể được bồi thường nhiều hơn thiệt hại do tổn thất, không được kiếm lời
bằng con đường bảo hiểm, tối đa người được bảo hiểm cũng chỉ được bồi thường
đầy đủ, chứ không thể nhiều hơn thiệt hại.
Ở đây, ta thấy có mối liên hệ giữa bồi thường và quyền lợi được bảo hiểm.
Khi xảy ra trường hợp phải bồi thường, số tiền trả cho người được bảo hiểm không
được vượt quá mức độ quyền lợi của người đó. Tuy nhiên, đôi khi, người được bảo
hiểm chỉ được nhận số tiền ít hơn giá trị lợi ích của họ. Cùng với quyền lợi được
bảo hiểm, nguyên tắc bồi thường phụ thuộc chủ yếu vào việc đánh giá tài chính, và
như vậy, khi xem xét giá trị sinh mạng, hoặc bồi thường thương tật con người,

chúng ta không thể đưa ra được số tiền chính xác.
Nguyên tắc thế quyền: Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo hiểm sau khi
bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để
đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình. Tất cả các khoản tiền nào có
thể thu hồi được để giảm bớt thiệt hại đều thuộc quyền sở hữu của người bảo hiểm,
tức là người đã trả tiền bồi thường tổn thất. Khi số tiền phải bồi thường càng lớn thì
việc áp dụng nguyên tắc thế quyền càng quan trọng và có ý nghĩa. Thế quyền có thể
được thực hiện trước hoặc sau khi bồi thường tổn thất. Trong trường hợp này, người
bảo hiểm được thay mặt người được bảo hiểm để làm việc với các bên liên quan. Để
thực hiện được nguyên tắc này, người được bảo hiểm phải cung cấp các biên bản,
giấy tờ, chứng từ, thư từ... cần thiết cho người bảo hiểm.

Điều cần chú ý là, người được bảo hiểm cũng có thể được bồi thường
từ một nguồn khác ngoài nguồn bồi thường từ công ty bảo hiểm, nhưng trong
trường hợp đó, bất cứ số tiền nào mà người được bảo hiểm thu được cũng
phải đặt dưới danh nghĩa của công ty bảo hiểm đã thực hiện bồi thường. Do
mối quan hệ chặt chẽ giữa thế quyền và bồi thường, một công ty bảo hiểm
không được phép thu nhiều hơn số tiền họ đã bồi thường. Người bảo hiểm chỉ
được thực hiện thế quyền ở mức độ tương đương với số tiền đã trả hoặc sẽ trả.

20


Điều này cũng có nghĩa là không chỉ người được bảo hiểm mà cả công ty bảo
hiểm đều không được phép thu lời từ việc thực hiện quyền của mình.
Cụ thể bản chất của bảo hiểm được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, rủi ro và sự tồn tại rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm. Theo cách
hiểu thông thường: rủi ro là một biến cố gây thiệt hại và không mong đợi. Để đối
phó với rủi ro, con người luôn phải tìm cách phòng vệ, bảo hiểm là một biện pháp
khắc phục hậu quả của rủi ro một cách hữu hiệu nhất.

Thứ hai, cơ chế chuyển giao rủi ro trong bảo hiểm được thực hiện giữa bên
tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm thông qua các cam kết bảo hiểm. Theo nguyên
tắc này bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí, bên bảo hiểm cam kết bồi
thường, chi trả khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Thứ ba, việc san sẻ, bù đắp tổn thất trong bảo hiểm được bên bảo hiểm tính
toán và quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất cũng như quỹ
bảo hiểm mà họ thiết lập dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít.
Thứ tư, bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải là một
hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, lợi ích của các bên phải được luật hóa
rất cụ thể và vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm rất quan trọng và
không thể thiếu được ở mỗi quốc gia.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm về tranh chấp thương mại về bảo hiểm
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về
quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu thuẫn
này có thể phát sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên
chúng được gọi theo ngành luật đó.

21


Theo từ điển thuật ngữ luật học: “Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là tranh
chấp giữa các bên trong việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng”5.
Trong lĩnh vực bảo hiểm, các chủ thể tiến hành giao dịch tuân thủ nguyên tắc
này bên tham gia bảo hiểm tiến hành hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ thương mại và xúc tiến thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm nhằm mục đích lợi
nhuận hoặc nhằm thực hiện chính sách kinh tế xã hội. Như vậy các bên tham gia
bảo hiểm có thể giao dịch mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Bên mua bảo hiểm
có nghĩa vụ đóng phí. Bên bán bảo hiểm cam kết bồi thường, chi trả khi có sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Trong quá trình giao dịch này, các bên có khả năng xảy ra tranh
chấp, mâu thuẫn về chi phí bảo hiểm hoặc về mức bồi thường, chi trả bảo hiểm

trong các hợp đồng bảo hiểm.
Chính vì vậy, có thể đưa ra khái niệm tranh chấp thương mại trong lĩnh vực
bảo hiểm như sau: “Tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm là những bất
đồng, xung đột, mâu thuẫn xảy ra trong quá trình ký kết, thực hiện và chấm dứt
giao dịch bảo hiểm”.
Tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm bao hàm các đặc điểm của
tranh chấp thương mại nhưng mang đặc trưng của tranh chấp trong lĩnh vực bảo
hiểm:

- Chủ thể trong tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm gồm có
người tiêu dùng và thương nhân cung ứng dịch vụ bảo hiểm. Các thương nhân cung
ứng dịch vụ bảo hiểm là các chủ thể tham gia hoạt động thương mại, chính là các
chủ thể tham gia toàn bộ quá trình từ lao động sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm cung
ứng các dịch vụ trên thị trường, các hoạt động xúc tiến, đầu tư thương mại, cung
ứng dịch vụ trên thị trường và các hoạt động khác trong lĩnh vực bảo hiểm với mục
đích tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, trên thực tế một bên chủ thể của tranh chấp thương
mại trong lĩnh vực bảo hiểm có thể là thương nhân hoặc các nhà đầu tư khác. Một
5

Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư Pháp (2006), Từ điển thuật ngữ luật học, nxb. Từ điển
bách khoa

22


bên trong tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm chính là cá nhân có nhu
cầu tham gia bảo hiểm.

- Tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm là tranh chấp xảy ra trong
quá trình thực hiện các hoạt động thương mại giữa các chủ thể, khi ít nhất một bên

cho là quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình bị bên kia xâm phạm, và yêu cầu phải
được giải quyết.

- Tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm phải là những tranh chấp
phát sinh trong hợp đồng đã cam kết giữa các bên.
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm giải quyết tranh chấp thương mại về bảo hiểm
Có thể nhận thấy, mối quan hệ trong hoạt động thương mại vừa mang tính
xung đột vừa hợp tác. Vì thế, khi xảy ra tranh chấp các bên luôn tìm cách nhanh
chóng để giải quyết các xung đột, mâu thuẫn này để sớm đưa hoạt động kinh doanh,
sản xuất của mình trở lại bình thường ổn định. Do đó, việc giải quyết tranh chấp
thương mại đòi hỏi các bên tranh chấp cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp phải
tiến hành nhanh chóng, kín đáo, không làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh
doanh của các bên đồng thời phải luôn đảm bảo được sự hợp tác trong hoạt động
thương mại.
Như đã phân tích, tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm là việc
phát sinh các mâu thuẫn, bất đồng từ hoạt động sản xuất, đầu tư hay cung ứng các
dịch vụ…về bảo hiểm. Đây là một trong các loại việc thuộc lĩnh vực tư, do đó các
bên có quyền thỏa thuận lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp thương mại ngay
từ trước khi nó xảy ra (quyền định liệu trước) hoặc sau khi tranh chấp xảy ra. Việc
lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của các bên được thực hiện trên cơ sở
sự nhanh chóng, ít tốn kém và phải đảm bảo các quyền tự do kinh doanh của các
chủ thể, không cản trở các hoạt động kinh doanh của chủ thể và không làm mất cơ
hội kinh doanh của họ.

23


Việc giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm là các bên
tranh chấp thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại
bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích trong hợp đồng bảo hiểm nhằm

bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Pháp luật giải quyết tranh chấp
thương mại là các quy định điều chỉnh quy trình tiến hành giải quyết các tranh chấp
thương mại, bao gồm các quy trình từ khi có tranh chấp đến khi quá trình giải quyết
tranh chấp hoàn thiện.
Tóm lại, giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm được hiểu
là quá trình phân xử để làm rõ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên, buộc bên vi
phạm nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm của mình đối với bên bị vi phạm. Việc
giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm được tiến hành khi có ít
nhất một bên cho rằng mình có quyền lợi hợp pháp bị bên kia xâm phạm và có yêu
cầu được giải quyết. Kết quả là các quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định lại
hoặc mâu thuẫn hay xung đột giữa các bên được dung hòa thông qua các phán quyết
của người đứng ra giải quyết tranh chấp.
Đặc điểm của pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo
hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm được thể hiện như sau:
Thứ nhất, khi xảy ra tranh chấp trong các hợp đồng bảo hiểm các bên có
quyền tự lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của mình bằng các con đường
khác nhau. Trên thực tế tranh chấp thương mại có thể được giải quyết bằng Tòa án
hoặc các phương thức khác ngoài Tòa án. Pháp luật giải quyết tranh chấp thương
mại quy định đối với các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại nói trên về
trình tự, thủ tục và các nội dung khác đảm bảo quá trình giải quyết tranh chấp
thương mại theo quy trình, đảm bảo tính pháp lý.
Thứ hai, trong trường hợp lựa chọn Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp
thương mại thì các bên phải tuân thủ triệt để nghiêm ngặt, chặt chẽ các quy định của
pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp được quy định tại BLTTDS 2015
và các văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật này.

24


1.2. Vai trò, nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại về bảo hiểm

1.2.1. Vai trò của tranh chấp thương mại trong lĩnh vực bảo hiểm
Thứ nhất, cùng với sự phát triển của kinh tế, tính đa dạng và phức tạp trong
quan hệ thương mại làm cho tranh chấp thương mại cũng trở lên phức tạp về nội
dung, gay gắt về mức độ tranh chấp và phong phú hơn nhiều về chủng loại xuất
phát từ lợi nhuận của các bên và sự hấp dẫn của nền kinh tế, việc giải quyết tranh
chấp là hết sức quan trọng và cần thiết.
Thứ hai, khi bắt đầu ký kết hợp đồng nói chung và hợp đồng bảo hiểm nói
riêng, các chủ thể không bao giờ muốn tranh chấp xảy ra bởi tranh chấp đồng nghĩa
với sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, làm gián đoạn quá trình kinh
doanh, tốn thời gian chi phí và công sức để giải quyết tranh chấp. Không những thế
còn liên quan đến chủ thể khác có quan hệ với các bên tranh chấp, uy tín của chủ
thể trên thương trường có thể bị ảnh hưởng, cũng như các yếu tố khác thuộc về bí
mật kinh doanh có thể bị tiết lộ hoặc bị lợi dụng... Chính vì vậy, giải quyết tranh
chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép hạn chế đến mức tối thiểu sự gián
đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở mức chi phí thấp nhất. Song, quan
trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp pháp và chính đáng của các
bên khi tham gia vào kinh tế thương mại.
Thứ ba, giải quyết tốt tranh chấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế. Muốn có một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ xã hội nói chung và
quan hệ kinh tế thương mại nói riêng phải được điều chỉnh bằng pháp luật, phải
đảm bảo bằng pháp luật. Việc đầu tiên là hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra bằng
cách đặt ra các chế định và chế tài tạo thành một "sân chơi" lành mạnh và công
bằng. Khi tranh chấp xảy ra phải có các thủ tục, biện pháp để giải quyết, nếu không
giải quyết kịp thời thì hậu quả sẽ dây dưa kéo dài và thiệt hại rất lớn. Điều đó không
những làm thiệt hại, kìm hãm phát triển nền kinh tế mà còn gây nên một khuyết
điểm lớn của môi trường kinh doanh, các chủ thể sau tranh chấp có thể "quay lưng"

25



×